Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thỏ và nhím

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6779)
Thỏ và nhím

Truyện này kể ra nghe có vẻ như chuyện bịa, các cháu ạ. Nhưng quả là có thật, vì truyện do ông tôi kể lại, mà kể một cách thích thú lắm. Ông tôi thường bảo:

- Các cháu ạ, truyện này tất là có thật, nếu không có thì làm sao kể lại được!

Đầu đuôi câu chuyện thế này:

Một buổi sáng chủ nhật mùa thu, lúa mạch đen đang độ đâm bông. Mặt trời đã lên cao. Ngọn gió ấm áp thổi lướt trên các thân rạ. Chim sơn ca hót trên không. O­ng vo vo ngoài đồng lúa. Thiên hạ ăn mặc quần áo đẹp đi lễ nhà thờ, mọi người đều vui vẻ, kể cả chú Nhím nhà ta.
Chú Nhím đứng trước cửa nhà, hai tay buông thõng, ngó ngang ngó dọc trong gió sớm, khẽ hát lên một bài, nghêu ngao như họ hàng nhà Nhím thường hát vào buổi sáng chủ nhật. Đang nghêu ngao hát thì chú chợt nảy ra ý là trong khi đợi vợ rửa ráy mặc quần áo cho con cái, hãy tạt ra đồng dạo chơi xem củ cải mọc ra sao. Chả là củ cải mọc ngay cạnh nhà mà, chú và cả nhà thường ăn nên coi là của riêng của nhà mình.

Nghĩ là làm liền. Nhím đóng cửa lại rồi ra đồng. Chưa đi khỏi nhà bao xa, vừa định vòng qua bụi tường vi ngay trước đồng để băng sang ruộng củ cải, thì Nhím gặp ngay thỏ cũng đi việc ấy, nghĩa là cũng muốn xem cải bắp của mình ra sao. Nhím thấy thỏ thân mật chào. Nhưng thỏ vốn ỷ mình là bậc thượng lưu, tính kiêu kỳ, không đáp lễ Nhím, mà còn lên mặt khinh khỉnh nói:

- Thế nào! Trời còn sớm quá chạy ra đồng làm gì thế, chú mày?

Nhím đáp:

- Tôi đi dạo chơi một tí!

Thỏ cười bảo:

- Dạo chơi gì cái đồ này! Ta cho là ngươi nên dùng chân vào việc khác còn hơn!

Câu ấy làm cho Nhím bực lắm, vì gì thì chú cũng chịu được, nhưng đừng động đến đôi chân chú, tuy rằng trời đất sinh ra chú vốn bị khoèo chân.

Nhím bảo thỏ:

- Dễ ngươi tưởng là mày hơn tao về đôi chân đấy hẳn!

Thỏ đáp:

- Hẳn đi chứ l?!

Nhím nói:

- Thì hãy thử xem cái đã nào. Tao cuộc là chạy thi thế nào tao cũng được mày.

Thỏ nói:

- Tức cười chưa! Đôi chân thì khoèo mà...! Nhưng thôi tao cũng chiều mày, nếu mày tha thiết thế. Cuộc gì nào?

- Một đồng vàng và một chai rượu mạnh đấy.

- Được, đập tay nào. Bắt đầu nhé!

- Ấy không, làm gì mà hấp tấp thế! Trong bụng tao đã có tí gì đâu? Để tao về nhà ăn mấy miếng lót dạ cái đã. Nửa giờ nữa, tao sẽ lại đây.

Nói rồi Nhím đi. Thỏ hớn hở thích lắm. Nhím đi đường nghĩ bụng:

- Thỏ ta cậy có hai chân dài, nhưng mình sẽ có cách được nó. Nó là con người thượng lưu nhưng chẳng qua là đồ ngu ngốc, thế nào cũng bị mình cho một vố. Nhím về nhà bảo vợ:

- Nhà nó ơi, mặc quần áo vào nhanh lên ra đồng với tôi.

Vợ hỏi:

- Có chuyện gì thế?

- Tôi đánh cược với thỏ lấy một đồng tiền vàng và một chai rượu mạnh. Tôi định chạy thi với nó, nhà cũng phải dự cuộc mới được.

Vợ Nhím kêu lên:

- Ối trời ôi! Nhà mất trí, điên rồi hay sao? Sao nhà lại dám thi chạy với thỏ?

Nhím bảo:

- Mình im cái mồm đi, đấy là chuyện của tôi. Đừng có giây đến chuyện đàn ông. Thôi mặc quần áo rồi đi.

Cô Nhím không biết làm sao, đành theo chồng đi. Đi đường, Nhím bảo vợ:

- Này, nhà nghe tôi cẩn thận nhé! Chúng tôi sẽ chạy thi dọc theo cánh đồng dài đấy nhé. Thỏ chạy trong một luống, tôi chạy trong một luống, mà chạy từ trên xuống. Nhà chỉ việc đứng ở đây, chỗ cuối luống. Thỏ chạy từ phía kia tới thì nhà kêu lên gọi: tao đã ở đây rồi!

Đến cánh đồng, Nhím chỉ chỗ cho vợ đứng rồi trèo lên. Tới đầu cánh đồng đã thấy Thỏ đợi đấy rồi. Thỏ bảo:

- Chạy được chưa nào?

Nhím đáp:

- Được. Nào chạy!

Hai con đứng mỗi con vào một luống. Thỏ đếm: "Một, hai, ba!" rồi chạy xuống như bay. Nhím chỉ chạy vài bước rồi rúc vào luống cày ngồi im. Thỏ chạy xuống tới đầu cánh đồng thì vợ Nhím kêu lên:

- Tao ở đây rồi!

Thỏ giật mình, ngạc nhiên lắm. Nó đinh ninh là chính Nhím gọi nó vì vợ Nhím giống chồng như hệt, điều đó ai cũng biết. Thỏ nghĩ bụng:

- Có cái gì không ổn đây.

Nó kêu:

- Chạy lần nữa. Nào ta chạy ngược lên!

Rồi nó lại chạy như bay, tai đập cả vào đầu. Vợ Nhím vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Thỏ chạy lên tới nơi, Nhím gọi:

- Tao ở đây rồi!

Đến lần thứ bảy mươi tư thì thỏ đành bỏ dở cuộc, nằm lăn ra giữa đồng. Nhím thắng cuộc liền lấy đồng tiền vàng và chai rượu mạnh, gọi vợ ra khỏi luống, cùng nhau vui vẻ về nhà. Nếu hai vợ chồng Nhím chưa chết thì ắt là còn sống, các cháu ạ!

Như vậy là ở cánh đồng Buctêhut, Nhím chạy thi đã được Thỏ, và từ đó, không có Thỏ nào dám nghĩ đến chuyện chạy thi với Nhím Buctêhut nữa.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5700)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5759)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5897)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5559)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6192)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5941)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5434)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5841)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5503)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(Xem: 5946)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 7984)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 7264)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(Xem: 6450)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14485)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 6980)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12838)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 12035)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8774)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14349)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8520)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6779)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10502)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5949)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 10010)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7119)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6915)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6075)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6155)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6087)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8313)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8783)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8189)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5820)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5771)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5822)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5866)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(Xem: 5478)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5950)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5275)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6433)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6389)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6203)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7699)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9402)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8720)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6836)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 5568)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(Xem: 6474)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8550)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
(Xem: 6222)
Năm Nhâm thân (1572), nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant