Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

“Tu” Trong Đạo Phật

16 Tháng Ba 202416:10(Xem: 556)
“Tu” Trong Đạo Phật

“Tu” Trong Đạo Phật

Thích Nữ Hằng Như

 
chu tieu.jpg.4

I.  “TU” LÀ GÌ?

Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn. Cái tốt đẹp và lương thiện ở đây dựa trên nền tảng đạo đức không tổn hại người, không tổn hại mình, không tổn hại cả đôi bên.  

Nếu vô tình hay cố ý phạm lỗi lầm gây phiền não cho một người nào đó, hay làm tổn thương bất cứ một con vật nào, người ấy cảm thấy hối hận và có hành động sửa sai bằng cách xin lỗi, bù đắp sự tổn thương cho nạn nhân và nguyện trong lòng sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Hành động sửa sai tích cực này gọi là “tu”. Người sống ở đời mà giữ được tâm trong sạch, luôn có những hành động lời nói thiện lành, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, chung thủy với người bạn đời, chăm sóc con cái tử tế...  thì đó cũng là một hình thức “tu”tại gia vậy!

 Nghĩa chữ “tu”  không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó. Chẳng hạn như một người sống trong thiền viện ngoài vấn đề học hỏi kinh điển, người ấy tinh cần trong việc hành trì giới luậtthực tập phòng hộ các căn, tiết độ ăn uốngthực hành tứ thiền v.v... người đó được gọi là “người đang tu”. Như vậy chữ “tu” ở đây còn có nghĩa là “hành trì tu tập”, “giữ gìn thiện pháp”, “buông bỏ ác pháp”....

 

II. PHÁP “TU” CỦA CƯ SĨ TẠI GIA

Phật tử tại gia phát nguyện nương tựa vào Tam Bảothọ trì năm giới là điều cần thiết để tu. Những giới đó được kể như sau:

- Giới thứ nhất tại sao Đức Phật dạy không được sát sanh? Ở đời có loài hữu tình nào không ham sống sợ chết. Là người có tình cảm, chúng ta yêu quý sanh mạng của mình, tôn trọng sanh mạng của người thân mình, thì không có lý do gì hại sinh mạng người, vật, đang sống xung quanhmình.  Chẳng những không giết hại sinh mạng của chúng sanh, mà còn phải hết sức cứu giúp bảo vệ mạng sống của mọi người, mọi loài. Không thể thấy sinh vật hay người bị nạn mà làm lơ không cứu. Ngày nay có nhiều Phật tử chọn trường chay trong việc ăn uống, lại thường hay phóng sanhcá, rùa, ếch nhái, chim muông v.v... cho chúng được tự do thoát khỏi cái chết đang đe dọa. Đó là những việc làm từ bi nhằm bảo vệ sinh mạng loài hữu tình, dù chúng chỉ là loài động vật.

Giới cấm thứ hai là không được trộm cắp lấy của không cho. Tiền bạc của cải là mạch sống của con người. Muốn cho đời sống được bảo đảm người ta phải làm việc cật lực mới kiếm được đồng tiền nuôi sống gia đình. Nếu bị kẻ xấu trộm mất, thì gia đình người ta lâm vào hoàn cảnh túng thiếu, nhất là những gia đình không được dư giả. Thử đặt mình vào hoàn cảnh kẻ bị trộm thì mình có đau khổ hay không? Cho nên người tu chân chánh thì không được phạm giới trộm cắp, ngược lại nên bố thí giúp đỡ những hoàn cảnh ngặt nghèo, khó khăn, trong khả năng của mình.

 - Giới cấm thứ ba là không tà hạnh mà phải sống với chánh hạnhTà hạnh đây là xâm phạm đến tiết hạnh của người khác. Người giữ được giới này bảo vệ được hạnh phúc gia đình. Nếu vợ hoặc chồng chia sớt tình cảm, liên hệ tình dục với người ngoài, sẽ biến gia đình đang hạnh phúc trở thành địa ngục trần gian, noi gương xấu cho con cháu. Cho nên mình muốn bảo vệ tình cảm gia đình mình, thì không nên phá hoại tình cảm gia đình người khác.

Giới cấm thứ tư là không nói dối. Sống trong một nhà, chồng vợ nói dối với nhau nhiều lần, khi bị phát giác sẽ làm mất niềm tin yêu của nhau, cuộc sống không còn tự nhiên, là một trong nhiều cơ hội dễ đưa tới sự tan vỡ. Ngoài  cộng đồng, nơi công sở, mình có tật hay nói dối, sẽ có một ngày người ta biết được. Thế là mình sẽ bị mọi người ghét bỏ và xa lánh. Cho nên Đức Phật dạy sống ở đời không nên nói dối, không nói lời lường gạt để thủ lợi, hay chia rẻ người này với người kia, không nói lời hung dữ, tục tằn mà nói lời thanh tao nhẹ nhàng và chân thật.

- Giới thứ năm là không uống rượu mạnh, ngày nay thuốc phiện, xì ke, ma túy hay những loại thuốc làm thần kinh mê muội, cũng được kể vào giới cấm này. Chất rượu mạnh làm tổn thương nội tạng của người ghiền rượu, làm cho tâm thần người say rượu không phân biệt được phải trái, đúng sai, nên có những hành động lời nói mất lý trí gây tổn hại đến người khác. Ngoài ra, người “nhậu say” lái xe trên đường phố thường gây tai nạn chết người. Khi chuyện đau lòng xảy ra, có hối hậncũng vô ích. Vì thế người nào ghiền nhậu nhẹt, tham dự vào các trò chơi xì ke, ma túy...  là người đã phạm giới.

Gút lại, bước đầu vào đạo, Đức Phật dạy chúng ta phải giữ năm giới. Người tu  năm giới là người sống đạo đức ngoài đời cũng như trong đạo. Đạo đức vì người này đã mang niềm vui, hạnh phúccho người hay vật sống quanh mình. Khi tạo niềm an lạc hạnh phúc cho người khác, thì chính bản thân mình cũng sẽ hưởng được niềm an lạc hạnh phúc như người ta. Đó là nói khi còn sống trên cõi đời này, đến khi thân hoại mạng chung sẽ sanh về cõi lành. Cõi lành đó, có thể là cõi người, nhờ nhân thiện trong đời sống hiện tại sẽ sanh quả tốt trong đời sống tương lai, được trường thọan lạchạnh phúc v.v... hay cao thượng hơn được sanh lên cõi trời hưởng phước.

 

III. “TU” GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT

Tùy theo căn cơ và nguyện vọng của mỗi chúng sanh, trong đạo Phật có nhiều pháp tu cao thấp, khó dễ... khác nhau. Cư sĩ bình thường thọ trì năm giới giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, làm lành lánh dữ, đưa đến kết quả là ngay trong đời sống này, họ được hưởng niềm an vui hạnh phúc. Nhưng có nhiều người muốn tiến xa hơnmục tiêu của họ là hướng tới giác ngộ giải thoát, những vị đó từ bỏ đời sống gia đình gia nhập vào đoàn người xuất gia học Phật.

Tu giác ngộ giải thoát ngoài việc giữ thân khẩu ý thanh tịnhĐức Phật dạy các vị ấy phải tu tập và thành tựu các pháp thuộc Giới-Định-Huệ như sau:

1. Giới hạnh: Đầu tiên Đức Phật dạy người tu sĩ phải nghiêm trì Giới hạnh. Người giữ giới hạnh là người thọ trì các Giới do Đức Phật chế lập. Người ấy có đầy đủ oai nghi tế hạnh, thấy sự nguy hiểm của những lỗi từ nhỏ nhặt đến lỗi nặng ảnh hưởng đến đời sống đạo đức nên không dám phạm. Tu sĩ nam tức  Tỷ-kheo thọ trì 250 giới. Tu sĩ nữ tức Tỷ-kheo-ni thọ trì 348 giới.

2. Hộ trì các căn:  Pháp kế đến, Phật dạy người tu phải lo phòng hộ các căn. Các căn đây chính là sáu giác quan của con người.  Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.  Sáu căn này là sáu cánh cửa tiếp nhận sáu trần cảnh, nó có khả năng  đưa con người đến cảnh giới thanh tịnh giải thoát, hay cảnh giới trầm luân khổ đau, tùy nơi sự tu tập  thân tâm của người đó. Thông thường khi giác quan tiếp xúc với trần cảnh, ngay lúc đó tâm liền  khởi lên tham áiưu bilo lắng hay phiền não...   Đó là thói quen của người chưa biết tu pháp phòng hộ các căn.

Muốn thoát khỏi phiền nãoĐức Phật dạy phải hộ trì các căn, tức giữ cho các căn không bị độngbằng cách khi tiếp xúc với đối tượng không nắm giữ tướng chung, cũng không nắm giữ tướng riêng. Nghĩa là khi mắt thấy, tai nghe, lưỡi nếm, mũi ngửi, thân xúc chạm, chỉ biết cái đang là của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tức là tai nghe âm thanh chỉ biết đó là âm thanh. Mắt thấy sắc chỉ biết đó là sắc.  Lưỡi, mũi, thân tiếp xúc với vị, hương, mềm mại mát mẻ như thế nào thì biết như thế thôi, không suy nghĩ phán đoán gì thêm. Tập như vậy lâu dần tâm sẽ không có phản ứng khi các căn tiếp xúc với đối tượng. Đó là cách phòng hộ các căn. Khi các căn không động, thì tâm hànhgiả sẽ được yên lặng.

3. Tiết độ ăn uống: Ăn uống điều độ không ham thích chọn lựa thức ăn cầu kỳ hợp khẩu vị để trị tánh tham sân. Vấn đề ăn uống ở đây chỉ nhằm giúp duy trì bảo dưỡng thân không bị bệnh đói hành hạ, có thân khỏe mạnh để chấp trì phạm hạnh

4. Chú tâm cảnh giác: Trong mọi sinh hoạt ban ngày cũng như ban đêm. Khi kinh hànhtọa thiềntu tập trong bốn oai nghitâm trí gột khỏi các chướng ngại pháp như năm triền cái. Đó là từ bỏtham, sân, tăng lòng từ mẫn thương xót chúng sinh hữu tìnhTừ bỏ hôn trầm, tâm luôn tỉnh giácTừ bỏ trạo cửnội tâm được yên lặng. Từ bỏ nghi ngờ đối với các thiện pháp, vị ấy thoát khỏi sự phân vân lưỡng lự thẳng tiến một đường tu.

Ngoài ra còn có bảy diệu pháp người tu cần thành tựu đó là: 

1.Tín: Có lòng tin ở sự giác ngộ của Đức Phật. Ngài là bậc A-La-Hán, Chánh đẳng giácMinh hạnh túcThiện thệThế gian giảiVô thượng sĩĐiều ngự trượng phuThiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.

2. Tàm: Có lòng tự trọng, ghê sợ điều xấu xa tội lỗi.

3. Quý: Cảm thấy xấu hổ khi dư luận biết mình làm điều xấu ác.

4. Đa văn: Nghe, nhớ,  tích lủy những lời Phật dạy bằng cách hành trì tụng đọc, áp dụng vào việc tu tập hằng ngày.

5. Tinh tấn: Siêng năng, chuyên cần tu tập, hướng tâm đến việc thành tựu các thiện phápxa lìacác bất thiện pháp.

6. Niệm: Thành tựu niệm tuệ tối thắng. Biết rõ những gì xảy ra ngay trong thực tại.

7. Trí tuệ:  Trí biết rõ vô thường, khổ, vô ngã, biết rõ sự sinh diệt của ngũ uẩn.

Khi thành tựu những pháp nêu trên, Đức Phật khuyên các hành giả tìm chỗ thanh vắng tu tập thiềnĐịnh. Hành giả ngồi kiết già, đặt chánh niệm trước mặt,  từ bỏ năm pháp ô nhiễm làm yếu ớt sự phát huy trí huệ đó là tham, sân, hôn trầmtrạo cử,  hoài nghithuật ngữ gọi là năm triền cái

 - Sơ thiền: Vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc, do ly dụcsanh. Nhị thiền: Tầm tứ yên lặng, trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâmTam thiền: Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Thân cảm sự lạc thọ, mà bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú”. Tứ thiền: Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước. Tâm trở nên bất động. Chứng và trú tầng thiền thứ tư. Không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Phật dạy, hành giả cần tu tập cho đến khi chứng đắc bốn tầng thiền một cách dễ dàng, không khó khăn, không mệt mõi, không phí sức.

Trên đây là các pháp học pháp hànhĐức Phật giảng dạy cho  bậc hữu học, tâm chưa thành tựu vô thượng an tịnh các triền ách. Sau khi thành tựu những pháp nêu trên, bậc Thánh còn phải công phuđể tiến xa hơn, đoạn tận lậu hoặc, phát huy trí huệ tâm linh, chứng được ba minh: Túc mạng minhThiên nhãn minhLậu tận minh. Đến đây, việc tu hành đã hoàn mãn, các việc nên làm đã làm, đặt gánh nặng xuống. Các Ngài chứng quả A-La-Hán, không còn luân hồi sinh tử nữa.

 

IV. BỐN THÁNH QUẢ TRONG ĐẠO PHẬT

Con đường tu tập để thành tựu các Thánh quả trong đạo Phật là: Giới-Định-Huệ. Như giới thiệu ở phần trên, giữ Giới là pháp tu đầu tiên cho cả cư sĩ và tu sĩ. Giới là phương thức phòng hộ giác quantrợ duyên cho thiền Định. Tu Định là an trú vào các đề mục để thanh lọc và tịnh hóa tâmTâm địnhtăng tiến từ Sơ thiềnNhị thiềnTam thiền đến Tứ thiền

Từ tứ thiền hành giả chuyên tâm tu tập thiền Huệ, quán Vô thườngVô ngã đoạn trừ năm hạ phần Kiết sử (Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục, Sân) và năm thượng phần Kiết sử (Hữu áiVô hữu ái, Mạn, Trạo cử và Vô minh) để lần lượt chứng đắc bốn quả Thánh:

1. Sơ quả Tu-Đà-Hoàn (còn gọi là Dự lưuNhập lưu hoặc Thất lai): Bậc Tu-Đà-Hoàn đắc phápnhãn, thấy được thân tâm vô thường dẹp được Thân kiếnHiểu rõ Phật, Pháp, Tăng, dứt trừ hoài nghi về Tam BảoTuyệt đối tin vào Nhân quả, vị ấy trì Giớibố thítham thiền... không còn mê tínTu thiền Quán bậc Tu-Đà-Hoàn dẹp sạch ba Kiết sử đầu là Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ, chứng Sơ quả Tu-Đà-Hoàn, gọi là Thất lai, vì còn tái sanh 7 lần để tiếp tục tu tập chứng đạt quả tối thượng.

2. Nhị quả Tư-Đà-Hàm (Nhất lai): Quả vị này đã đoạn tận được ba Kiết sử đầu là Thân Kiến, Nghi và Giới cấm thủHộ trì các căn làm suy yếu hai Kiết sử kế tiếp là Tham Dục và Sân hận chứng quảTư-Đà-Hàm, còn một lần tái sanh  để tiếp tục tu tập chứng đắc quả tối thượng nên gọi là Nhất lai.

3. Tam quả A-Na-Hàm (Bất lai): Quả vị này đoạn trừ 100% năm hạ phần kiết sửThân kiến, Nghi,  Giới cấm thủ, Dục và Sân. Bậc A-Na-Hàm còn gọi là Bất lai vì không còn tái sanh vào cõi dục. Sau khi thân hoại mạng chung, thường sanh vào cõi Sắc hoặc Vô sắc. Từ đó tu hành và chứng quả tối thượng.

4. Tứ quả A-La-Hán (Bất sanh): Quả vị đã đoạn trừ hoàn toàn mười Kiết sử, gồm năm hạ phần Kiết sử kể trên và năm thượng phần Kiết sửHữu áiVô hữu ái, Mạn, Trạo cử và Vô minh.

Hữu ái tức là còn luyến ái sự hiện hữu trú vào cõi Sắc. Vô hữu ái tức thích sự không hiện hữu, ưa trú nơi cõi Vô Sắc. Nói cách khác tham đắm vào cõi Sắc và Vô Sắc là sự tham đắm vào bốn tầng thiền-na Hữu sắc và bốn tầng thiền-na Vô sắc tức là còn tưởng, còn tham. Mạn là tâm còn chấp sựchứng đắcTrạo cử là sự vấy động vi tế của tâm, kể cả sự thao thức về chứng ngộ. Vì còn vi tế lậu hoặc nên vẫn còn vi tế Vô minh. Phải đoạn trừ sạch sẽ lậu hoặc thì mới chứng được quả Bất sanh. Gọi là Bất sanh vì chứng đắc giải thoátan trú Niết-bàn không còn luân hồi nữa.

 

V. KẾT LUẬN

Mục đích của Phật Giáo là đoạn tận khổ đau, chứng đắc Thánh Quả giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Trên lộ trình tu tập các vị Thánh đệ tử của Phật phải đoạn trừ mười Kiết sử thông qua việc áp dụngtam vô lậu học: Giới-Định-Huệ.

Trong kinh có dạy người cư sĩ tại gia cũng có thể tu đắc quả A-La-Hán. Muốn đắc quả vị A-La-Hán, vị cư sĩ này đã thực sự cắt đứt tất cả những ràng buộc tham ái về tình cảm gia đình, cũng như vật chất thế gian, và con đường tu tập cũng phải vượt qua lộ trình đoạn tận mười Kiết sử, dẹp sạch lậu hoặc như lời Phật dạy. Nhưng khi chứng quả A-La-Hán, vị này phải xuất gia làm Tỷ-kheo, hoặc chủ động viên tịch ngay. Lý do là hình tướng tại gia không xứng với phẩm vị A-La-Hán. “Kinh Milinda Vấn Đáp” có ghi lại nguyên văn về vấn đề người tại gia chứng A-La-Hán như sau: “Người tại gianào đạt đến phẩm vị A-La-Hán, đối với vị này chỉ có hai lối đi, không có lối khác: Xuất gia nội trong ngày ấy, hoặc viên tịch Niết-bàn, ngày ấy không thể vượt qua”. (hết trích)

Bài viết này dựa trên kinh Nikãya nhằm cung ứng một vài khía cạnh cần biết trên đường tu học của thiền sinh Phật tử muốn tìm hiểu lộ trình tu tập trong đạo Phật như thế nào. Thực ra, trên con đường tu hướng đến giải thoát giác ngộĐức Phật có rất nhiều phương thức, tùy căn cơ của mỗi người mà Ngài chỉ dạy, nhưng phương thức nào cũng phải thông qua Giới-Định-Huệ. Trước khi rời bàn viết, chúng tôi nguyện chúc lành đến tất cả quý độc giả, quý Phật tử có duyên lành với Phật pháp, sớm lãnh hội được pháp học và pháp hành, sống một đời từ bitrí tuệ, và hạnh phúc.

 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                      THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

            (March 06-2024 An cư Kiết Xuân tại TV. CHÂN NHƯ, Texas)

 

Tài liệu 

-Kinh Trung Bộ I: Bài 39 và 40: Kinh Xóm Ngựa. - Kinh trung Bộ II-Bài 53: Kinh Hữu Học. -Bài 61: Giáo Giới La-Hầu-La ở rừng A-bà-la. Bài 62: Đại Kinh Giáo Giới La-Hầu-La.-Kinh Trung Bộ III-Bài 147: Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La- Kinh Milinda Vấn Đạo: “Câu hỏi về người tại gia chứng A-La-Hán”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1590)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1762)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1615)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1498)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1271)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1404)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1357)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1400)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1358)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1320)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1539)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1606)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1666)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1544)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1513)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1289)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1442)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1405)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1482)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1522)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1596)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1446)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1573)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1466)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1417)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1508)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1417)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1591)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1872)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1548)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1849)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1429)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1376)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1574)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1429)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1511)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1678)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1876)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1910)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1731)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1909)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1594)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1534)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2075)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1678)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1600)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1544)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1533)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant