Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Một thời làm điệu

23 Tháng Chín 201000:00(Xem: 22761)
Một thời làm điệu

Một thời làm điệu 

Ngày còn cái chỏm xinh xinh trên đầu, tôi cứ ngây ngất nhìn quý thầy đắp y vàng làm lễ mà ao ước. Mỗi khi trông quý thầy đắp y là tôi lại tính nhẩm coi còn bao lâu nữa tôi mới được diễm phúc khoác chiếc y vàng đó. Chỉ đơn giản như thế mà cũng trở thành ước mơ của một chú tiểu.

mot-thoi-lam-dieu-contentNgày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn. Nhiều lúc tôi thầm nguyện đức Phật biến tôi trở lại làm chú tiểu như năm xưa. Tôi thật sự nhớ những năm tháng đó. Tôi yêu những giây phút vui buồn đó. Tôi không muốn làm hòa thượng gì hết, chỉ muốn làm một chú tiểu vô tư hồn nhiên luôn có những ước mơ an lạc giải thoát trong giáo pháp.

Ngôi chùa tôi xuất gia nằm sâu trong một ngôi làng nhiều tre, dọc theo con sông. Trong khuôn viên chùa trồng rất nhiều cây ăn trái, nào xoài, ổi, mận, me và nhiều thứ hoa thơm khác như ngọc lan và hoa sứ. Vào những đêm trăng tròn mà thả bộ kinh hành trước sân chùa thì tuyệt vời. Ánh trăng chiếu xuyên qua kẽ lá rọi xuống đất khiến ta cứ tưởng là những thỏi vàng di động huyền ảo. Cứ mỗi khi các thỏi vàng di độngkhông gian màu sữa ấy cho ta thưởng thức mùi thơm thoang thoảng của sứ, của ngọc lan. Ánh sáng ấy, mùi hương ấy hòa lẫn với tiếng xào xạt của lá tạo thành một không gian mầu nhiệm nơi cửa Phật.

Nguyên nhân xuất gia của tôi không biết do đâu. Trước khi xuất gia tôi đã là vị “khách không mời” của chùa. Ngày nào tôi cũng đến “chăm sóc” mấy cây xoài, cây ổi mỗi khi mùa trái chín. Hết mùa trái chín thì vị khách đó cũng vắng bóng dần dần. Cứ mỗi lần tôi đi chùa như vậy là được các chú tiểu cùng tuổi với tôi vui mừng tiếp rước, không những thế mà quý thầy còn để dành cho tôi nào trái cây, bánh chuối sau những ngày rằm, mùng một. Như thế tôi quen dần và dĩ nhiên tôi trở thành một thực khách thường xuyên trong chùa. Nguyên nhân chính của tôi từ một đứa bé nghịch ngợm trở thành một chú tiểu hiền hòa có lẽ là do một số bánh chuối cúng Phật. Bởi vì khi dâng hương, hoa, quả phẩm cúng Phật, thí chủ đã phát Bồ-đề tâm rất rộng lớn. Cúng Phật rồi thì sau đó ai dùng cũng được, không nhất thiết phải là quý thầy, quý chú trong chùa. Ngày đó, tôi hưởng được nhiều bánh chuối cũng có nghĩa là tôi tiếp thu hạt giống Bồ-đề từ nhiều người khác nhau một cách gián tiếp. Nhờ hạt giống Bồ-đề ấy mà tôi trở nên hiền hòaxuất gia. Lúc đó, có vài lần tôi là một thính chúng bất đắc dĩ trong nhiều buổi thuyết pháp của thầy, nhưng tôi chẳng thấm một chút pháp vị, pháp lạc nào cả. Cái mà mang lại cho tôi nhiều pháp vị, pháp lạc nhất là vài trái chuối chín gần đen hay một đĩa xôi đã khô cứng trên mặt và một cái vuốt đầu nhẹ của thầy. Theo tôi, đó là bài pháp hay nhất, mang lại an lạc lâu nhất. Có lẽ do Bồ-đề tâm của các thí chủ thành kính quá cho nên đức Phật chứng giám và Ngài đã truyền vào trong nải chuối, đĩa xôi một chất liệu giải thoát. Ngày đó, tôi thường rủ mấy đứa bạn cùng làng lên chùa lượm trái cây để được quý thầy cho ăn bánh chuối và vuốt đầu, nhưng chẳng mấy đứa chịu đi. Thế mới biết những đứa ấy không đủ phước duyên để hưởng thụ hương vị Bồ-đề giải thoát của Phật. Cho đến khi tôi đã trở thành chú điệu, lúc nào tôi cảm thấy Bồ-đề tâm của tôi có phần yếu kém, tôi thường lẻn lên chánh điện, coi trước ngó sau cẩn thận, bẻ một trái chuối trên cỗ bồng hay xén bớt vài cái bánh in trên bàn Phật để bồi dưỡng Bồ-đề tâm. Mỗi lần bẻ chuối như vậy, tôi thường bẻ hàng dưới của nải chuối nằm giữa, sau đó hất qua hất lại cho lấp đi khoảng trống đó. Xén bánh in cũng vậy, lấy bớt một cái, sửa lại mấy cái kia cho đều để mọi người không nhận ra dấu mất. Tôi “chia xẻ” phần của đức Phật một cách lén lút như thế mà Ngài cũng vẫn mỉm cười tha thứ. Thật là đức Phật từ bi vô hạn. Chỉ có ông Hộ Pháp có ý gây rắc rối mà thôi, chống nạnh, trợn mắt, nghiêm mặt, nhưng tôi không sợ, vì tôi không lấy của ổng.

Một điều nữa cũng khiến cho tôi thích thúước mơ là những buổi chấp tác của các chú tiểu. Thì cũng mấy đứa bạn quen cùng lớp với tôi mà thôi, nhưng khi xuất gia, trên đầu chừa lại một lọn tóc cỏn con, mình mặc bộ áo vạc khách nâu sồng dài gần tới đầu gối thì đứa nào trông cũng dễ thương, cũng có dáng vẻ thanh cao giải thoát kỳ lạ. Không biết do lời kinh tiếng kệ hay do hấp thụ nét từ bihiền hòa của đức Phật mà đứa nào khi cạo tóc để chỏm gương mặt cũng trở nên sáng láng, nụ cười cũng tươi, toát lên một vẻ rất là thiên thần. Chính nét mặt đó, nụ cười đó và chỏm tóc đó đã chinh phục được thằng bé nghịch ngợm như tôi. Cũng mấy chuyện lặt vặt như rửa chén, nấu cơm, lặt rau mà tôi thường làm ở nhà, thế mà khi các chú làm thì trông đẹp lắm, cảm động lắm. Với bộ nâu sồng dài tới gối, các chú vừa lom khom quét nhà vừa đưa bàn tay nhỏ xíu vén lại cái chỏm mà thương. Khi các chú thọ trai, tôi thích nhìn các chú nâng chén cơm ngang trán cúng dường. Những bàn tay thiên thần nhỏ cũng bắt ấn. Tay trái thì co hai ngón giữa, ba ngón còn lại thẳng đứng lên để nâng bát cơm. Quý thầy thì dù có để bát cơm lên trên đấy cũng không sao, nhưng tội nghiệp cho các chú, ba ngón tay thẳng đứng đó muốn quỵ xuống. Tay phải thì ngón cái đè trên ngón áp út để ngang hông bát cơm. Trong những lúc quý thầy và các chú thọ trai như vậy, tôi chưa được phép ngồi chung, chỉ khi nào cúng dường xong, đến phần dùng cơm, tôi mới được ngồi cùng các chú ăn cơm. Khi đứng bên ngoài chắp tay trước ngực để hầu quý thầy cúng dường, tôi quan sát rất kỹ từ trên tới dưới. Quý thầy thì nghiêm trang, nhất tâm quán tưởng một cách thành kính, còn các chú thì vô tư hồn nhiên, quý thầy làm sao bắt chước làm vậy chứ chẳng hiểu nghĩa lý gì và tại sao làm vậy. Có chú thỉnh thoảng lắc lắc cái đầu một chút để cho cái chỏm khỏi rời vành tai. Chú đó mới làm điệu khoảng một năm, nên cái chỏm chưa đủ dài để an nghỉ trọn vẹn trên vành tai. Có vài chú chỏm rất dài, không những vắt ngang qua vành tai bên này mà còn có thể vắt qua vành tai bên kia nữa. Dễ thương nhất là mấy chú mới làm điệu khoảng vài tháng hay nửa năm, cái chỏm còn ngắn ngủn, thường rớt xuống che nửa vầng trán hay một con mắt.

Ngày ba mẹ tôi dẫn tôi lên chùa để xin thầy cho tôi được xuất gia tu hành, các chú trên chùa vui lắm. Ai cũng đến gần tôi đứng, chỉ đứng mà nhìn chứ không nói gì cả, sợ thầy quở. Ba mẹ tôi thưa với thầy rằng thôi thì cho tôi đi tu cho rồi, chứ một năm tôi đã ở trên chùa hết 300 ngày. Thầy tôi chỉ cười và nhận lời. Đơn giản như vậy mà tôi cũng được xuất gia. Lúc đó, tôi chỉ mới 8 tuổi. Thế là từ ngày ấy, tôi được mặc bộ đồ vạc khách nâu sồng. Mãi 3 tháng sau thì tôi mới được cạo tóc. Trên đầu tôi giờ đây cũng có một miếng chỏm ngắn trông như vết mực tàu khi viết nét thứ nhất của chữ NHƠN (người). Đối với mọi sinh hoạt trong chùa, tôi tưởng như quá quen thuộc, nhưng mọi việc hoàn toàn khác. Kể từ khi bộ nâu sồng và cái chỏm xuất hiện trên cơ thể nhỏ bé của tôi thì không khí thiền môncách sinh hoạt trong chùa lại chuyển sang một giai đoạn mới. Không phải quy củ thiền môn thay đổi mà giờ đây tôi thực sự nghiêm chỉnh hành trì mọi nguyên tắc, quy luật khắt khe trong chốn thiền môn. Lúc đó, tôi mới hiểu ra một điều rằng tại sao các chú trở nên dễ thương, dễ mến đến thế, là vì mọi nguyên tắc, quy luật trong chùa nhằm đào tạo con người từ thấp hèn trở nên cao thượng, thay đổi nếp sống bình phàm trở nên thánh thiện. Hàng ngày, tôi phải thức dậy từ rất sớm khi phía Đông chưa có một tia sáng. Vạn vật vẫn còn im lìm lắm, chỉ nghe từ xa vọng lại một vài tiếng gà gáy trong sương. Tôi được giao phó công việc thỉnh đại hồng chung thay cho chú có cái chỏm ngắn. Chú đó được theo quý thầy lên chánh điện tụng kinh. Vì tôi mới xuất gia chưa thuộc nhiều kinh, cho nên chỉ cầm quyển kinh nhỏ trong đó có bài nguyện chuông. Cứ đọc hết một bài kệ hay một danh hiệu của đức Phật, Bồ tát là thỉnh một tiếng chuông như trong quyển đó chỉ dẫn. Nhưng không phải bất cứ ai cầm quyển kinh nhỏ đó cũng có thể thỉnh chuông được. Phải tạo ra sự cân đối giữa hai tiếng chuông trong thời lượng hợp lý. Tiếng trước vừa hết ngân nga mới được thỉnh tiếng tiếp theo, cho dù mỗi bài kệ độ dài không giống nhau. Khi thỉnh chuông, tâm hồn phải tuyệt đối an tịnh để tạo ra một năng lượng tập trung cao độ. Dùng năng lượng ấy chuyển đi khắp cơ thể, vào từng cơ bắp, từng tế bào. Có như thế ta mới thỉnh được tiếng chuông vừa lớn, vừa ấm, vừa êm ngân vang trong không gian tĩnh lặng. Tiếng chuông như thế mới chuyển tải được năng lượng từ bi, năng lượng an tịnh. Tiếng chuông như thế mới khiến người nghe trút bỏ mọi ưu phiền, sanh đại trí tuệ, buông gánh nặng luân hồi xuống và tiếng chuông như thế mới đủ tầm cỡ xoa dịu những nỗi đau khổ nhất trong các cõi địa ngục. Cũng chuông đó, chày đó, mà mỗi người cho ra một âm thinh khác nhau. Có một vị cao tăng nói với đại chúng rằng “chỉ cần thỉnh ba tiếng chuông, tôi có thể biết được các vị tu bao lâu và công phu tu tập tới đâu”.

Đại hồng chung chùa tôi lớn lắm và cái chày dộng chuông to hơn cái mình tôi lúc đó. Nó được treo ngang với một sợi dây to. Nếu nó đứng lên thì tôi phải kêu nó bằng anh, vì nó cao hơn tôi một chút. Khi đọc xong một bài kệ, tôi phải đưa chày ra xa rồi buông lỏng tay để nó đưa vô. Theo lực đó, tôi chạy theo để đẩy thêm. Làm như thế mới có thể thỉnh được tiếng chuông vừa đủ ngân xa, vừa ấm. Tôi có nghe các chú kể câu chuyện có một chú tiểuđâu đó cứ ngủ gật mỗi khi thỉnh chuông. Tôi nghĩ chắc chày chuông chùa đó nhỏ. Nếu chú đó ở chùa tôi thì nghiệp chướng ngủ gật không thể xảy ra được. Mỗi lần thỉnh chuông là 30 phút và phải thỉnh đủ 54 tiếng. Ngày đêm thỉnh chuông hai lần, buổi chiều tối và sáng sớm tinh mơ. Mỗi lần như vậy, phải đứng lên ngồi xuống, chạy tới chạy lui liên tục thì làm sao con “buồn ngủ” đậu trên mắt được. Khi thỉnh chuông được một tuần, tôi mới phát hiện ra rằng tôi đói bụng hơn các chú kia. Khổ nỗi là thầy tôi bắt gặp chú nào lảng vảng dưới nhà trù sau giờ tụng kinh là người đó phải quỳ trước bàn tổ một cây hương dài. Có một lần tôi rủ một chú nữa đi kiếm thứ gì ăn thêm sau khi đã tụng kinh, vì “bà cô ruột” tôi réo liên tục. Lúc đó thầy tôi đang tiếp khách. Những tưởng chuyến này thuận buồm xuôi gió, nào ngờ ông khách ra về sớm hơn chúng tôi dự đoán. Hai chúng tôi bị bắt quả tang đang chia nhau tô cơm nguội còn lại hồi chiều. Thầy bắt được, nhưng không nói một tiếng nào mà lặng lẽ đi lên phương trượng. Tôi biết chắc là tai họa sẽ ập tới. Tôi nhủ thầm rằng thà quỳ một cây hương còn hơn là cứ quằn quại suốt đêm không ngủ được với cái bụng xẹp lép. Thầy cho gọi hai chúng tôi lên và đưa một cây hương. Chúng tôi cung kính nhận hương. Tôi đo thử, cây hương dài hơn hai gang tay tôi lúc đó. Tôi nói nhỏ với chú kia rằng có lẽ chúng ta sẽ quỳ cho tới khi đại chúng xả thiền. Khi nghe tiếng kiểng báo giờ ngồi thiền, tôi xích lại gần cây hương trốc bớt bột hương phần dưới để cây hương chóng tàn, giảm bớt thời gian quỳ. Chiêu thức này thì thầy tôi chưa phát hiện được.

Mỗi lần có người mới vô xuất gia, công việc thỉnh chuông lại được giao cho người ấy. Tôi thỉnh chuông được một năm mà chẳng thấy ai xuất gia nữa. Tôi, nếu tình hình này mà tiếp tục thì buổi chiều, phải ăn nhiều hơn một chút để khỏi lục cơm nguội mà quỳ một cây hương. Cái đoạn trường này có ai thấu cho tôi. Tôi đành âm thầm chịu đựng để đêm đêm nghe tiếng gọi của bao tử cầu cứu. Tôi cứ cầu nguyện cho đứa nào đó “chóng quay về bờ giác” để thay tôi làm công việc này. Vào buổi sáng sớm sau nửa tiếng đồng hồ thỉnh chuông, tôi còn phải xuống đun nước sôi, rửa bình chén trà, quét nhà, lau bàn ghế. Trước khi đại chúng xong thời công phu sáng thì tôi phải hoàn tất mọi công chuyện đó. Những việc như thế phải làm trong tư thế cẩn thận, nghiêm trang, chánh niệm và tươm tất. Có một lần thầy gọi tôi lên phòng, Thầy bắt đầu với một giọng chậm rãi và hiền hòa. Thầy nói rằng thời gian gần đây khi thầy dạy tôi học bộ Tỳ ni nhật dụng thiết yếu thì tôi thường hay bê trễ. Nấu nước pha trà cũng trễ, thậm chí khi nghe hiệu lệnh báo thức của đại chúng, tôi cũng dậy trễ. Thầy nói rằng chắc là tôi không có duyên với Phật pháp, cho nên đi tu chưa đầy một năm mà nghiệp giải đãi hiện ra. Thầy bảo nếu muốn tu thì cố gắng tinh tấn tu học, hầu thầy, phục dịch cho đại chúng, còn nếu không được thì nên trở lại cuộc sống thế tục, chứ đừng giải đãimang nợ áo cơm của đàn na thí chủ mà bị đọa. Nghe đến đó, tôi nghẹn ngào uất ức lắm, chỉ biết nước mắt lưng tròng. Thầy hỏi tại sao tôi khóc và tôi có muốn tiếp tục làm điệu nữa không. Nếu muốn tiếp tục thì phải nghe lời thầy mà cố gắng tinh tấn dũng mãnh lên. Tôi vừa thút thít vừa lau nước mắt thưa với thầy rằng chính vì tôi tinh tấn nghe lời thầy mà mọi chuyện xảy ra như thế. Trước đó, tôi là thằng bé lanh lẹ siêng năng mà nay tự nhiên chững chạc đến nỗi chậm chạp. Thầy tôi nghe như vậy ngạc nhiên hỏi tại sao tôi nói như vậy. Tôi chấp tay trước ngực thưa với thầy rằng thầy dạy tôi khi thức dậy phải đọc câu kệ “Tảo giác”, súc miệng phải đọc bài “Sấu khẩu”, rửa tay, rửa mặt v.v… đều có một bài kệ kèm theo. Nói chung, tất cả mọi động tác trong ngày đều phải đọc kệ và chú. Từ khi thức dậy cho đến khi thời kinh bắt đầu chỉ có khoảng 10 phút. Trong khoảng thời gian ngắn ngủn đó, tôi phải thực hiện bao nhiêu động tác, bao nhiêu bài kệ, bao nhiêu câu chú. Thử hỏi ngần ấy kệ tụng thì làm sao tôi có thể thực hiện xong trong vòng 10 phút. Vì lẽ đó, cho nên tôi thường hay trễ. Nghe tôi trình bày, thầy im lặng và bảo tôi xuống. May quá! Nếu lúc đó tôi không thể biện minh một cách logic như thế, chắc là tôi bị cắt giảm cơm chiều ba bữa và rửa chén một tuần. Nguyên tắc trong chùa quy định rằng chú nào nghe hiệu lệnh mà chậm trễ thì sẽ bị phạt như thế. Hồi đó, tôi không trình bày cặn kẽ với thầy lý do bê trễ thì không biết số phận của tôi sẽ ra sao. Chiều đó đã ăn cơm rồi mà thỉnh một hồi chuông còn đói huống chi mà bị phạt không ăn cơm chiều rồi còn rửa chén, tối thỉnh chuông thì chắc tôi phải “về cõi Phật” sớm.

Thường mỗi khi lên chánh điện tụng kinh, các chú tiểu lên trước để đốt đèn, dâng hương, trải chiếu và sửa sang lại mọi thứ. Sau đó, thầy và đại chúng mới lên. Một bữa nọ, thầy và đại chúng lên tới nơi rồi mà chúng tôi không hay biết, còn đứng trước bàn Phật Di Lặc cười vì cái bụng bự của Ngài. Bữa sau, thầy gọi chúng tôi lên phòng và nghiêm nghị nói tại sao lên chánh điện rồi mà chúng tôi còn cười giỡn. Thầy nói sẽ phạt 6 chú tiểu chúng tôi quỳ hương. Chúng tôi thưa với thầy rằng chúng tôi chỉ cười một chút thôi, còn đức Phật Di Lặc cười hoài có sao đâu. Thầy bắt tụi tôi quỳ hương là oan lắm. Thế nhưng 6 chúng tôi vẫn bị phạt. Lần đó, tôi không có lý do gì biện hộ được. Thầy nói rằng đức Phật Di Lặc cười hoài mà không gây ra tiếng động nào, còn chúng tôi chỉ cười một lát, nhưng lại gây ồn ào khiến đại chúng tán niệm. Thầy chỉ cho chúng tôi tấm bản ghi “không được nói, cười lớn tiếng nơi tôn nghiêm” và thầy nói rằng nơi đây chỉ cấm cười lớn tiếng chứ không cấm cười bao giờ. Từ đó về sau, tôi rất thán phục thầy tôi với lối trị chúng nghiêm minh có tình có lý, khiến người ta tâm phục khẩu phục. Có một lần thầy tôi đành phải gạt lệ mà tươi cười. Bữa nọ tôi mặc áo chỉnh tề quỳ thưa với thầy rằng tôi thật sự chưa hiểu thấu điều thứ nhất trong kinh Bát đại nhân giác. Tôi thỉnh thầy giảng lại lần nữa. Thầy bắt đầu đọc nguyên âm chữ Hán “Đệ nhất giác ngộ: thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã...” và giảng: điều giác ngộ thứ nhất của chư Phật, Bồ-tát là phải hiểu mọi vật trên đời là vô thường, sáng còn tối mất, chế độ thay đổi liên tục, tổ chức này tranh giành với tổ chức kia, quốc gia thay ngôi đổi chủ… Nghe tới đó, tôi cung kính thưa với thầy rằng chiếc bình độc ẩm chế trà của thầy cũng theo nguyên tắc ấy. Chiều hôm qua còn mà sáng nay đã bể do tôi vô ý đánh rơi khi rửa. Đôi mắt thầy hơi sáng lên một chút quay sang nhìn chỗ khác. Thầy nói giọng hơi nhẹ rằng thầy sẽ thay chiếc bình khác. Thật ra chiếc bình độc ẩm kia đã chế trà cho thầy tôi 20 năm qua. Đây là lần đầu tiên thầy tôi im lặng một cách lạnh lùng. Đúng là cái gì mình yêu thích nhất cuối cùng cũng phải chia lìa.

Dần dà năm tháng trôi qua đã xói mòn cái chỏm trên đầu của tôi, cuốn trôi cuộc đời làm điệu của tôi vào dĩ vãng. Thoáng một cái mà tôi đã 25 tuổi, tuổi chuẩn bị thọ giới Tỳ-kheo. Ước mơ từ thuở nhỏ sắp trở thành hiện thực, cái ước mơ khoác chiếc y vàng như quý thầy. Ngày thọ giới trở về, tôi cũng cứ sinh hoạt bình thường như hồi còn điệu. Có một điều khiến tôi khó hiểu là ngày xưa các chú đối với tôi vui vẻ, thoải mái, giờ đây họ e dè, cẩn thận. Đi đâu họ cũng nhường tôi đi trước. Khi ăn gì họ cũng cung kính mời tôi ăn trước. Nói chuyện gì họ cũng thưa thưa dạ dạ luôn miệng. Chuyện gì đã xảy ra khiến cho chúng tôi ngăn cách? Lúc này không có chú nào dám ngồi ngang hàng với tôi hay nắm tay tôi dạo quanh chùa mỗi đêm trăng sáng để dẫm lên các thỏi vàng di động. Tôi không ngờ cái ước mơ ngày xưa của tôi lại nghiêm trọng đến như thế. Một khi người nào đã thọ giới Tỳ-kheo rồi thì nghiễm nhiên là một thành viên của tăng đoàn, là đấng Tam bảo trong đời, là người thừa đương, tiếp nối mạng mạch của chư Phật, Tổ mà hoằng dương giáo lý để lợi lạc quần sanh. Ôi! tôi đâu có biết rằng một vị Tỳ-kheo lại quan trọng đến như vậy. Lý do tại sao các chú quý trọng tôi hơn, cung kính tôi hơn. Đó là truyền thống và nề nếp tôn ty trật tự trong chốn thiền môn. Tôi chợt nhớ bài kệ đầu tiên khi thầy cạo tóc cho tôi “Thiện tai! Thiện nam tử, năng liễu thế vô thường, xả tục thú nê hoàn, công đức nan tư nghì”.

Giờ đây nghĩ lại hơn 15 năm làm điệu là khoảng thời gian tu tập và huấn luyện cho Bồ-đề tâm lớn mạnh và cũng là thời gian đào tạo một mẫu người lý tưởng, có oai nghi, có hạnh kiểm đáng là tiêu chuẩn cho truyền thống trong thiền môn. Thời gian đó quý lắm, quan trọng lắm. Trong kinh Hiền Ngu có nêu 4 cái nhỏ rất quan trọng: hoàng đế nhỏ, rắn độc nhỏ, đốm lửa nhỏ và chú tiểu nhỏ. Hoàng đế nhỏ lớn lên có thể tung hoành thiên hạ, tạo nên một lịch sử hào hùng. Rắn độc nhỏ có thể truyền độc chết một sinh mạng lớn hơn nó. Đốm lửa nhỏ có thể đốt cả một khu rừng và chú tiểu nhỏ lớn lên hoằng dương chánh pháp, quảng độ chúng sanh, làm rạng rỡ đạo pháp, khai nguồn tuệ giác vô tận, khắp năm châu bốn biển. Những nỗi vui buồn trong thời gian làm điệu của tôi chỉ là một góc rất nhỏ trong truyền thống thiền môn, thế nhưng nó chứa đựng được phần lớn những nếp sống lý tưởng của một thời làm điệu nhằm giáo dụcđào tạo một mẫu người lý tưởng của đạo Phật. Tôi không thể nào quên được những giây phút vui buồn trong thời gian làm điệu. Dường như cho tới bây giờ nó vẫn là chất liệu sống cho nếp sống xuất gia của tôi. Nếu ai đó xuất gia mà không trải qua thời gian làm điệu thì uổng lắm, giống như đã bỏ qua buổi lễ khai mạc của một lễ hội lớn. Bài viết này chỉ là bản tường thuật tóm lược buổi lễ khai mạc của cuộc sống xuất gia.

Trí Nguyệt (Pháp Luân)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1450)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 2477)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(Xem: 2532)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(Xem: 2645)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạctự do nội tâm.
(Xem: 3121)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(Xem: 2596)
Phật tánhchủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(Xem: 2626)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(Xem: 1672)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(Xem: 2587)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(Xem: 2218)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(Xem: 2932)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(Xem: 2040)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 3238)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(Xem: 2317)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(Xem: 3738)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(Xem: 2181)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(Xem: 1995)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(Xem: 3101)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(Xem: 2718)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(Xem: 2199)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(Xem: 3166)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(Xem: 3047)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(Xem: 2961)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(Xem: 2062)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(Xem: 2634)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(Xem: 2520)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(Xem: 1919)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(Xem: 2162)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(Xem: 2938)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(Xem: 1695)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(Xem: 2266)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(Xem: 2654)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(Xem: 3461)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(Xem: 2341)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(Xem: 3281)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(Xem: 3107)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(Xem: 2418)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(Xem: 2865)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(Xem: 1837)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
(Xem: 3242)
Khi thức dậy, điều gì là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến?
(Xem: 3133)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm.
(Xem: 3373)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 2892)
Một trong những đặc điểm của đời sống xuất giadu hành. Không thường ở một nơi cố định, Tỳ-kheo có thể tùy duyên vân du giáo hóa.
(Xem: 2968)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da ThứcMạt Na Thức,) được xem là
(Xem: 3099)
Sinh già bệnh chết là bản chất của đời sống con người. Ai cũng phải trải qua tiến trình này vì có sinh ắt có diệt. Có điều việc này đến với mỗi người nhanh chậm khác nhau.
(Xem: 2565)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng sự tin sâu nhân quả
(Xem: 2598)
Có người ở chùa mấy mươi năm mà không ý thức được mình đang ở đoạn đường nào trên con đường mà mình đang đi.
(Xem: 2144)
Quán Thế Âm Bồ Tát có rất nhiều nhân duyên với chúng sanh trong cõi Ta Bà này.
(Xem: 2388)
Có lẽ ai cũng cảm nhận được rằng, cuộc sống này hiếm khi yên bình mà luôn đầy ắp những biến động. Với nghịch cảnh
(Xem: 2393)
Pháp thoại dưới đây Đức Phật dùng hình ảnh gương Pháp (Pháp kính) để khi soi vào vị đệ tử Phật biết chỗ thọ sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant