Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Phật dạy báo ân

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10972)
07. Phật dạy báo ân

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

Phật dạy báo ân [03]

Lúc ấy trong đại thành Vương Xá, có năm trăm trưởng giả. Tên họ là Diệu Đức, Dũng Mãnh v.v... Các đại phú trưởng giả này đều đã thành tựu chánh kiến, cúng dường Như Lai và các thánh chúng. Trưởng giả là những vị giàu cóphúc đức vào thời đức Phật, nên gọi là ĐẠI PHÚ TRƯỞNG GIẢ. Các vị này đã thọ tam qui ngũ giới, đã biết qui hướng Tam bảo. Tam bảo là Phật, Pháp và Tăng bảo. Như ngày nay mình đến chùa qui y thọ giới, có pháp danh, cúng dường Tam bảo để Tam bảo được trường tồnthế gian. Đều là một trong những biểu hiện của người có chánh kiến

CHÁNH KIẾN là cái thấy chân chánh. Từ cái thấy này, mình sẽ có những hành vi tương ưng, mà cái quả của nó là hạnh phúcan lạc. Vận mệnh mình không do một đấng thượng đế nào định đoạn mà do chính suy nghĩhành vi của mình. Có cái nhìn như thế gọi là chánh kiến. Tương tự, những cái thấy như : Bố thí thì có cái quả phú quí. Thâm lạm của người thì bị quả báo tàn mạt. Ở hiền gặp lành v.v… đều là những dạng gọi là chánh kiến

Các trưởng giả này nghe Thế Tôn ca ngợi pháp môn tâm địa Đại thừa, mới nghĩ rằng “Ta thấy Như Lai phóng kim sắc quang, biểu hiện khổ hạnh khó hành của Bồ tát. Ta không thích tâm hành khổ hạnh. Ai có thể vĩnh kiếp trụ ở sanh tửø vì chúng sanh thọ các khổ não?”.

Pháp tu nào giúp mình nhận ra mình có trí tuệlòng từ như Phật, chỉ vì một chút không tỉnh, chạy theo những suy nghĩ tham ái sân giận mà gây tạo những nghiệp nhân không tốt, khiến thế giới Phật của mình trở thành thế giới nạn tai đau khổ, pháp môn đó gọi là PHÁP MÔN TÂM ĐỊA

Không nương vào những nghi thức cầu cúng bên ngoài, chỉ ngay nơi tâm mà tu, niệm sân khởi lên biết đó là niệm sân, dừng lại. Niệm tham nổi lên BIẾT đó là niệm tham, dừng lại. Bất cứ niệm nào hiện lên trong tâm mình đều BIẾT. BIẾT đến khi nhận được bản chất thực của nó, cũng như bản chất thực của vạn phápthế gian. Đó là lúc ta nhận được tâm chân thật của chính mình, tu vậy là mình đang áp dụng PHÁP MÔN TÂM ĐỊA.

KIM SẮC QUANG, chỉ cho quang minh sắc vàng tỏa ra từ người Phật. Quang minh đó là kết quả có được từ quá trình hành Bồ tát đạo, trải dài sanh tử làm lợi ích cho những người hữu duyên, cũng là quá trình thanh lọc những nhiễm ô vi tế trong tàng thức. Vì thế nói “Ta thấy Như Lai phóng kim sắc quang, biểu hiện khổ hạnh khó hành của Bồ tát”.

Phật nói “Giàu sang mà chịu học đạo là khó”. [04] Giàu sang mà chịu bỏ thì giờ đến chùa, chỉ để cúng dường xây chùa độ tăng, là đã thấy khó, huống là chịu đọc học kinh sách rồi ứng dụng nó vào cuộc sống thường nhật của mình. Phật nói khó, vậy mà các trưởng giả nói đây đều làm được, thì biết chủng nhân Phật pháp các vị từng gieo trong quá khứ rất thâm sâu. Chính vì chủng Phật pháp đã thâm sâu, Phật mới giảng pháp Đại thừaNhất thừa cho chư vị nghe. Có điều, do phước báu đời nay lớn quá, đời sống vật chất lẫn tinh thần quá sung túc, nên hạt giống Phật pháp trong các vị … bị che lấp. Nghe hành Bồ tát đạo, trải dài sanh tử học đạo, cứu giúp muôn người, người đói cơm cho cơm, người đói pháp cho pháp v.v… Các vị sinh tâm e ngại. Đây là chuyện thường tình ở thế gian. Bồ tát ra đời cách ấm còn mê. Gốc là Bồ tát, nhưng cứ một lần mất thân trước có thân sau, mình lại quên cái gốc của mình. Phải gặp thiện tri thức, nghe pháp v.v… mình mới dần dần nhớ lại và thực hiện tiếp hạnh nguyện mình đã làm trong quá khứ

Nghĩ vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, quì xuống trước Phật, chấp tay cung kính cùng bạch Phật rằng : Bạch Thế Tôn! Chúng con không thích Bồ tát hạnh của Đại thừa, cũng không hoan hỉ khi nghe hai từ khổ hạnh. Vì sao? Vì hạnh nguyện tu hành của Bồ tát không phải là biết ân và báo ân. Vì sao? Vì xa lìa phụ mẫu hướng về xuất gia. Vì theo ý muốn của người mà đem cho vợ con. Lại theo chỗ ưa cầu của người mà bố thí đầu mắt tủy nảo của mình, chịu các khổ não. Phải đến ba a tăng kỳ kiếp tu đủ các độ và tám vạn bốn ngàn hạnh ba-la-mật, vượt giòng sanh tử mới được cái lạc của đại bồ đề. Chẳng bằng thú hướng đạo quả Nhị thừa, ba đời trăm kiếp tu tập tư lương, [05]đoạn nhân sanh tử, chứng quả niết bàn, chóng được an lạc, mới gọi báo ân.

Các vị trưởng giả nêu lý do vì sao các vị không thích tu Bồ tát hạnh. Có hai lý do:

1. Với những việc mà Phật đã làm, thì hành Bồ tát đạo là quá khổ và quá khó. 

2. Vì các hạnh mà một vị Bồ tát làm không phải là biết ân và báo ân

Vì khổ hoặc cảm thấy bất an trong cuộc sống, mình mới tìm đến đạo. Đến với đạo là để có một cuộc sống hạnh phúc từ vật chất đến tinh thần. Giờ tu hành rồi, tu một thời gian đầy đủ phước báu rồi, lại nghe Phật dạy phải hành Bồ tát đạo, phải trải dài từ đời này sang đời khác làm lợi lạc cho chúng hữu tình. Tu vậy thì tu chi cho cực? Chính vì vậy các vị phản đối.

Phật nói ân nghĩa trên đời không gì sánh được với công cha nghĩa mẹ. Giờ muốn làm Bồ tát thì phải xuất gia học đạo mới có thể làm Bồ tát (như đức Phật vượt thành, bỏ cha tha phương tìm đạo rồi hành đạo). Nhưng làm vậy thì thứ nhất, cha mẹ để nhà không ai cung phụng nuôi dưỡng sớm hôm. Thứ hai, làm vậy cha mẹ sẽ buồn lòng. Vì ngoại trừ những vị thâm hiểu Phật pháp, còn lại không bậc cha mẹ nào đẻ con ra, nuôi con khôn lớn, mà muốn nó bỏ mình cạo đầu vô chùa ăn chay nằm phản, hạn chế mọi thú vui ở đời. Do đó các vị nói hành Bồ tát đạo là không biết ân và báo ân.

ĐEM CHO VỢ CONsự tích đức Phật, trong một kiếp làm thái tử, thực hành hạnh nguyện bố thí ba-la-mật. BỐ THÍ BA-LA-MẬT là ai xin thứ gì, cho liền thứ đó, cho đến khi không còn gì để cho. Thái tử xin vua cha mở kho báu để mình được bố thí bất cứ vật gì mà người ta xin. Vua cha đồng ý. Vì ai xin gì cũng cho, nên cho luôn voi báu của vua cha. Vua tưởng ai xin gì cũng cho, là chỉ cho vàng bạc châu báu thóc gạo, không ngờ voi quí của mình nó cũng đem cho. Giận thằng con tự thịngu si, vua đuổi thái tử ra khỏi cung. 

Phu nhân thái tử là người lễ nghĩa, dù thái tử nói “Ta phải bố thí tận cùng những gì mình có cho tròn hạnh nguyện” và không muốn mang bà theo, bà vẫn một mực chấp nhận tất cả để theo chồng thọ pháp. Vợ chồng cùng hai con lên đường … Trên đường, các Bà-la-môn lại tiếp tục đến xin. Thái tử rộng tay bố thí luôn cả ba mẹ con, để thực thi hành nguyện bố thí ba-la-mật của mình. 

Vợ con, nếu nghịch đạo dữ dằn ác ôn, thiên hạ xin mà nhờ đó mình đắc đạo thành Phật, thì không đợi Phật dạy, mình cũng sẵn sàng. Nhưng vợ con ngoan hiền, ân nghĩa đầy tràn, tự dưng chỉ vì sự thành đạo của mình mà đem cho thiên hạ, phải nói là bất nhẫn. Song không bất nhẫn như thế, không buông xả được tận cùng như thế, thì đời này không có Phật, không có giáo pháp của Phật. Chúng sanh chìm trong biển khổ vô vàn. Sự hy sinh phải nói là to lớn. 

BỐ THÍ TỦY MẮT … THEO CHỖ ƯA CẦU CỦA NGƯỜI là do nghe sự tích : Trong một tiền kiếp, khi Phật còn hành Bồ tát đạo, ngài là một vị vua ở cõi Diêm-phù-đề, tên là Chiên-đàn-bà-la-tỳ, cũng đang thực hành hạnh bố thí ba-la-mật. 

Lúc đó có một Bà-la-môn tên Lao Độ Sai đến xin vua bố thí, không phải vật dụng châu báu mà chính là đầu của nhà vua. Ai nghe cũng hoảng, nhưng nhà vua thì bằng lòng. Mọi người cản ngăn, nhưng ông giải thích “Con người vì bị tình ái từ kiếp lâu xa trói buộc, nên bị ách sanh tử bức bách. Từ vô thủy kiếp đến nay, sống chết không biết bao lần, lúc trong nước phân tro, khi lại ở hố than, chết đây sanh kia. Thân ta đây, máu tanh huyết nồng, một ngày nào đó cũng tan rả, có gì luyến tiếc mà không xả bỏ để tu lấy pháp chân thường tịch tĩnh. Ta bỏ cái đầu này để thực hành hạnh nguyện Bồ tát. Sau khi thành đạo, ta sẽ hóa độ các ông thoát khỏi cái khổ sanh già bệnh chết”. Nói rồi ban đầu cho Lao Độ Sai mà không hề viện cớ mình là người đức độ, mình sống muôn dân mới được nhờ, mình chết ai độ muôn dân v.v... Đã nói cho là cho tất, dù đó là thân mạng mình.

Tu mà đụng ai xin thứ gì cũng cho như vậy, đang khổ nghe còn ngán, huống là các vị đang sống trong giàu sang sung sướng. Phản đối là chuyện thường tình.

Song hai hình tượng trên chỉ là những hình tượng bên ngoài, nói lên thân tâm bên trong đã hết chấp trước nhiễm ô. Nghĩa là, muốn thành Phật thì tâm hết nhiễm ô mới là chính, không phải cứ cho vợ con hay bố thí thân mình, là đã thành Phật. Nếu chỉ lấy hình tướng bên ngoài đó làm tiêu chuẩn đánh giá vấn đề thành Phật, thì những chàng cảm tử Irad đều thành Phật. Nhưng chắc chắn mấy ông đó không thể thành Phật. Những hình tượng đó chỉ muốn nói lên sự thanh tịnh, không còn dính mắc của thân tâm

Cho nên, cuối kinh, Phật có nêu lên 3 loại ba-la-mật. Loại thứ nhất là Bố thí ba-la-mật, chỉ cho hình ảnh thứ nhất, là bố thí những thứ ngoài thân. Loại thứ hai là Thân cận Ba-la-mật, chỉ cho hình ảnh thứ hai, là bố thí những thứ ngay thân. Còn một loại nữa là Chân thật ba-la mật, là sống được với tâm chân thật của mình. Phật muốn Phật tử phải báo ân theo kiểu thứ ba. Sẽ được giải thích ở cuối kinh. 

Nếu có một pháp tu mà áp dụng nó, thân tâm mình hết nhiễm ô, thì mình chỉ cần áp dụng pháp tu đó, không cần phải cho vợ con hay chính bản thân mình. Vì thành Phật hay không chính là ở tự tâm còn nhiễm hay không, không phải ở những hình tướng bên ngoài. Gia đình cư sĩ Bàng Long Uẩn, vợ con vẫn xum vầy, nhưng cả ông và hai con đều ra đi rất tự tại. Vì tuy còn vợ con, nhưng đời sống vợ chồng, tình cảm ràng buộc con cái đã không còn, tâm không còn dích mắc bất cứ thứ gì. 

ĐẠO QUẢ NHỊ THỪA, là chỉ cho các quả vị có được mà không cần hành Bồ tát đạo. Chỉ cần chịu ngồi một mình trong chốn tĩnh lặng và thiền định. Nhập được trạng thái thiền định của hàng La Hán thì thoát được sanh, già, bệnh, chết, hưởng được sự an lạc vô biên.

Tóm lại, các vị trưởng giả không thích tu pháp Đại thừa. Vì với cái nhìn của chư vị, tu Đại thừa quá khổ. Nếu phải tu thì cùng lắm là tu theo Nhị thừa, thoát cái khổ sanh già bệnh chết. Tức đã tu thì chỉ có tiến tới, vui ít tiến lên vui nhiều, không thể nhảy từ chỗ đang vui lùi lại chỗ khổ cực. Chắc ai cũng đồng tình với các vị trưởng giả đây. 

Phật nói với 500 trưởng giả : Lành thay! Lành thay! Các ông nghe tán thán Đại thừa, tâm sinh thối chuyển phát khởi đại nghĩa, khiến cho tất cả chúng sanh không biết ân nghĩa trong thời vị lai đều được lợi ích an lạc. Thuyết pháp, người nghe phản bác, Phật không bực mình mà còn tán thán “Lành thay!Lành thay! Các ông nghe tán thán Đại thừa, tâm sinh thối chuyển phát khởi đại nghĩa …”. Không phải khen vì các vị phản bác, cũng không phải khen vì các vị nghe tu Đại thừa sinh tâm thối chuyển. Khen, vì nhờ sự thối tâm đó, Phật mới biết được lý do thối tâmgiải thích, giúp người ở thời vị lai, là những người như mình đây, chưa hiểu về báo ân có cơ hội hiểu nó rõ ràng.

Lắng nghe, lắng nghe rồi khéo suy nghiệm! Ta nay vì ông phân biệt tuyên thuyết những chỗ ân nghĩa thuộc cả thế gianxuất thế gian. Này thiện nam tử! Chỗ nói của các ông chưa đáng là chánh lý. Vì sao? Vì ân nghĩathế gianxuất thế gian có 4 loại : 
1. Ân cha mẹ

2. Ân chúng sanh

3. Ân tổ quốc. 

4. Ân Tam bảo.

Bốn ân đó, chúng sanh đều phải đảm đương như nhau. 

Lắng nghe lắng nghe là muốn người nghe để tâm nghe cho kỹ. Nghe thế nào hiểu đúng thế ấy, đừng phân tâm để chữ thì tới tai, chữ lại không, khiến vấn đề trở thành sai lệch. 

CHƯA ĐÁNG CHÁNH LÝ, là các vị mới biết một mà chưa biết hai. 

ÂN không phải chỉ có ân cha mẹ, mà có đến bốn : Cha mẹ, chúng sanh, tổ quốc và Tam bảo. Tất cả mọi người đều phải có bổn phận đền đáp những ân này.

BÁO ÂN không phải chỉ có một mà đến hai. Không phải chỉ có dùng phẩm vật, công sức v.v… thuộc thế gian mới gọi là báo ân, mà còn có cách báo ân xuất thế gian. Cách báo ân này mới thật là báo ân, mới có thể báo hết 4 ân trên. Nó vượt xa cách báo ân thế gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4018)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3198)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 7244)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5719)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 4065)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3168)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12366)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5220)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3963)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9372)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7630)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27223)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 6016)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5742)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6268)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5875)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5593)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7934)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4838)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12286)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21965)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6588)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7539)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6816)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6391)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8650)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6161)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5764)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14430)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20505)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 7026)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6926)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6477)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6571)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6105)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7527)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7491)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8636)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6570)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6964)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10590)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 20052)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30343)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16295)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19804)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11153)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14485)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7877)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10555)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 8015)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant