Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22. Trống không vô hạn đó

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6713)
22. Trống không vô hạn đó

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

22

Trống không vô hạn đó  


K bị bệnh rất nặng trên chuyến bay hai mươi bốn tiếng đồng hồ đến Los Angeles, với hai lần ngừng ngắn tại Singapore, nơi họ thay máy bay, và Tokyo. Mary Zimbalist đón anh tại phi trường và, ngay khi họ còn một mình, đang lái xe ra khỏi phi trường (họ để những người khác lo hành lý), anh bảo với chị rằng trong hai hay ba ngày kế tiếp chị không được rời anh nếu không anh sẽ ‘lẻn đi’. Anh nói, ‘ không muốn cư ngụ tại một thân thể bệnh hoạn, cái thân thể mà không thể vận hành được nữa.’ Đêm đó anh bị sốt đến 101 độ F[1]

 Ngày 13 tháng giêng, K có một hội chẩn với Dr Deutch tại Santa Paula và, khi kết quả của những thí nghiệm được thực hiện ngay lập tức tại Santa Paula Community Hospital, bác sĩ sắp xếp cho anh siêu âm gan, túi mật và lá lách tại Ojai Hospital vào ngày 20. Khi được thực hiện xong, siêu âm chỉ rõ ‘một khối u trên gan’, vì vậy một nội soi CAT được yêu cầu vào ngày 22. Nhưng vào sáng 22 K thức dậy lúc 1 giờ sáng vì bị đau bao tử nặng đến độ không thể giảm bớt được. Dr Deutch, khi được gọi điện thoại, nói rằng ông không thể xử lý ca này nếu không vào bệnh viện. K đồng ý vào bệnh viện sau khi suy nghĩ cẩn thận, và muộn hơn ngày hôm đó anh được nhập viện trong một phòng riêng thuộc khu chăm sóc đặc biệt của Santa Paula Hospital. Chụp X quang chỉ ra rằng có một tắc nghẽn trong ruột, và một ống được truyền qua mũi để bơm chất lỏng ra và một chất thuốc bổ được tiêm vào tĩnh mạch khi người ta phát giác rằng anh bị suy dinh dưỡng. Trọng lượng của anh đã giảm xuống còn 94 lbs. Sau tất cả những việc khó chịu này được thực hiện cho anh, anh nói với Scott, ‘Anh phải chấp nhận, anh đã chấp nhận quá nhiều.’ (Khi tôi đọc những từ ngữ này sau khi anh chết tôi chợt nghĩ lại điều gì Mrs Kirby đã viết về anh tại trại Ommen năm 1926: ‘Thật là một cuộc đời, Krishnaji tội nghiệp! Không nghi ngờ gì cả về sự Hy sinh của anh.) Tuy nhiên, điều gì anh biết ơn khi chấp nhận, là liều morphin được chích vào anh khi tất cả những dạng giảm đau khác đều không còn hiệu quả. Bởi vì anh chưa bao giờ dùng thuốc giảm đau trong mọi đau đớn anh phải chịu đựng từ ‘cái tiến trình’, anh chắc chắn đã nhận ra rằng sự đau đớn từ căn bệnh này nếu xét theo tinh thần là không cần thiết lắm; thật ra, anh phải nói rằng ‘cái khác lạ’ không thể ‘thông qua’ khi cơn đau đớn hiện diện ở đó.

 K ở trong bệnh viện tám đêm và suốt thời gian đó Mary, Dr Parchure và Scott luân phiên ngủ trên một cái ghế ngửa dài được đặt trong phòng của anh trong khi Ema và Theodor Lilliefelt trải qua ban ngày ở đó. Ngày 23 là ngày nghiêm trọng bởi vì có sự nguy hiểm khi anh rơi vào hôn mê bởi ca viêm gan. Dr Parchure bảo với anh rằng anh có thể bị ung thư, mà chẳng có thuốc nào chữa được. Điều này làm đảo lộn Mary và Scott, mà suy nghĩ việc đó xảy ra quá sớm, cho đến khi Dr Parchure giải thích cho họ rằng cách đây rất lâu anh ấy đã hứa hẹn rằng K phải báo cho anh ấy ngay lập tức nếu K thấy có bất kỳ dấu hiệu gì về cái chết của anh, và bởi vì sợ hãi một ca hôn mê, anh cảm thấy đúng lúc để thực hiện lời hứa của anh. Khi Mary và Scott kế tiếp nhau đi vào phòng của K, anh nói, ‘Có vẻ anh sẽ chết,’ như thể anh đã không chờ đợi nó sớm như thế nhưng chấp nhận sự kiện cũng bình thường như mọi chuyện khác. Tiếp theo anh nói, ‘Anh thắc mắc không hiểu tại sao “cái khác lạ” không buông tha cái thân thể đi?’ Anh cũng kể với Mary, ‘Anh đang nhìn nó. Nó kỳ lạ lắm. “Cái khác lạ” và chết đang đấu tranh với nhau.’ Sau khi bệnh ung thư đã được chẩn đoán rõ ràng, đầy kinh ngạc anh nói với Mary, ‘Anh đã làm gì sai trái?’ như thể rằng trong chừng mực nào đó anh đã không chăm sóc đàng hoàng cái thân thể được ủy thác cho anh chịu trách nhiệm bởi ‘cái khác lạ’. Anh yêu cầu Mary và Scott ở cùng anh cho đến lúc kết thúc bởi vì anh muốn ‘cái thân thể’ được chăm sóc giống như anh đã tự chăm sóc nó. Anh đưa ra sự thỉnh cầu này mà chẳng có mảy may tình cảm hay tự-thương xót.

 Ngày 24 sự cản trở ở bao tử bắt đầu phân tán và những dấu hiệu của vàng da không còn nữa. Bác sĩ giải phẫu thay đổi sự truyền thuốc bổ từ tĩnh mạch trong bàn tay của anh sang một ống dẫn lớn hơn được gắn vào xương cổ của anh để cho nhiều chất lỏng hơn có thể chảy vào thân thể; việc này làm cho hai tay được nhẹ nhàng, và khi ngày hôm sau ống dẫn ở mũi được rút ra, anh ‘cảm thấy giống như một người mới’. Anh cũng đồng ý một truyền máu để giúp tăng cường sức khỏe. Vào ngày 27 anh trải qua một nội soi CAT trong một chiếc xe bệnh viện lớn đi khắp những bệnh viện địa phương. Theo tính tình cá nhân, anh đặc biệt hứng thú hệ thống máy móc của những thủ tục khám bệnh – cái cáng được nhấc vào xe như thế nào vân vân. Vụ nội soi khẳng định rằng có một khối u trên gan, kèm theo sự hóa vôi của lá lách, gợi ý rằng cái sau là nguồn gốc chính của khối u ác tính. Khi Dr Deutch thông báo điều này cho K, K yêu cầu được cho phép trở lại Pine Cottage; anh không muốn chết trong bệnh viện.

 Trong khi anh ở bệnh viện, anh yêu cầu Scott ghi lại điều gì anh muốn được thực hiện cho tro hỏa táng của anh. Chúng sẽ được phân chia thành ba phần để gửi đến Ojai, Brockwood và Ấn độ. Anh không muốn bất kỳ nghi lễ nào hay ‘tất cả mọi ngu xuẩn đó’, và miếng đất nơi tro hỏa táng của anh được chôn cất ‘không nên trở thành một nơi thiêng liêng mà người ta đến và tôn thờ và tất cả chuyện vớ vẩn đó’. (Ở Ấn độ, tro hỏa táng của anh được rải trên sông Ganges.) Dẫu vậy, chỉ từ sự hiếu kỳ, anh muốn biết từ học giả Jagannath Upadhyaya về cách đối xử với một thân thể chết của một con người ‘thiêng liêng’ ở Ấn độ như thế nào, và một lá thư được gửi đi để hỏi thông tin về điều này.

 Buổi sáng ngày 30, không còn đau đớn và đã tăng được không thể tin nổi là 14 lbs do bởi loại thuốc bổ siêu hạng, K quay lại Pine Cottage. Một cái giường bệnh viện đã được đặt trong phòng của anh để thay thế cho giường ngủ riêng của anh, được chuyển vào phòng thay quần áo của anh, và sự chăm sóc hai mươi bốn tiếng đồng hồ được sắp xếp. Quá phấn chấn khi được trở về nhà đến độ anh nhờ Mary đặt vào một đĩa nhạc của ca sĩ Pavarotti hát những bài hát Neapolitan và xin một bánh mì sandwich cà chua cùng một ít cà rem. Ăn một miếng bánh mì làm anh bị bệnh (đó là miếng ăn cuối cùng bằng miệng); cơn đau đớn quay trở lại vào chiều tối và anh được chích morphine lại.

 Ngay khi K biết rằng anh sắp sửa chết, và trong khi anh vẫn còn trong bệnh viện, anh đã yêu cầu gặp bốn người ở Ấn độ – Radhika Herzberger, Dr Krishna (Hiệu trưởng mới của Rajghat), Mahesh Saxena, người anh đã bổ nhiệm ở Madras là Thư ký mới của India Foundation, và R. Upasani, Hiệu trưởng của Agricultural College tại Rajghat.[2] Đây là những thành viên thuộc thế hệ trẻ hơn mà anh hy vọng sẽ tiếp tục công việc của anh ở Ấn độ, và anh vẫn còn nhiều việc muốn nói với họ. Đồng loạt, những người khác đều đến, không cần anh mời, khi họ nghe tin anh sắp chết, kể cả Pupul Jayakar và cháu trai của bà, Asit Chandmal, mà K thường ở lại căn hộ của họ ở Bombay, Mary Cadogan, Thư ký của English Foundation và một ủy viên của Brockwood Educational Trust, Dorothy Simmons, Jane Hammond, một ủy viên người Anh đã làm việc cho K trong nhiều năm, chồng tôi và tôi. Dường như không thể rời xa được, và mặc dù K đón chào chúng tôi chắc chắn anh không cần chúng tôi và sự dao động của chúng tôi có thể gây hại cho anh nhiều hơn là giúp ích; chúng tôi chắc cũng là gánh nặng cho những người tử tế tại Ojai khi đã phải nuôi ăn ở và chăm sóc chúng tôi tại những thời điểm cụ thể nào đó. Friedrich Grobe, lúc này có một ngôi nhà tại Ojai, cũng có mặt ở đó.

 Ngày 31 tháng giêng những người từ Ấn độ và Anh đến. Suốt tuần lễ chồng tôi và tôi ở đó, K thuyên giảm chút ít và người ta không thể ngừng hy vọng rằng một phép lạ sẽ xảy ra và anh sắp sửa hồi phục. Anh bảo với Dr Deutch rằng cơn đau đớn, vàng da, morphine và những thuốc men khác chẳng gây ra chút tác động nào cho bộ não. Anh cũng đang trải qua ‘những thiền định tuyệt vời’ vào ban đêm mà thể hiện rõ ràng rằng ‘cái khác lạ’ vẫn còn ở cùng anh. Dr Parchure khẳng định tất cả điều này trong báo cáo của anh ấy. K thực hiện hai gặp gỡ trong phòng ngủ của anh trong thời điểm đó và được thâu băng bởi Scott Forbes. Gặp gỡ đầu tiên, vào ngày 4 tháng hai, được tham dự chỉ bởi những người có liên quan đến sự biên tập và xuất bản sách của anh (Radhika và Dr Krishna đã trở thành những thành viên Ấn độ của International Publications Committee vừa được thành lập). K đã trình bày những mong muốn của anh về vấn đề xuất bản rất rõ ràng: anh muốn những nói chuyện và những bài văn viết của anh tiếp tục được ấn loát ở nước Anh trong khi những người ở Ấn độ tập trung vào việc chuyển thể những tác phẩm của anh thành những ngôn ngữ bản xứ. Gần chấm dứt gặp gỡ anh đã nói rằng Indian Foundation cảm thấy họ hiểu rõ anh hơn những người khác bởi vì anh đã được sinh ra trong một thân thể người Ấn độ. Anh nói, ‘Anh thấy không, Dr Krishna, tôi không là người Ấn độ.’ Radhika ngắt lời, ‘trong ý nghĩa đó tôi cũng không nghĩ tôi là người Ấn độ.’ ‘Tôi cũng không là người Anh,’ Mary Cadogan chen vào.83

 Chiều hôm đó K cảm thấy đủ sức khỏe để đi ra ngoài. Anh được khiêng xuống những bậc thềm của hàng hiên trong một chiếc xe đẩy và, bởi vì đó là một ngày đẹp trời, anh yêu cầu được để lại một mình dưới cây tiêu, bây giờ đã to lớn lắm, từ nơi đó anh có thể nhìn qua thung lũng thẳng tới những quả đồi. Tuy nhiên, Scott đứng hơi xa xa đằng sau chiếc xe vì sợ rằng anh sẽ lật nghiêng về phía sau bởi vì anh đang ngồi kiết già trong xe. Anh vẫn ở nguyên đó, hoàn toàn bất động trong một khoảng thời gian trước khi yêu cầu được đẩy vào trong nhà. Đó là lần cuối cùng anh ra ngoài.

 Ngày kế tiếp, khi Dr Deutch đến gặp anh, K hỏi liệu anh có thể đi lại được và thực hiện những nói chuyện. Bác sĩ trả lời, không như trước kia nữa, mặc dù có lẽ anh có thể viết hay đọc hay thực hiện những bàn luận riêng. Bác sĩ đã trở thành người bạn và đang thăm anh hầu như mỗi ngày.

 Vào buổi sáng ngày 5, K yêu cầu một gặp gỡ khác và bảo Scott thâu băng lại. Có mười bốn người chúng tôi hiện diện vào dịp này. K bắt đầu bằng cách bảo cho chúng tôi biết điềubác sĩ nói với anh ngày hôm qua, rằng sẽ không còn nói chuyện nào nữa, không đi lại nữa. Anh nói, lúc này anh không bị đau đớn, và bộ não của anh ‘rất, rất, rất rõ ràng’. Anh có lẽ tiếp tục trong tình trạng đó nhiều tháng nữa. Anh tiếp tục, ‘Chừng nào thân thể còn đang sống, tôi vẫn còn là người thầy. K có mặt ở đây như K có mặt trên bục giảng . . . Tôi vẫn còn là người đứng đầu của nó. Tôi muốn phát biểu điều này rất, rất rõ ràng. Chừng nào cái thân thể này còn đang sống, K còn ở đó. Tôi biết điều này bởi vì tôi luôn luôn có những giấc mơ tuyệt vời – không phải những giấc mơ nhưng bất kỳ việc gì xảy ra.’ Anh nói, anh muốn được thông báo trong chi tiết về điều gì đang xảy ra ở Ấn độ và Brockwood: ‘Đừng nói với tôi mọi thứ đều đúng đắn.’

 Tiếp theo anh thỉnh cầu, rất lịch sự, rằng tất cả những người khách viếng thăm nên ra về. Khi anh chết anh không muốn mọi người đến chào ‘cái thân thể’. Sau đó anh yêu cầu Scott không được thay đổi những từ ngữ đang được thâu băng. Anh bảo Scott, đang đứng bên cạnh giường tay cầm microphone, quay về phía chúng tôi và nói, ‘Tôi thề rằng không có điều gì sẽ được thay đổi trên bất kỳ cuộn băng nào. Không điều gì đã được và không điều gì sẽ được.’84

 Rất choáng váng khi nghe K nói, ‘Tôi vẫn là người thầy. K hiện diện ở đây giống như K hiện diện trên bục giảng.’ Có ai đã nghi ngờ điều đó không? Mặc dù từng lúc một anh đã bị ngắt quãng tại gặp gỡ này hoàn toàn do bởi sự yếu ớt thuộc thân thể, anh tuyệt đối là chính anh. Không ai có thể chân thật nói rằng anh không ‘hoàn toàn ở đó’ suốt thời gian thuyên giảm này.

 Chiều theo ý muốn của K, chồng tôi và tôi ra về ngày hôm sau. Sau khi tôi từ giã anh, không thực sự tin rằng tôi sẽ không bao giờ trông thấy anh lại, theo tính cách của anh anh nhờ Mary ra ngoài để xem thử chúng tôi đã gọi loại xe nào đưa chúng tôi ra phi trường, anh hài lòng khi nghe nói nó là một loại xe tốt. Chẳng mấy chốc những người khách khác cũng ra về. Asit Chandmal cũng ra về nhưng sẽ trở lại và ở đó cho đến khi K chết. Điều gì K mong ngóng là những lần viếng thăm của Dr Deutch, mặc dù anh lo lắng về số lượng thời gian anh đang lấy mất từ những bệnh nhân khác của bác sĩ. Bác sĩ đồng ý nhận, như một người bạn, không phải như một bác sĩ, cái đồng hồ Patek-Philippe đẹp mà K tặng anh ấy. (Anh ấy không bao giờ gửi một hóa đơn tiền điều trị của K suốt cơn bệnh cuối cùng.) Nhận thấy rằng K là một người hâm mộ Clint Eastwood, giống như anh ấy, anh ấy mua cho anh vài bộ phim Eastwood đã chuyển thành video và cũng cả những cuốn phim nhựa của Yosemite, vì biết rằng K yêu quý cây cối và núi non nhiều lắm.

 Trong buổi sáng ngày 7, Mary Zimbalist hỏi K liệu anh có cảm thấy thích trả lời một câu hỏi mà Mary Cadogan đã viết ra cho anh. K nhờ Mary đọc cho anh nghe. Nó là: ‘Khi K chết điều gì thực sự xảy đến cho sự tập trung lạ thường của hiểu rõnăng lượng đó mà là K?’ Trả lời tức khắc của K là, mà Mary viết vội vàng trên tờ giấy, là: ‘Nó hết rồi. Nếu người nào đó thâm nhập hoàn toàn trong những lời giảng, có lẽ họ có thể hiệp thông cùng cái đó; nhưng người ta không thể cố gắng tiếp cận nó.’ Rồi, sau một khoảnh khắc, anh thêm vào, ‘Ước gì tất cả các bạn biết được cái gì các bạn đã bở lỡ – trống không vô hạn đó.’

 Câu hỏi của Mary Cadogan có thể vẫn còn trong cái trí của K khi, vào giữa buổi sáng, anh gọi Scott vào và yêu cầu anh ấy thâu băng lại điều gì anh muốn nói. Mary viết lại, “Giọng nói của anh rất yếu ớt, nhưng anh nói bằng sự nhấn mạnhý định.’ Có những khoảng ngừng giữa hầu hết những từ ngữ như thể đó là một nỗ lực cho K buột miệng ra:

 

Sáng nay tôi đang nói cho họ – suốt bảy mươi năm siêu năng lượng đó – không phải – năng lượng vô hạn, thông minh vô hạn đó, đã và đang sử dụng thân thể này. Tôi không nghĩ người ta nhận ra thông minhnăng lượng vô hạn đó tuôn vào cái thân thể đến mức độ nào – có động cơ mười hai xy-lanh. Và suốt bảy mươi năm – là một thời gian khá dài – và lúc này thân thể không thể chịu đựng được nữa. Không người nào, nếu cái thân thể đã không được chuẩn bị, rất kỹ càng, không được bảo vệvân vân – không người nào có thể hiểu rõ cái gì tuôn vào cái thân thể này. Không người nào. Làm ơn bất kỳ người nào đừng giả vờ. Không người nào. Tôi lặp lại điều này: không người nào trong số chúng ta hay công chúng, biết điều gì đã xảy ra. Tôi biết họ không biết. Và lúc này sau bảy mươi năm, nó đã đến một kết thúc. Không phải rằng thông minhnăng lượng đó – trong chừng mực nào đó nó hiện diện ở đây, mỗi ngày và đặc biệt vào ban đêm. Và sau bảy mươi năm cái thân thể không thể chịu đựng nổi nó – không thể chịu đựng nổi nữa. Nó không thể. Những người Ấn độ có nhiều mê tín quá quắt về điều này – rằng bạn định đoạtthân thể đi – và tất cả mọi vô lý đó. Bạn sẽ không tìm được một thân thể khác giống như thế này, hay thông minh tột đỉnh đó đang vận hành trong một thân thể trong suốt nhiều trăm năm nữa. Bạn sẽ không thấy nó lại. Khi anh ấy đi, nó đi. Không có ý thức bị bỏ lại đằng sau của ý thức đó, của trạng thái đó. Tất cả họ sẽ giả vờ hay cố gắng tưởng tượng họ có thể tiếp xúc với cái đó. Có lẽ trong chừng mực nào đó họ sẽ tiếp xúc nếu họ sống theo những lời giảng. Nhưng không người nào đã thực hiện nó. Không người nào. Và thế là xong.85

 

Khi Scott yêu cầu anh định nghĩa rõ ràng một số trong điều gì anh đã nói vì e rằng nó có lẽ bị hiểu lầm, anh trở nên ‘rất bực bội’ với anh ấy và nói, ‘Em không có quyền can thiệp vào điều này.’ Khi nói Scott không can thiệp, dường như rõ ràng rằng K muốn câu phát biểu này được nhận biết bởi tất cả mọi ngườiquan tâm.

K chỉ còn sống chín ngày nữa. Anh muốn chết và hỏi không hiểu điều gì sẽ xảy ra nếu ống dẫn thuốc bổ được rút ra. Anh được bảo rằng thân thể sẽ hết nước rất mau chóng. Anh biết theo luật pháp anh có quyền yêu cầu rút ống dẫn thuốc bổ ra nhưng anh không muốn gây rắc rối cho Mary và bác sĩ; vả lại; ‘cái thân thể’ vẫn còn trong trách nhiệm của anh; vì vậy, đến giây phút cuối cùng anh phải tiếp tục chăm sóc nó – đánh răng như anh đã luôn luôn làm ba hay bốn lần một ngày, ngay cả vòm miệng cũng như lưỡi của anh; thực hiện những bài luyện tập mắt của Bates hàng ngày; nhỏ vào mắt trái của anh những giọt thuốc trị bệnh tăng nhãn áp. Khi Dr Deutch bảo với anh rằng thổi vào một găng tay phẫu thuật sẽ giúp đỡ làm thông trống chất lỏng đọng lại trong đáy phổi của anh do bởi nằm trong giường quá lâu, anh thở vào chiếc găng tay mỗi tiếng đồng hồ cho đến lúc anh không còn hơi sức nữa.

Lúc này, theo đề nghị của Dr Deutch anh được đặt trong xe đẩy đưa vào phòng khách rộng nơi anh ngồi nhìn những ngọn lửa bập bùng của một lò sưởi to. Lần đầu tiên vào trong đó, anh yêu cầu được ở lại một mình nhưng cho phép Scott đứng phía sau vì sợ anh sẽ bị lật ngửa ra sau. Scott viết lại sau đó: ‘Anh đã làm cái gì đó cho căn phòng. Người ta có thể thấy anh đang làm nó, và sau đó căn phòng không còn giống như trước nữa. Anh có tất cả quyền nănguy nghi mà anh đã luôn luôn có. Mặc dù anh đang ngồi trong xe đẩy, được che kín trong những cái chăn, đang được bồi bổ qua tĩnh mạch từ những chai lọ này, tuy nhiên anh lại quá vô hạn và uy nghi, và anh phủ ngập tràn căn phòng và khiến cho toàn sự vật bị rung động. Và anh tỏa sáng rực rỡ.’ Sau nửa tiếng đồng hồ, khi anh muốn quay trở lại giường anh gây kinh ngạc mọi người khi tự đi bộ về phòng mà không cần được giúp đỡ.

Ngày 10, câu trả lời được gửi đến từ học giả Jagannath Upadhyaya cho sự tìm hiểu của K về cách xử lý truyền thống của Ấn độ cho thân thể của một con người tôn giáo khi họ chết. Khi nghe câu trả lời, K nói rằng anh không muốn bất kỳ những việc này. Anh không muốn bất kỳ ai đến chào thân thể của anh sau khi anh chết và càng ít người dự hỏa táng thân thể của anh bao nhiều càng tốt.

Khi anh bắt đầu quá yếu không vào trong xe lăn được, anh được khiêng đến ghế dài của phòng khách trong một cái võng làm bằng quần áo của anh. Vào ngày 14 cơn đau đớn trở lại và anh được chích morphine. Suốt mười phút nó bắt đầu có tác dụng, anh nói với Mary, ‘Quá tốt khi không trở thành thực sự – xin lỗi anh nghĩ anh đã mất em.’ Mary hoàn toàn chắc chắn điều gì anh muốn hàm ý trong câu này là rằng, ‘Anh nghĩ anh đã mất đi cảm giác đau đớn nhưng quá tốt khi không đúng như vậy.’ Ngày hôm sau anh bắt đầu nói chuyện với Scott về tình trạng của thế giới, và hỏi, ‘Em nghĩ Dr Deutsch biết tất cả điều này hay không? Em nghĩ anh ấy hiểu nó? Anh sẽ nói chuyện với anh ấy về nó.’ Việc này anh thực hiện khi bác sĩ đến vào chiều hôm đó. Scott ghi lại:

 

Điều gì K nói cho Dr Deutsch vào dịp đó là một tóm lược mười lăm hay mười phút lạ thường của quá nhiều điều anh nói về bản chất của thế giới. Nó thật hùng biện và chính xáctrọn vẹn, và tôi đứng đó kinh ngạc lẫn cảm kích, lắng nghe tại chân giường còn Dr Deutsch ngồi kế anh bên cạnh giường. Một điều tôi vẫn còn nhớ Krishnaji đã nói cho Dr Deutsch là, ‘Tôi không sợ chết bởi vì tôi đã sống cùng chết suốt sống của tôi. Tôi không bao giờ mang bất kỳ kỷ niệm nào.’ Sau đó bác sĩ sẽ nói, ‘Tôi cảm thấy như thể tôi là người học trò cuối cùng của Krishnaji.’ Nó thực sự rất đáng yêu. Cũng có một xúc động kỳ lạ rằng Krishnaji, quá yếu ớt và cũng quá cận kề chết, lại có thể gom góp sức mạnh để thực hiện sự tóm lược mà anh đã làm đó, và nó cũng là một thể hiện sự tri ân của anh với bác sĩ.

 

K chết trong giấc ngủ của anh ngay sau nửa đêm ngày 17 tháng hai. Sự kết thúc đến trong những từ ngữ của Mary:

 

Parchure, Scott và tôi có mặt ở đó như thường lệ và như thường lệ K đang nghĩ về sức khỏe của những người khác. Anh thúc giục tôi, ‘Lên giường đi, chúc ngủ ngon, lên giường đi, đi ngủ đi.’ Tôi nói rằng tôi sẽ ngủ nhưng tôi muốn ở gần bên. Anh ngủ thiếp và khi tôi chuyển đến ngồi phía bên trái của anh rồi nắm bàn tay anh, nó không làm anh bực dọc. Phần đầu giường của anh được nâng cao vì anh đã cảm thấy dễ chịu hơn khi để như vậy, hai mắt của anh hơi hơi nhắm lại. Chúng tôi ngồi cùng anh, Scott bên tay phải và tôi bên tay trái của anh, Dr Parchure ra vào yên lặng theo dõi, người y tá nam, Patrick Linville, trong phòng kế bên. Từ từ giấc ngủ của Krishnaji chìm vào hôn mê, hơi thở của anh chầm chậm lại. Bỗng nhiên và yên lặng, khoảng mười một giờ Dr Parchure đi vào. Nơi nào đó trong đêm, sự cầu mong vô vọng anh sẽ khỏe lại của người ta đã phải thay đổi thành sự cầu mong rốt cuộc anh được tự do khỏi sự chịu đựng đau khổ của anh. Dr Deutsch, Scott và tôi có mặt ở đó khi tim của Krishnaji ngừng đập lúc qua nửa đêm mười phút.

 

Phù hợp với những mong muốn của anh, chỉ vài người thấy anh sau khi chết, và chỉ một ít bạn bè hiện diện tại lễ hỏa táng của anh mà diễn ra tại Ventura vào lúc tám giờ cùng buổi sáng đó.



[1] Quyển cuối trong bộ tiểu sử của K mà tôi viết, The Open Door Cửa mở toang, viết lại chi tiết về cơn bệnh cuối cùng và chết của anh, mà được trích dẫn từ ba nguồn độc lậpnhật ký hàng ngày của Mary Zimbalist, bệnh án hàng ngày của Dr Parchure và những hồi tưởng của Scott Forbes được viết sau khi K chết. Sau đó Dr Deutch khẳng định rằng những chuyện kể đều chính xác. Cùng những nguồn như thế đã được sử dụng trong quyển này, trong một dạng tóm tắt.

[2] Upasani không đến được vì anh không thể nhận thông hành kịp lúc.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14294)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14346)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13262)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14625)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12637)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25213)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27854)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26328)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17219)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15905)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22124)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17124)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24886)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21942)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21717)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16777)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14662)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16695)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25022)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14771)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16603)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18006)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12914)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12693)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27991)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27157)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20925)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14664)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24166)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28652)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14729)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13279)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16434)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27215)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16066)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21456)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant