Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Có một cô đơn

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7580)
06. Có một cô đơn

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

6

Có một cô đơn

C

ơ hội nảy ra trong tháng hai kế tiếp khi mua Pine Cottage và sáu mẫu đất chung quanh nó, gồm cả một ngôi nhà khác lớn hơn. Khi Krishna bày tỏ một ước nguyện có được khu đất này, vạch rõ ra nơi này đã trở thành thiêng liêng biết chừng nào sau tất cả mọi điều đã xảy ra ở đó, tiền bạc được biếu tặng bởi Miss Dodge. Krishna gọi ngôi nhà lớn hơn là Arya Vihara (Tu viện Cao quý), và chẳng mấy chốc sau bảy mẫu đất khác đã được mua và Brothers’ Trust được thành lập để quản lý khu đó. Suốt sống của Krishna tiền bạc, trong hình thức những quà tặng và tài sản thừa kế, tuôn vào khi được cần đến, và sau đó anh kiếm được tiền từ những quyển sách của anh; dẫu vậy, anh không bao giờ giữ bất kỳ thứ gì cho riêng anh, ngoại trừ số tiền £500 hàng năm của Miss Dodge.

 Từ đầu năm 1923 Krishna bắt đầu làm việc nhiều ở Ojai, trả lời hàng tá thư từ chính thức, viết những bài hàng tháng của anh cho tờ Herald, tái tổ chức Star ở California, thực hiện những nói chuyện trong những vùng chung quanh và gây quỹ cho một trường học ở Ấn độ. Tháng năm anh và Nitya mà, do sự điều trị thêm của Abrams một lần nữa được nói đã khỏi bệnh, đi vòng quanh nước Mỹ, chấm dứt ở Chicago cho Hội nghị Theosophy. Tháng sáu hai anh em đến nước Anh. Người ta đã sắp xếp cho hai anh em tham dự Đại hội Theosophy và Star ở Vienna vào tháng bảy. Lady Emily gặp họ tại Plymouth và thông báo cho Mrs Besant rằng bên ngoài Krishna có vẻ chẳng thay đổi bao nhiêu, mặc dù có lẽ đẹp hơn nhiều, ‘nhưng tại từng khoảnh khắc người ta nhận biết được nguồn năng lượng được tập trung lại mãnh liệt nhưng có kiểm soát đang chảy qua anh’. Sau Đại hội, nơi Krishna sẽ gặp lại Helen Knothe (chị vẫn ở Amsterdam), anh hỏi liệu anh được phép có một kỳ nghỉ ‘gia đình’ trong nơi yên tĩnh nào đó mà anh chưa bao giờ biết. Một người bạn của John Cordes sắp xếp một biệt thự nhỏ, Villa Sonnblick, trong toàn quyền sử dụng của anh bên ngoài ngôi làng Ehrwald ở Austrian Tyrol, và tại đó anh và Nitya trải qua bảy tuần lễ cùng một nhóm bạn gồm có Lady Emily, chị tôi Betty và tôi, Helen, Mar de Manziarly, Rajagopal (bây giờ đang ở Cambridge), Cordes, và Ruth Roberts, một cô gái người Anh mà Krishna đã yêu đương lăng nhăng hồi ở Sydney. Krishna, Nitya, Lady Emily, Helen và Rajagopal ở trong Sonnblick, nơi tất cả chúng tôi ăn uống, trong khi số người còn lại của chúng tôi ngủ trong một biệt thự nhỏ khác. Mười lăm ngày đầu tiên là một kỳ nghỉ rất hạnh phúc, đó là một nơi lý tưởng cho những chuyến dạo bộ vùng núi và có một cánh đồng bằng phẳng mà chúng tôi có thể chơi rounders ở đó. Vào những buổi picnic trong núi, Krishna, Nitya và Rajagopal thường hát những bài thánh ca của Ấn độ, nghe hay lạ lùng.

 Sau đó, vào giữa tháng tám, ‘cái tiến trình’ bắt đầu lại rất khẩn cấp, mỗi buổi tối, và tiếp tục đến ngày 20 tháng chín. Krishna, hay nói khác đi ‘phần cơ bản của thân thể’, lúc này đã lầm lẫn Helen với người mẹ của anh khi anh ‘đi khỏi’. Lady Emily gửi những lá thư nhật ký cho Mrs Besant kể lại tất cả điều gì đã xảy ra. ‘Nhìn cậu (Krishna) nhảy xuống những quả đồi, đầy duyên dáng và vẻ đẹp và sức sống,’ bà viết, ‘hầu như không thể tin được rằng thân thể tội nghiệp của cậu đã phải chịu đựng mỗi buổi tối.’ Sau một buổi tối bị hành hạ anh gào lớn, ‘Nó đã chưa bao giờ tồi tệ như thế này.’ Nitya đã viết sau đó, ‘Trong suốt những ngày cuối cùng tại Ehrwald họ cố gắng thử nghiệm để Krishna tỉnh táo trong khi cơn đau đớn vẫn còn khá mạnh, nhưng sự tỉnh táo này chỉ kéo dài được 10 hay 20 giây tại mỗi lần, và ngay khi cơn đau đớn quá mạnh, Krishna sẽ rời thân thể.’

 Vào chiều tối ngày 20 tháng chín, Krishna ‘mang qua’ một thông điệp cho Nitya, được cho là từ Bậc Thầy Kuthumi, mà Nitya viết ra:

 

Nitya. Lắng nghe. Công việc này được hoàn tất ở đây, đây là đêm cuối cùng, nhưng nó sẽ được tiếp tục ở Ojai. Nhưng điều này phụ thuộc vào hai con. Cả hai con nên có năng lượng nhiều hơn. Sự thành công sẽ phụ thuộc vào điều gì các con làm trong tháng kế tiếp. Đừng để bất kỳ điều gì ngăn cản nó. Nó đã là một thành công ở đây. Nhưng Ojai phụ thuộc toàn bộ vào hai con, ở đó nó sẽ được tiếp tục với nhiều mãnh liệt hơn nếu hai con sẵn sàng.

Khi hai con rời nơi này hai con phải cẩn thận vô cùng. Nó giống như cái bình mới vừa ra khỏi khuôn, và bất kỳ rung động mạnh nào có lẽ sẽ làm rạn nứt nó, và điều này có nghĩa là sửa chữatu bổ lại và việc này sẽ mất một thời gian dài, nếu hai con thất bại nó sẽ có nghĩa là khởi sự mọi thứ lại từ ngay lúc đầu.

 

Thông điệp này đặc biệt lý thú vì văn phong hoàn toàn không giống như văn phong của Krishna hay của Nitya.

 Ngay khi rời Ehrwald, gần hết nhóm người đến ở tại Castle Eerde ở Hà lan cùng Baron van Pallandt mà đã cống hiến tài sản cho Krishna. Đây là lần cuối cùng nó được sử dụng như một ngôi nhà riêng. Một Trust được thành lập, với Krishna làm Chủ tịch, người mà bất động sản này được chuyển qua và Eerde trở thành Bộ Chỉ huy quốc tế của The Order of The Star in The East.

 Vì tin rằng ‘cái tiến trình’ sẽ được tiếp tục ở Ojai, Nitya cảm thấy rất cần thiết phải có một người khai tâm khác ở đó, vậy là Rajagopal (người đã trở thành một người khai tâm trước khi đến nước Anh) xin nghỉ học tại Cambridge một năm để theo cùng họ. Lúc này họ sống tại Arya Vihara trong khi Rosalind sống tại Pine Cottage cùng người mẹ của em ấy. (Helen đã phải về nhà ở New York.)

 Ngay khi họ đến, ‘cái tiến trình’ đã bắt đầu lại và nặng nề đến độ lần đầu tiên Nitya bị bối rối và viết cho Leadbeater đầy lo âu để hỏi liệu mọi thứ có ‘trôi chảy’ hay không. Tại thời điểm này, Krishna đang bị bắt buộc phải tự chịu đựng sự đau đớn mà đang gia tăng mỗi lúc một mạnh mẽ. Nitya kể cho Leadbeater, ‘Lúc này không có Helen cùng anh và dù Rosalind ở phòng bên cạnh chúng con, anh dường như không cần em ấy; sau khi cơn đau đớn chấm dứt, Krishna rời thân thểthân thể khóc rất đau buồn vì kiệt sức. Anh gọi người mẹ của anh, và con phát giác anh cần Helen, không phải Rosalind. Từ điều gì thân thể của Krishna thỉnh thoảng nói, con có thể nhận thấy rằng vẫn còn có nhiều công việc phải được làm trên thân thể, có lẽ nó có nghĩa phải mất vài tháng.’

Ngày 26 tháng mười một, thân thể của Krishna ‘mang qua’ một thông điệp mà Nitya đính kèm trong lá thư gửi Leadbeater : ‘Công việc đang được làm lúc này có sự quan trọng vô cùngtinh tế cực kỳ. Đây là lần đầu tiên sự thử nghiệm này đang được thực hiện trong thế giới. Mọi công việc trong nhà phải nhường cho công việc này, và không người nào được nghĩ đến lợi ích riêng của mình, ngay cả Krishna.’

Lạ thay Leadbeater không muốn đến Ojai để chứng kiến hiện tượng lạ thường này cho ông. Ông chỉ viết cho Mrs Besant nói rằng ông ‘bị băn khoăn nhiều về toàn công việc đó . . . hoàn toàn trái ngược điều gì chính tôi đã được dạy. Tôi hy vọng bà có thể cam đoan với tôi rằng tất cả đều tốt lành.’ Mrs Besant, mặc dù bây giờ đã gạt đi quyền năng siêu nhiên của bà, rõ ràng có thể cam đoan với ông, và từ đó trở đi Leadbeater giao lại cho bà tất cả trách nhiệm chăm sóc Krishna. Với Nitya ông viết: ‘Tôi không hiểu những biến cố kinh hoàng đang xảy ra trong Krishna thương yêu của chúng ta.’

Đầu năm 1924, Krishna viết cho Lady Emily sau khi ‘cái tiến trình’ đã và đang xảy ra được hai tháng:

 

Càng ngày con càng cáu kỉnh và càng ngày con càng mệt mỏi, con ước mẹ và những người khác ở đây. Những ngày này con thường xuyên cảm thấy muốn khóc và hồi trước con không có như vậy. Thật là khủng khiếp cho những người khác và cho con . . . con ước Helen ở đây nhưng đó là một điều không thể được và cũng có thể họ không muốn bất kỳ ai giúp đỡ con. Vì vậy con phải làm tất cả mọi việc một mình . . . Dù người ta có lẽ cố gắng như thế nào chăng nữa, có một cô đơn, cô đơn của một cây thông đơn chiếc trong vùng hoang vu . . . Mười ngày vừa qua thật là vất vả, xương sống và cổ của con cứng ngắt, và ngày hôm kia con trải qua một buổi tối lạ thường. Dù nó là gì, cái nguồn hay bất kỳ từ ngữ nào người ta gọi cái vật chết tiệt đó, đến thẳng lên xương sống của con, thẳng lên gáy của cổ con, sau đó nó tách thành hai, một đi đến phía bên phải và cái còn lại đi đến phía bên trái của bộ đầu con cho đến khi chúng gặp nhau giữa hai mắt, ngay trên mũi của con. Và con thấy Chúa và Bậc Thầy. Đó là một buổi tối kỳ diệu. Dĩ nhiên toàn sự việc này đau đớn cực độ . . . Con chắc chắn chúng con sẽ có một kỳ nghỉ mau thôi.

 

Krishna cũng diễn tả trải nghiệm này cho Mrs Besant, và cũng vậy Nitya kể cho bà một câu chuyện về nó. Nitya đoán chừng nó có nghĩa ‘mở mắt thứ ba’. Trong chuyên luận về yoga ‘mắt thứ ba’ thường được gọi là The Eye of Shiva. Nó ở giữa trán và, giống như kundalini, được kết hợp với khả năng siêu nhiên. ‘Khả năng siêu nhiên của Krishna vẫn chưa bắt đầu,’ Nitya thêm vào, ‘nhưng con nghĩ lúc này nó chỉ còn là vấn đề thuộc thời gian. Từ khi chúng con ở đây đến bây giờ, chúng con đã trải qua 110 đêm của ‘cái tiến trình’.

Cuối tháng ba Dr Rocke đến Ojai, được gửi đi bởi Leadbeater từ Sydney, nơi hiện nay bà sống, để theo dõi về trường hợp của Krishna. Bà ở lại mười lăm ngày, quan sát ‘cái tiến trình’ mỗi buổi tối. Krishna viết cho Lady Emily rằng ‘bà bị ấn tượng khủng khiếp bởi toàn sự việc và chúng con hoàn toàn không điên khùng’. Dr Rocke vẫn ở đó vào ngày 11 tháng tư – ‘một buổi tối kỳ diệu cho tất cả chúng con’, như Nitya kể cho Mrs Besant, khi Krishna ‘mang qua’ một thông điệp, phần đầu tiên của nó Nitya tin là từ chính Chúa Maitreya:

 

Các Con của Ta, Ta hài lòng về sự chịu đựng và sự can đảm của các con. Nó đã là một đấu tranh lâu dàicho đến lúc này những công việc Chúng ta đã trải qua đã là một thành công tốt lành. Mặc dù đã có nhiều khó khăn Chúng ta đã khắc phục chúng một cách tương đối dễ dàng . . . Các con đã vượt qua sự thử thách rất thành công, mặc dù toàn bộ sự chuẩn bị chưa kết thúc… Chúng tôi xin lỗi về sự đau đớn, kéo dài quá lâu, mà dường như chắc là vô tận cho các con, nhưng có một vinh quang vô cùng đang chờ đợi mỗi người trong các con . . . Phước lành của Ta ở cùng các con.

Mặc dù Chúng tôi sẽ bắt đầu tại một ngày tháng trễ hơn. Ta không muốn các con rời nơi này để đi Châu âu cho đến sau lễ Wesak (lễ hội huyền bí quan trọng vào Trăng tròn tháng Năm, năm đó rơi vào ngày 18 tháng năm), khi các con sẽ thấy Ta. Mặc dù Chúng tôi đã bảo vệ ba nơi trong thân thể của con, chắc chắn sẽ có sự đau đớn. Nó giống như một ca giải phẫu; mặc dù nó có lẽ xong rồi, con chắc chắn sẽ cảm thấy những ảnh hưởng sau đó.

 

Rủi thay, chúng ta không có chuyện kể từ chính Dr Locke về điều gì bà nghĩ về ‘cái tiến trình’.

Hai anh em, cùng Rajagopal và Helen, người họ gặp ở New York, đến nước Anh vào ngày 15 tháng sáu. Mrs Besant cũng ở Nước Anh và họ bị nhiễm trong những hoạt động không ngừng nghỉ của bà, cực điểm là một Đại hội Theosophy và Star tại Arnhem ở Hà lan, được tiếp theo bởi lần họp trại đầu tiên tại Ommen, cách Castle Eeerde một dặm trên phần đất đai được trao tặng bởi Baron van Pallandt. Họp trại này sẽ là một sự kiện hàng năm cho đến khi có chiến tranh.

 Sau họp trại này, cuối cùng Krishna cũng được tự do để tận hưởng kỳ nghỉ ‘gia đình’ mà anh mong chờ. Năm đó nơi được chọn là một khách sạn ở lâu đài thuộc thế kỷ mười một tại đỉnh của một ngọn đồi dốc đứng trên làng Pergine ở Dolomites, nơi Krishna đến cùng những người bạn vào ngày 18 tháng tám. Nhóm người cũng giống năm ngoái, với sự ngoại lệ là Mar de Manziarly và thêm vào một phụ nữ người Ý cùng vài người bạn Ấn độ. Chúng tôi chiếm hai cái tháp có lỗ châu mai tại những góc của lâu đài cũng như vài căn phòng trong khách sạn và dùng những bữa ăn tại phía cuối của một phòng ăn rộng mênh mông, được kéo màn tách khỏi những người khách khác và có người đầu bếp Úc nấu món chay riêng của chúng tôi. Ngay dưới lâu đài là một cánh đồng bằng phẳng, dành chơi rounders, như đã có tại Ehrwald. Nhưng Krishna chỉ được cho phép ít hơn một tuần lễ trước khi ‘cái tiến trình’ khởi sự lại. Lần này còn gây đau đớn hơn trước nhiều lắm, mà hầu như không thể chịu đựng được sau lần ở Ojai. Tuy nhiên, lúc này Helen có mặt ở đó để giúp đỡ.

 Nitya, Lady Emily, Helen và Rajagopal đang sống dưới cùng mái nhà với Krishna trong cái tháp tròn. Khi ‘cái tiến trình’ khởi sự, những người khách ở cùng cái tháp đó không đến ăn tối cùng chúng tôi trong khách sạn. Số người còn lại của chúng tôi biết rằng cái gì đó sắp sửa xảy đến mỗi buổi tối – cái gì đó để chuẩn bị cho sự cư ngụ của Chúa Maitreya – nhưng mãi đến năm sau tôi mới được kể về ‘cái tiến trình’ và những chuyện kể của Krishna và Nitya về trải nghiệm ở Ojai được đọc to cho tôi nghe.

 Có một mục đích rõ ràng trong kỳ nghỉ của năm đó. Người ta đã sắp xếp rằng bốn cô gái – Helen, Ruth, Betty, và tôi – nên, theo sự thúc giục của Krishna, đi đến Sydney để được ‘hướng về’ theo Con đường Môn đồ bởi Leadbeater. (Rosalind đã đến đó khi hai anh em rời Ojai vào tháng sáu.) Tất cả những nói chuyện trước công chúng của Krishna trong những nơi khác nhau mà anh đã theo Mrs Besant vào mùa hè đó đã nhấn mạnh rằng, muốn vào được Con đường Môn đồ, rất cần thiết phải nhắm mắt nhảy liều, sống một cách cấp bách, cảm thấy thật mãnh liệt để có thể đủ sức vọt ra khỏi cửa sổ, để tự thay đổi chính mình một cách cơ bản. Lúc này, tại Pergine, theo sự đề nghị của Lady Emily, anh bắt đầu nói về những chủ đề đó cho nhóm người tụ họp ở đó. Sau trò chơi rounders vào buổi sáng, anh sẽ ngồi dưới một cây táo trong cánh đồng và cố gắng nói đi nói lại cho chúng tôi về những phẩm chất phải nhằm đến. Anh bảo với những cô gái rằng mặc dù bản chất tự nhiên của con người trong các cô là muốn hôn nhân và một tổ ấm riêng của họ, họ không thể có những điều đó và hầu hạ Thượng đế khi Ngài đến; nếu họ cố gắng đùa giỡn với cả hai cuộc sống, họ sẽ trở thành kệch cỡm và không điều gì tồi tệ hơn là tánh tầm thường. Nhưng họ không được trở thành khô khan; lớn lên bằng tình yêu và hạnh phúc rực sáng là cách duy nhất để phát triển. Sự trong trắng hoàn toàn về thân thể lẫn tinh thầnyếu tố cốt lõi.

 Bốn cô gái trẻ sôi nổi trong số đó có tôi, vừa mười sáu, là người ít tuổi nhất, luôn luôn được yêu cầu sống những cuộc sống độc thân bên ngoài một tu viện. Thái độ của Krishna về tình dụchôn nhân sẽ thay đổi trong một vài năm nữa. Vào năm 1922 khi anh nghe rằng Mar de Manziarly đã đính hôn và sẽ lập gia đình, anh nói rằng giá như cô tự tử thì hay hơn. (Vụ đính hôn bị hủy bỏ trước khi cô đến Ehrwald.) Anh rất khắt khe với tất cả chúng tôi ở Pergine, thường làm cho chúng tôi khóc lóc bởi những sự thật về tổ ấm anh đã bảo chúng tôi. Anh phát hiện tất cả chúng tôi đều không đáp ứng nhiệt tình lắm; anh kể cho Lady Emily rằng nó giống như đang nói chuyện với nhiều cái bọt biển mà chỉ nuốt trọn tất cả mọi thứ. Anh ước anh có thể ‘trù dập’ chúng tôi nhiều hơn nữa. ‘Các bạn giống như những người ở trong một căn phòng tối om đang chờ đợi ai đó bật đèn cho các bạn thay vì mò mẫm trong bóng tối và tự bật nó lên.’19

 Tuy nhiên bất kể sự khắt khe của anh, người ta cảm thấy tình yêu vô biên của anh dành cho chúng tôi, sự khao khát của anh rằng chúng tôi sẽ lớn lên thành những con người tốt lành – sự kinh hãi của anh rằng chúng tôi sẽ trở thành ‘tầm thường’.

 ‘Cái tiến trình’ kết thúc vào ngày 24 tháng chín khi Krishna ‘mang qua’ một thông điệp mà anh tin là từ Chúa Maitreya:

 

Hãy học phục vụ Ta, vì tiến theo chính Con đường các con sẽ tìm thấy Ta.

Hãy quên các con, vì chỉ như thế ta sẽ được tìm thấy.

Đừng tìm kiếm những Đấng Vĩ Đại khi họ có lẽ rất gần các con.

 Các con giống như người mù tìm kiếm ánh mặt trời,

Các con giống như người đói được cho thức ăn và sẽ không ăn.

Hạnh phúc các con tìm kiếm không xa lắm; nó sống trong mọi cục đá bình thường.

Ta ở đó nếu các con muốn thấy. Ta là người giúp đỡ nếu các con muốn Ta giúp đỡ.

 

Rất khác biệt với những thông điệp khác, những hàng này có nhiều văn phong của những bài thơ mà Krishna sắp sửa sáng tác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14294)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14346)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13260)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14625)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12636)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25212)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27853)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26328)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17219)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15905)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22123)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17124)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24886)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21942)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16165)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21716)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16776)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14662)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16695)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25022)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14771)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16602)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18003)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12913)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12693)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14596)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27990)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27156)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20924)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14664)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24166)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28651)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14728)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13279)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16431)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27214)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16066)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21456)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant