Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Chốc Với “trong Những Thoáng Chốc”

27 Tháng Hai 202417:54(Xem: 893)
Một Chốc Với “trong Những Thoáng Chốc”

Một Chốc Với “trong Những Thoáng Chốc” 

Tiểu Lục Thần Phong

 

Đọc xong đã lâuđịnh bụng sẽ viết những cảm nhận nhưng cứ lần lữa hoài. Dẫu biết rằng “Phò mã tốt áo” không cần phải khen, nói chỉ thêm dở, tán thêm tệ, viết lại thừa nhưng không viết thì tâm cảm thấykhông yên. Cuối cùng rồi tôi cũng thắng được sự lười biếng để ngồi xuống trang trải chút tâm ý với đời.

Cuốn Trong Những Thoáng Chốc dày 350 trang là tập tùy bút và tạp ghi của nhà văn Vĩnh Hảo. Vĩnh Hảo là một cây bút đầy nội lực và sung mãn, anh viết trong suốt mấy chục năm ở hải ngoại. Anh đã cho xuất bản 13 tác phẩm văn và thơ, ngoài ra còn có hàng trăm bài viết khác trên các trang mạng của bạn bè. Anh còn có trang web www.vinhhao.info lưu giữ tất cả những sáng tác. Vĩnh Hảo vừa là họ tên và cũng là bút danh. Anh sinh ra trong một gia đìnhcó gốc hoàng tộc triều Nguyễn (nội tổ là Tuy Lý Vương). Cha là nhà văn Bửu Đáo và mẹ là nữ sĩ Trinh Tiên. Anh có đến 14 anh chị em và hơn nửa số đó đều là những nhà văn, nhà thơ, họa sĩ...Sở dĩtôi dài dòng một chút về anh vì tôi biết tánh anh khiêm hạ, ẩn mìnhít khi chịu xuất lộ hay phô bày. Thật tình thì không nói ra mọi người cũng biết về anh, vì suốt những thập niên cuối của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI anh là cây bút viết nhiều nhất và viết hay của văn đàn hải ngoại.

Đọc quyển Trong Những Thoáng Chốc cứ như nghe những lời tình tự tâm sự của anh. Văn phong nhẹ nhàng, từ tốn, tế nhị và rất tinh tế. Những nhận xét, những ý nghĩ, cái nhìn, sự quan sát của anh rất thú vị, đượm màu sắc và không khí thiền. Có những điều hay những sự việc rất bình thường trong đời sống, chúng ta cứ lướt qua, đến khi đọc Trong Những Thoáng Chốc mới vỡ lẽ ra: “À, thì ra là thế!”. Nhờ đọc quyển tùy bút và tạp ghi này mà tôi học thêm nhiều điều mới mẻ (trong khi nó vốn bình thường trước kia). Văn anh viết cứ như anh “Tự bạch” với bản thân mình. Anh tự nói chuyện với chính mình. Tôi cảm nhận anh không hề đặt mục đích “Văn dĩ tải đạo” và cũng chẳng dùng đao to búa lớn kiểu “gởi thông điệp”… Đơn giản là anh chỉ bộc bạch nỗi lòng của một người con nước Việt, một tay du sĩ lãng mạn nhưng gan dạ, một cư sĩ đầy nhiệt huyết, tín tâm và có chánh kiến, chánh tư duy…

“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...” Những dòng chữ này thể hiện cái quy luật sanh – trụ – dị – diệt mà nhà phật thường nói. Thoáng chốc mong manh nhưng đẹp vô ngần, cái đẹp nào cũng mong manh. Có lẽ để ca tụng cái đẹp mong manh mà nhà văn Vĩnh Hảo lấy tên quyển sách Trong Những Thoáng Chốc.

Sống ở đời, ai ai cũng hám danh, trước cái tên phải gắn vào một lô những chức tước, danh xưng, phẩm hàm, học vị… Nỗi khổ vì ham gắn thêm những mỹ tính từ vào cái tên hay cố hủy bỏ những xú tính từ đi liền với cái tên làm cho con người ta “Điên đảo” vô cùng. Hầu hết người đời chẳng ý thứcđược việc này. Anh đã viết những dòng chữ: “Mình còn không có thì cái tên của mình làm gì có được nhỉ? Nghệ thuật sống vui ở đời là hãy quên mình đi. Nhưng muốn quên mình, trước hết hãy quên cái tên của mình cái đã. Cái tên mà không quên được thì cái “mình” không thể quên được đâu.”  Những dòng chữ nhỏ nhẹ nhưng nặng ký của một người hiểu rõ vô ngãthực hành vô ngãquán sát thân và tâm. 
Ở bài Đồng Hồ, đọc xong chợt giật mình. Cái đồng hồ là vật để xem thời gian, nó quen thuộc đến độ gần như chẳng ai có ý niệm với nó. Nó có mặt khắp mọi nơi, nhưng trong mắt nhà văn Vĩnh Hảo thì “Nó” không chỉ là “Nó” . Nó còn là một triết lý nhưng dễ mấy ai nhận ra: “Nó không bao giờ đi luimột bước nào. Nó luôn bước tới. Không một mảy may nhìn về quá khứHiện tại cũng mơ hồ đối với nó: dường như có, dường như không; chỉ một thoáng tồn tại rồi bị vượt qua, bị bỏ quên”. Thời gian vốn không thậtquá khứ – hiện tại – tương lai vốn từ một niệm tâm mà ra. Cái đồng hồ tưởng chỉ là vật để xem thời gian nhưng xem ra bản thân nó cũng là một bài học, một sự nhắc nhở đối với những người sống có chánh niệm.

Anh Vĩnh Hảo nho nhã, hiền lành nhưng rất bản lãnh. Khi Trịnh Công Sơn bị nhiều người quá khíchtấn công bằng nhiều ngôn từ tàn tệ và chụp đủ thứ mũ bậy bạ. Anh can đảm viết bài phân tích những sai quấy của người quá khích, bày tỏ sự thông cảm với nhạc sĩ họ Trịnh, trân trọng những đóng góp vô cùng to lớn vào nền âm nhạc nước Việt của người nhạc sĩ họ Trịnh. Vĩnh Hảo viết: “Trịnh Công Sơn làm đúng thiên chức của một người nghệ sĩ đứng trên mọi phe phía. Vào cái thời điểm căng thẳng, ngột ngạt mà có lẽ chính bản thân bạn và chúng tôi cũng thế, run rẩy, dè dặt, rút vào bóng tối, thì Trịnh Công Sơn một mình, một cây đàn, đứng lên giữa bao họng súng ngờm ngờm tiến vào thủ đô miền Nam, cất lên tiếng hát chân thành tha thiết, nói lên ước vọng chung của người dân hai miền...” - (bài Trịnh Công Sơn – Nối vòng tay lớn). Trịnh Công Sơn là một trường hợp khó phân định rạch ròi, bên nào cũng có thành kiến và nghi kỵ Mỗi người lại có cách nhận định khác nhau, tùy theo vị trí và quan điểm của mình. Duy tài năng của người nhạc sĩ thì không một ai có thể phủ nhận. Vĩnh Hảo trân trọng và bày tỏ sự cảm thông với người nhạc sĩ, tất nhiên điều này đã khiến những kẻ quá khích không hài lòng. Trong nước có nhà văn Ban Mai viết quyển “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” ca ngợi tài năng âm nhạc, ca từ của Trịnh Công Sơn cũng bị chính quyền đấu tố, thu hồi và thiêu hủy sách.(đôi khi vậy mà lại hay, chính quyền vô tình quảng bá tên tuổi của nhà văn Ban Mai, nhờ vậy mà giới viết lách hải ngoại biết đến chị)
Nhà văn Vĩnh Hảo là một người nho nhã, hiền lành nhưng bản lãnh có thừa. Anh từng viết kiến nghịkêu gọi văn nghệ sĩ ủng hộ việc chống lại sự chụp mũ, đấu tố thầy Tuệ Sỹ. Những kẻ quá khích lợi dụng tự do ngôn luận và có phương tiện truyền thông trong tay ngày đêm ra sức mạ lỵ, chụp mũ tấn công thầy, chỉ vì việc hoằng pháp không thuận theo ý đồ chính trị của bọn họ.

Trong bài: “Nhà Thơ và Nhà In”, nhà văn Vĩnh Hảo cho chúng thấy cái khả năng trào lộng, hóm hỉnh của mình thông qua câu chuyện đối đáp giữa một nhà thơ và nhân viên nhà in. Câu chuyện hư cấu nhưng rất hiện thực. Sách vở, thơ văn thê thảm như thế nào giữa thời buổi công nghệ tin học phát triển cao độ. Có không ít những nhà thơ tự huyễn hoặc mình, phô bày cái “tôi” quá lớn so với thực tàiKết thúc bài: “Nhà Thơ Và Nhà In” bằng đoạn văn để ngỏ cho người đọc tự hiểu lấy: “Không cãi nữa. Tan giờ làm việc. Lái xe về nhà, anh nhà in cứ thắc mắc tại sao anh thợ lại bảo ông thi sĩ kia là cựu sĩ quan pháo binh trong khi chính tai anh nghe là biệt động quân kia mà. Có ai hiểu ý anh thợ xin mách bảo giùm cho anh nhà in. tại sao lại là pháo binh chứ?”. Đọc xong tôi không khỏi tủm tỉm cười thầm một mình.

Cười xong lại đọc tiếp: “ Điên một chút, là một nghệ thuật. Điên vừa đủ để cười được, vừa đủ để xem nhẹ tất cả, vừa đủ để phủi tay một cái, đứng dậy, lên đường” ( bài Hãy Điên Một Chút Với Đời). Thật vậy, ở đời phải điên một chút, có “điên” mới thấy hạnh phúc. Sống mà tỉnh quá, lúc nào cũng tinh ranh, rành rẽ quá khó mà “sướng” được. Điên một chút với người, với đời thì dễ thươnghơn nhiều. Cuộc đời này vốn giả tạm, vốn vô thướng, có đó rồi lại không, chẳng có chi bền vữngtrường tồn như những câu khẩu hiệu: “Vạn tuế”, “Muôn Năm”, “Bất diệt”, “Sống Mãi”… Những kẻ đặt ra khẩu hiệu ấy, buộc mọi người phải tung hô khẩu hiệu ấy lại chính là những kẻ quá “Điên đảo mộng tưởng” (Tâm Kinh Bát Nhã). Phàm những người nghệ sĩ “Điên” một chút lại hạnh phúc, laị thăng hoa trong việc sáng tác hay trình diễn. Cái “Điên” của người nghệ sĩ khác xa với cái điên của bọn độc tài. Cái “Điên” của người nghệ sĩ đem lại hương hoa cho đời còn cái điên của bọn độc tàichỉ mang lại khổ đau, chết chóc, tai vạ…

Trong bài Hương Vị Xuân anh viết: “...Trao tặng quà là một mỹ tục quý hóa. Nhưng khi sự trao tặng đi đến chỗ tính toán, đổi chác, so đo, có qua có lại mới toại lòng nhau, thì mỹ tục sẽ trở thành hủ tục mà nếu hời hợt vô tình, sẽ không sao nhận biết. Đừng bao giờ cho rằng sự việc gì xảy ra ở xứ sở văn minh đều là văn minh...”. Chuyện tặng quà cho nhau vào những dịp lễ vốn là mỹ tục biểu tỏ tình cảm giữa con người với nhauTuy nhiên ngày nay tặng quà trở thành gánh nặng phải lo toan, tính toán, cân đo đong đếm sao cho vừa với từng mối quan hệ thân – sơ. Tặng quà đã bị truyền thôngvà thương mại kinh doanh lèo lái theo hướng thị trường, làm sao để người ta tiêu thụ hàng hóa được nhiều nhất mà chẳng cần biết đến ý nghĩa nhân văn, tinh thầnQuảng cáo và truyền thông đã thương mại hóa tất cả, đẩy chủ nghĩa vật chất lên tới cao độ nhất, khuếch trương chủ nghĩa vật chất một cách thô thiển nhất. Đúng như nhà văn nói, không phải sự việc gì xảy ra ở nơi văn minhcũng đều văn minh cả.

“Cảm ơn hoa đã vì ta nở” là một câu thơ của nhà thơ Tô Thùy Yên. Nhà văn Vĩnh Hảo mượn đó làm tiêu đề của bài viết. Anh viết: “...Hoa vẫn phát tiết và trọn vẹn mở hết lòng mình ra, không thắc mắc lựa chọn, không phân biệt so đo. Từ anh nông dân cho đến vị quốc vương, từ người tỷ phú đến kẻ ăn mày trắng tay, từ những hồng nhan kiều nữ cho đến kẻ bạc phận kém duyên...”. Mượn chuyện hoa để nói đến bình đẳng tánh giác của chúng sanh hay còn gọi là Phật tánh. Hoa nở dâng hương sắc không có phân biệt hay lựa chọn. Hoa hiến dâng hết mình cho người và muôn loài. Hoa chẳng vì một ai. Pháp Phật cũng thế, chẳng phân biệt già, trẻ, nam, nữ, sang, hèn… Pháp cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể học, ai cũng có thể tu và ai cũng có thể giác ngộ như nhau. Pháp hay hoa chẳng hai mà cũng chẳng một. Con người học gì được ở hoa chưa?

Văn Vĩnh Hảo bàng bạc như mây trời, lại nhẹ nhàng như tơ người, phảng phất đượm vị thiền, đâu đó lại ngân lên tiếng chuông chùa tiêu sái sơ nguyên. Bản thân nhà văn đã từng xuất gia tu học, đã từng hùng tâm đởm lược toan bẻ nạng chống trời. Cái khí chất hào hùng trong tâm lượng tỏa ra:

Ơi kẻ lữ hành, ơi kẻ lữ hành

Lên đường, hãy cứ lên đường 
( Lời Ca Cho Kẻ Lên Đường)

Đường nào đây? Nhất định chẳng phải là đường công danh sự nghiệp, không phải đường danh lợiái tình, càng không là đường văn thơ phù phiếm. Đây chính là lên đường giải thoát, đường hướng tới phương trời cao rộng, đường liễu sanh thoát tử. Tuy nhiên trong lúc tạm thời thì dấn thân đường cứu khổ phò nguy, ra sức hoằng dương chánh pháp, hết mình trong công việc văn hóa – giáo dục. Nhà Văn Vĩnh Hảo đã sáng lập và điều hành tờ Phương Trời Cao Rộng, tiếc rằng thời tiết nhân duyên không thuận, tăng - tục thờ ơ, cộng với thời buổi công nghệ kỹ thuật phát triển… nên tờ báo yểu mệnh, chỉ tồn tại được hai năm. Tiếp đó anh lại làm chủ bút của nguyệt san Chánh Pháp. Tạp chí duy trì được mười mấy năm nay, tuy là báo tôn giáo nhưng với tư tưởng phóng khoáng anh đã dành “đất” cho văn hóa, nghệ thuật… Dùng nghệ thuật để chuyển tải Phật pháp, dùng nghệ thuật để thực hiện sứ mệnh hoằng phápvăn hóagiáo dục
Quét rác là một công việc thường nhật, vốn chẳng có chi để nói, tuy nhiên với cái nhìn tỉnh thức của một cư sĩ Phật giáo thì lại có chuyện rất đáng để nói. Nếu như thi sĩ Quách Tấn từng bảo trước tết là hoa sau tết là rác, hoa với rác vốn không hai mà cũng chẳng một. Hoa cũng chính là rác mà rác cũng là hoa. Rác bên ngoài thì dễ thấy, dễ nhận biết và dễ dọn dẹp. Rác trong tâm mới khó biết, khó quét dọn tẩy trừ, bởi vậy cho nên: “ Quét dọn rác rến, lau chùi bụi bặm là hiện tướng, cũng là hiện tượng, của việc trau luyện nội tâm, tịnh hóa ý niệm. “Thời thời thường phất thức, vật sử nhạ trần ai”(kệ của Thần Tú). Lau chùi trong từng giây phút, từng niệm, đừng để bụi rác bám vào”

Với bài Sống Với Người Việt thì nhà văn đặt lại vấn đề mà hầu hết chúng ta đều quan tâm, ấy là cái căn cước Việt, cái tâm thức Việt. Người Việt vừa tự tôn lại vừa tự ti, vừa muốn sống chung với nhau nhưng lại vừa kình chống nhau dữ dội. Có không ít người tránh né xa cộng đồng Việt, luôn miệng chê những tánh xấu của người Việt, khổ nỗi vẫn không thể nào bỏ được cái căn cước Việt, cái nhân dáng Việt, cái văn hóa Việt. Cụ thể hơn là bữa cơm không thể thiếu chén nước mắn, ăn gì ăn nhưng cũng quay về với cơm, tránh né thế nào rồi cũng ra chợ Việt mua những món yêu thích hay thèm thuồng. Trong bài này nhà văn viết: “… Còn nói là món (hay hương liệu/đồ gia vị) “quốc hồn quốc túy” thì phải kể đến nước mắm và mắm ruốc, mắm nêm...”. Bài này chia thành ba mệnh đề: Thích gần chợ Việt, thích thức ăn Việt, thích nhìn thấy người Việt, thích nghe và đọc tiếng Việt. Quý vị hãy đọc đi để cảm nhận thêm và cảm nhận riêng.

Quyển sách dày 350 trang, từ trang đầu đến trang 298 là tùy bút và tạp ghi, từ trang 299 đến trang 350 là những bài trả lời phỏng vấn và những lá thư tòa soạn. Tờ báo Chánh Pháp bắt đầu từ năm 2009 với khổ 10.75”x 13”, sau khi ra được 31 số thì đến tháng 12/ 2011 chuyển qua bộ mới với khổ 8.5”x 11”. Mỗi tháng ra một số và mỗi số anh Vĩnh Hảo viết một lá thư toà soạn, tùy theo sự kiệnlịch sửvăn hóa và hoàn cảnh xã hội mà mỗi lá thư có một chủ đề khác nhau. Ở lá thư tòa soạn số 1 của bộ mới đã đề cập đến động đất Nhật Bản, sóng thần Thái Lan, cách mạng hoa lài Tunisia lan rộng khắp Trung Đông, châu Phi, cả thế giới rúng động. Thế giới vô thường luôn biến chuyển, khổ đau tràn ngập khắp mọi nơi, mọi giới và mọi loài. Học Phật để biết thế nào là khổ, vì sao khổ, cách hết khổ...Học Phật để sống sao cho an lạc giữa dòng đời biến độngbất an và khổ đau… Cứ như thế mỗi số một lá thư với mỗi chủ đề khác nhau, bắt đầu bằng lá thư: Khởi Đầu Cho Một Hành Trình, Lá Thư Xuân, Những Bước Chân Trần...và lá thư cuối trong quyển Trong Những Thoáng Chốc là Bất Sinh, tổng cộng được 25 lá thư tòa soạn của báo Chánh Pháp. Mỗi lá thư là một chủ đềcủa tờ nguyệt san tháng đó. 
Khép lại quyển sách, tâm trí tôi vẫn còn mơ màng với những dòng chữ nhẹ nhàng tuôn chảy như suối nguồn. Không khí, hơi văn và cả thanh âm, hình ảnh trong quyển sách nhẹ nhàng theo tôi vào giấc ngủ.

 

Tiểu Lục Thần Phong 
Ất Lăng thành, 0224

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1542)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1399)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1250)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1324)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1382)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1362)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1481)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1377)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1443)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1441)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1340)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1405)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1403)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2106)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1453)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1474)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1332)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1586)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1451)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1300)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1264)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1324)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1298)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1447)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1173)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1167)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1211)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1350)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1374)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1128)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1259)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1181)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1360)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1335)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1484)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1576)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1329)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1278)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1432)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1482)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1393)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1731)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1370)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1345)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1399)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1233)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1269)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1393)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1519)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant