Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 2: Cuộc kết tập tại thành Vương Xá

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9044)
Tiết 2: Cuộc kết tập tại thành Vương Xá

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG III

NGUYÊN THỈ PHẬT GIÁOTAM TẠNG KINH ÐIỂN

TIẾT II: CUỘC KẾT TẬP TẠI THÀNH VƯƠNG XÁ

Sao gọi là kết tập? Kết tập (Samgìti) có hai nghĩa, một là tụng (một người), hai là hội tụng (nhiều người cùng đọc tụng). Ðại chúng suy tiến những vị tinh thông về pháp (Sharma), và về luật (Vinaya), những vị này tuần tự tuân theo sự phát vấn của Thượng tọa Tỳ kheo Ca Diếp. Theo đó, vị nào tự mình đã từng nhiều lần nghe Phật thuyết giảng kinh, luật thì hãy đọc tụng lại để đại chúng cùng nghe và thẩm định. Khi câu văn đã được chính túc mới đi đến biên tập, và đây là định bản Thánh điển sớm nhất được thành tựu.

Nhân vì, chẳng lâu sau Phật nhập diệt, có Tỳ kheo ngu si lại ưa thích nói nhảm rằng: “Vị trưởng lão kia, Phật thường dạy: nên làm như thế này, Không nên làm như thế kia; nên học như thế này, không nên học như thế kia. Chúng tôi hiện giờ vừa thoát khỏi sự phiền khổ, và tự mình làm theo những gì mình thích, không còn bị câu thúc như trước”(9).

Sau khi nghe những luận điệu này, bấy giờ ngài Tôn giả Ca Diếp cảm thấy không vui. Lập tức ngài quyết tâm triệu tập đại hội để kết tập di giáo của đức Phật. Nhân cuộc kết tập này, Tôn giả Ca Diếp mới hoàn tất việc làm sáng tỏ giáo pháp Phật sau khi Ngài nhập Niết bàn, đồng thời nhiều vị quốc vương muốn dành phần nghênh đón xá lợi của Phật. Qua đó, ngài dò xét được những hành động có ý nghĩa của họ.

Theo “Ðại Sử” được lưu truyền tại Tích Lan, chương ba của bộ sử này thuật rằng: Sau Phật nhập Niết bàn, Tôn giả Ca Diếp đi đến thành Vương Xá, bấy giờ chủ thành Vương Xávua A Xà Thế, nhà vua là người ngoại bộ rất đắc lực, do đó vua giúp ngài Ca Diếp kiến lập tịnh xá cạnh núi Tỳ Bà La (Vebhàra) ở trước Thất Diệp Quật (Sapta Parnaguhà). Tại đây Tôn giả Ca Diếp tập hợp được năm trăm Tỳ kheo và tổ chức an cư vào mùa mưa lần thứ nhất sau Phật nhập diệt. Trong mùa an cư này, từ tháng thứ hai trở lui Tôn giả Ca Diếp bắt đầu mở cuộc kết tập kéo dài trong bảy tháng (Bắc truyền cho là có ba tháng), vị Tôn giả đầu tiên được yêu cầu tụng xuất Luật tạng là ngài Ưu Ba Li. Thứ đến là Tôn giả A Nan tụng xuất Kinh tạng (Pháp tạng). Việc làm này về sau sử Phật giáo gọi là “Ngũ Bách Tập Tỳ Ni” hoặc gọi là “Vương Xá Thành Kết Tập” lại được danh xưng là “Ðệ Nhất Kết Tập”.

- Kinh Luật có từ thời nào?

Pháp (giáo pháp kinh) và Luật (giới luật) tuy mới được định hình sau lần kết tập thứ nhất. Nhưng từ thời đức Thích Tôn còn tại thế thì các luật sư cũng đã chuyên tụng Luật. Ðó là cứ mỗi nửa tháng Bố tát một lần, các Tỳ kheo tùy theo địa bàn cư trú đều phải tụ hội lại để tụng giới. Ðồng thời, khi Phật tại thế cũng có những Thánh điển được đem ra đọc tụng. Như trong “Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nai Da” quyển 44(10) chép là có vị trưởng giả yêu cầu quốc vương chuẩn hứa cho ban đêm được đốt đèn học kinh Phật. Lại cũng sách vừa dẫn, quyển 48(11), ghi “Cam Dung phu nhân ban đêm chong đèn đọc kinh Phật”. Lại nói: “Phu nhân bảo sao chép kinh Phật, và nói với các vị đại thần, hãy dùng giấy mực, viết rõ lời kinh, khiến nhiều người tiện lợi đọc tụng”. Khảo sát sự thành lập của Hữu Bộ Luật thì thấy rằng, vào thời Bộ phái Phật giáo những ghi chép vừa nêu trên là có tính truyền thuyết. Nhưng lúc Phật tại thế, việc đọc tụng kinh luật là điều mà các Tỳ kheo thường làm nên không phải ngờ. Do đó, có người cho rằng: “thời Phật còn tại thế, cũng đủ tập thành Thánh điển theo loại và bộ, ít ra là đã có: Pháp cú, Nghĩa Phẩm, Ba La Diên, Ô Ðà Nam, Ba La Ðề Mộc Xoa, cả thảy năm thứ(12).

Chưa hẳn lúc ban sơ đức Thích Tôn quyết định khi nào thì thuyết pháp, khi nào thì chế định giới luật. Mà qua thời gian, nhân vì phải đối diện với đủ thứ vấn đè cần phải xử đoán, phải giải thích và qui đinh, dàn dà đưa đến việc phải xem những sinh hoạt nào cần qui thành qui chế, những pháp nào là pháp ly dục cần ghi nhớ để tu định. Hậu thế lấy Kinh, Luật, Luận phối hợp lại thành Giới - Ðịnh - Huệ. Cũng như chưa hẳn đương thời đã đưa ra những qui định cứng nhắc như về sau này. Duy có điều khi nói về Luật, thì giới là chính, khi nói về Kinh, thì định là chính. Còn Huệ thì do giới và định mà sản sinh.

- Nội dung kết tập

Kết tập lần thứ nhất. Cứu cánh của lần kết tập như thế nào?

Ðại loại mà nói, ấy là tam tạng Kinh, Luật, Luật. Trong “Tăng Nhất A Hàm, Tự Phẩm” có thêm Tạp Tạng mà thành bốn Tạng, luận Phân Biệt Công Ðức, và luận Thành Thực. Lại lấy tạp Tạng chia làm Bồ Tát Tạng mà thành năm Tạng.

Nói đến kinh Phật là nói đến bộ A Hàm; nhưng kinh A Hàm hiện đang lưu truyền e có sự “thêm bớt”. Kinh A Hàm hiện nay là thánh điển thuộc thời đại Bộ phái Phật Giáo và năm Ni Ca Da (Nykaya) của văn tự Ba Lị (tương đương bộ A Hàm của Bắc truyền) có ít nhiều không giống nhau.

Nói đến Luật, là chỉ cho luật Bát Thập Tụng. Sở dĩ có danh xưng này là vì ngài Ưu Ba Li phải tám mươi lần tụng mới hoàn thành được Luật tạng. Tạng Luật này hiện nay không tìm thấy. Các tạng Luật hiện đang lưu truyền đều thuộc thời đại bộ phái, và được các phái đọc tụng. Do đó, về nội dung hơi có phần gia, giảm.

Luận tạng được tụng xuất như thế nào? Tuy căn cứ theo luật Thiện Kiến của Nam truyền (Theravadha), và luật Tứ Phần của Pháp - Tạng bộ, cả hai có nói đến tạng Tỳ Nại Da, nhưng không cho biết ai là người tụng xuất. Trong khi đó “Thập Tụng Luật” thì nói Tôn giả A Nan là người tụng xuất A Tỳ Ðàm tạng, và luận Ðại Trí Ðộ cũng đồng ý như vậy. Còn “Căn bản Hữu Bộ Luật Tạp Sự” thì nói Ðại Ca Diếp là người tụng xuất Ma Ðắc Lặc Già; Dulva II (Life of Buddha, p.150ff) được truyền ở Tây Tạng cũng đồng ý khi nói Ðại Ca Diếp là người tự mình kết tập Ma Ðát Lý Ca. Tất cả các ghi nhận trên chỉ là truyền thuyết được xuất phát từ Hữu Bộ Thí Dụ Sư. Miến Ðiện thì cho rằng ngài A Na Luật là người tụng xuất bảy Luận. Trong khi “Bộ Chấp Dị Luận Sớ” do Tam Tạng Chơn Ðế truyền và dịch thì nói Phú Lâu Na là người đọc tụng A Tỳ Ðàm tụng. “Ðại Ðương Tây Vực Ký” quyển chín(13) của Huyền Trang nói là, có cả trăm, cả nghìn người của Ðại Chúng Bộ không tham dự vào cuộc kết tập do ngài Ca Diếp triệu tập, mà họ tụ hội riêng, và kết tập thành năm tạng Kinh, Luật; vì chỉ là truyền thuyết được viết ra từ các Bộ pháihậu thế; vì vậy, nên có sự khác nhau khá nhiều. Nhân đó, đối với cuộc kết tập tại thành Vương Xá, có thuyết chủ trương là có kết tập Luận tạng, điều này khiến các học giả cận đại không có cơ sở để tin.

- Những Người Dự Cuộc Kết Tập Lần Thứ Nhất

Như chúng ta biết, cuộc kết tập tại thành Vương Xá là do ngài Ca Diếp đứng ra mời thỉnh, và chỉ có năm trăm vị Thượng tọa Tỳ kheo phó hội. Theo “Ma Ha Tăng Kỳ Luật” (còn gọi là Tăng Kỳ Luật), thì bấy giờ có nhiều vị Thượng tọa Tỳ kheo đã nhập diệt, như ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên khi nghe tin Phật sắp nhập diệt, hai ngài bèn xin nhập diệt trước Phật. Tiếp đó những vị đại đệ tử khi nghe tin Phật đã nhập Niết bàn, các ngài có vẻ lưỡng lự, nhưng rồi nối tiếp nhau nhập diệt. Do đó, những vị được mời tham dự Ðại hội kết tập chỉ có bốn trăm chín mươi chín, Tôn giả A Na cơ hồ như bị ngài Ca Diếp mời ra khỏi đại hội, bởi ngài là người chưa “ly dục” nên không đủ tư cách để phó hội. Vì thế, ngài A Nan quyết chí ly dục, và trở thành vị A la hán, nhân đó mới đủ túc số năm trăm vị(14).

Nhờ thẩm tra nhiều nguồn tư liệu cho thấy Ðại hội kết tập tại thành Vương Xá chỉ gồm những vị cùng một phái với ngài Ca Diếp, và đó là cuộc kết tập của một thiểu số người, của những vị Thượng tọa Tỳ kheo đại biểu cho phái khổ hạnh. Duy có điều, thành quả của lần Ðại hội này là rất to lớn. Nó đánh bại tất cả mọi dị nghị của số đông người, do đó cho nên vị trí của nó là cực kỳ quan trọng. Nói chính xác, thì đây là cuộc Ðại hội được tổ chức vừa thuận lợi, vừa hoàn thành một cách chóng vách. Nếu không, có thể sẽ diễn ra một cuộc tranh luận không khoan nhượng giữa các đại gia; chừng đó vấn đề càng thêm phức tạp. Có điều, trong kỳ Ðại hội này phái của Trưởng lão Phú Lâu Na không thấy tham dự, và đó cũng là vấn đề còn đọng lại của Phật Giáo.

- Trưởng lão Phú Lâu Na

Lúc Ðại hội kết tập tại thành Vương Xá kết thúc, theo “Thiện Kiến Luật” của Nam truyền, và “Tứ Phần Luật” của Bắc truyền, tất cả các bộ luật này đều nói có một vị trưởng lão tên là Phú Lâu Na dẫn năm trăm Tỳ kheo từ phương nam đi đến thành Vương Xá, hay còn nói là từ Nam Sơn (Dakkhi Na Giri) đến để cùng ngài Ca Diếp luận đàm thêm về Pháp (kinh) và Luật (giới). Theo “Luật Tiểu Phẩm Ngũ Bách Kiền Ðộ Ðệ Thập Nhất” của Nam truyền(15), thì nói là ngài Phú Lâu Na phiền trách mà rằng: “quí ngài kết tập pháp, luật, điều đó là cực quí. Nhưng tôi là người từng thân cận, và theo Phật nghe pháp; vậy, quí ngài cũng nên nghe tôi khẩu thuật”. Riêng “Ngũ Phần Luật” quyển 30(16) thuật rằng ngài Phú Lâu Na nói với ngài Ðại Ca Diếp: “đích thân tôi theo Phật nghe pháp, nghe luật, những việc như “nội túc thực”(17), chính tự tôi dâng thức ăn lên Phật, tự tội nhận thu dọn sau khi Phật thọ thực xong, tôi dâng nước uống lên Phật, không người nào không sạch, không món nào không sạch, tôi mới dâng lên Phật”. Trên đây thuộc vấn đề ẩm thực được luật chế định. Ý tứ muốn nói với ngài Ðại Ca Diếp là lúc Phật ở tại Tỳ Xá Ly, gặp phải năm thiếu đói, việc khất thực khó có ai cúng dường nhân đấy mới đưa ra điều cấm. Về sau lại đem vấn đề này ra chế định. Vì vậy bảy việc vừa kể được cọi là không hợp pháp. Nhưng ý nói theo luật văn do ngài Ưu Ba Li tụng xuất, thì phạm bảy việc trên là phạm tội Ðột kiết la (ố tác). Bảy việc nêu trên tuy không quan trọng, nhưng cũng là vấn đề được đặt ra. Ngoài nội dung được kết tập tại thành Vương Xá, vẫn còn những hành vi, những kiến giải khác với nội dung kết tập bị bỏ sót. Chính đấy là nguyên nhân đưa đến việc phân chia Bộ phái.

Trưởng lão Phú Lâu Na nói trên, không phải là vị Tỳ kheo đứng hàng thứ bảy trong số thập đại đệ tử của đức Phật, không phải là Phú Lâu Na bạn của ngài Da Xá, cũng không phải là ngài Phú Lâu Na thuyết pháp đệ nhất(18).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14320)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14585)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11857)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14380)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13287)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14653)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12649)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25287)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27928)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26395)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17254)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16539)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15934)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22171)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17151)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24954)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 22015)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19090)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16184)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21743)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16800)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14688)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16725)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25044)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18794)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21203)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14783)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14382)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16628)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18023)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12939)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14962)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12738)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13902)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14625)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28060)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27243)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14368)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 21004)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14676)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24225)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28732)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14749)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13309)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16471)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27276)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12026)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16082)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21525)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12396)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant