Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 3: Các luận sư sau Thế Thân

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9748)
Tiết 3: Các luận sư sau Thế Thân

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG X
PHẬT GIÁO ÐẠI THỪA HỆ VÔ TRƯỚC

TIẾT III. CÁC LUẬN SƯ SAU THẾ THÂN

Ðại thừa Khởi Tín Luận, sau đó là Thế Thân thì Ðại thừa Phật giáo Ấn Ðộ tiến vào thời hậu kỳ. Như chúng ta biết, trong tư tưởng của Thế Thânlập trường của một hệ Như Lai tạng duyên khởi; tuy nhiên, tác phẩm “Phật Tánh Luận” của Thế Thân về phương diện nào đó nó vẫn chưa đạt đến trình độ đủ chín. Ðến thế kỷ thứ năm tây lịch, các bộ luận của Kiên Huệ như: Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận, Ðại Thừa Pháp Giới Vô Sai Biệt Luận, lại lấy luận Ðại thừa Khởi Tín mà phát triển mở rộng ra. Luận Ðại Thừa Khởi Tín xét về góc độ lịch sử tư tưởng, thì gần đây có người cho rằng tác phẩm này của Mã Minh có khả năng là do đệ tử của Thế Thân hoặc người đồng thời với An Huệ viết ra. Do đó, xin giới thiệu những luận sư sau Thế Thân.

Luận Ðại Thừa Khởi Tín rất được các nhà như: Thiên Ðài, Hiền Thủ, Thiền Tông của Tung Quốc rất mực sùng tín. Có thể nói đây là bộ luận điển quan trọng trong truyền thống Phật giáo Tung Quốc, nó được coi là luận thư khái quát của Phật giáo. Nhưng theo học giả Lương Khải Siêu, ông căn cứ những chứng cứ lịch sử của Vọng Nguyệt Tín Hạnh - người Nhật Bản, cho rằng Luận Ðại Thừa Khởi Tín là do người Tung Quốc sáng tác, và xiển dương nó, và cho nó là sản vật trí tuệ tối cao của nhân loại. Lại nữa, có Âu Dương Cánh Vô Sư Tư của nội học viện Chi Na, ông này căn cứ lập trường Duy thức học để khởi xướng luận này chứ không bài xích. Còn Vương Ân Dương thì nói mang tính ganh ghét “Lương Trần là con nít, không biết biến kế là gì” mà viết, lại nói: “lập lờ, nông cạn, san lấp hết huệ mạng”, rồi ông tiến đến khẳng định là “luận không phải của Phật giáo”. Trước giờ người luôn bảo hộduy trì bộ luận Ðại Khởi Tínđại sư Thái Hư. Văn tự về cuộc luận chiến này có thể tham khảo sách “Ðại Thừa Khởi Tín Luận Chơn Ngụy Biện”. Pháp sư Ấn Thuận cũng có ý kiến về vấn đề này, xin đọc cuốn Ðại Thừa Khởi Tín Luận Giảng Ký của ông. Trong đó ông viết mang tính “huyền luận” nhiều hơn.

Bất luận là gì đi nữa, thì Luận Ðại Thừa Khởi Tín vẫn có địa vị đặc biệt độc đáo, cũng như không thể phủ nhận giá trị của nó được. Ở đây xin miễn bàn luận vấn đề chơn giả, và xuất xứ, chỉ mong giới thiệu đại lược về nội dung của Luận.

Khởi đi từ tịnh tâm duyên khởi của kinh Pháp Hoa đến thuyết Như Lai tạng của Như Lai Tạng Kinh, rồi kế tiếp là thuyết “Nhất tâm nhị môn” của luận này, thì quán Như Lai tạng duyên khởi mới đạt đến viên thục (tròn đầy cả về lý - sự).

Luận này lấy “pháp” làm “tâm chúng sinh”. Pháp ở đây là Ðại thừa pháp, còn tâm chúng sinhNhư Lai tạng; nói cách khác, Như Lai tạng ấy là Ðại thừa pháp. Tâm chúng sinh chất chứa tất cả pháp. Do đó, nên gọi là “nhất tâm”; như nhất tâm này hướng về thanh tịnh giới, quang minh giới, ngộ giới, thì đấy là chơn như môn; còn như nhất tâm này hướng về tạp nhiễm giới, vô minh giới, mê giới, thì đấy là sinh diệt môn. Chơn như môn thì đó là tự tánh thanh tịnh tâm, sinh diệt môn thì đó là tạp nhiễm hư vọng tâm. Do vô minh mới dẫn đến hư vọng sinh diệt, do hiện thựchư vọng sinh diệt nên mới hướng thượng tu tập, tức mong muốn có thể đi dến quả vị cứu cánh, gọi là “nhất tâm pháp giới”. Ba phương diện nhất tâm pháp giới là: Bản thể, Công năngTác dụng, cũng gọi là Tam đại:

1. Thể đại (bản thể) tức chân như thực tánh bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất giảm.

2. Tướng đại (công năng), tức chơn như có bao đức hàm tướng vô hạn.

3. Ðại dụng (tác dụng), tức khả năng sinh ra tất cả thiện pháp hữu hâu, vô lậu của thế gianxuất thế gian.

Nhất tâm, nhị môntam đại, là ba cương lĩnh cốt yếu của Luận Ðại Thừa Khởi Tín.

Chơn như, người xưa coi đó là mệnh danh cho bản thể vũ trụ. Chơn nhưthực tại sau khi tâm đã xa lìa tất cả mọi vọng niệm, khi ấy với tất cả pháp không pháp nào không là chân như. Với chân như, Luận Ðại Thừa Khởi Tín có sự giới biệt, tức phân ra thành Ly ngôn chân như, Y ngôn chân như, Không chân nhưBất không chân như. Ðiểm trước mắtBất không chân như hàm chứa vô lượng công đức; tựu trung ấy là Nhất tâm của thường lạc ngã tịnh, và là mục tiêu để chúng ta tu học Phật pháp. Nhưng “Nhất tâm” này tất cả chúng sinh vốn có đủ, khi ngộ nhâp liền thấy chân như tâm vốn tự tánh thanh tịnh.

Sinh diệt ấy là do tâm của chúng sinh chạy theo thế giới hiện tượng. Hiện tượng giới đối lập với chân như, nên gọi sự thanh tịnh của Như Lai tạngchân như, trạng thái tối sơ của “bất sinh bất diệt” hay “sinh tử hòa hiệp” là thức A Lê Da (tân dịchA Lại Da thức). Dựa vào thức A Lại Da mà có vô minh, dựa vào căn bản vô minh mà có chi mạt vô minh, tướng trạng của vô minh tức là hoạt động của tâm. luận này lấy sự lưu chuyển của vô minh lập ra thuyết “Tam tế lục thô”. Gọi là Tam tế lục thô là vì nó bao qút trình tự hoạt động của chín thứ tâm thuộc sinh diệt môn, gọi là “cửu tướng”, cửu tướng này nội dung của nó hàm nhiếp mười hai duyên khởi, đây cũng là cách giải thích mới lạ đặc biệt về mười hai duyên khởi. Mười hai duyên khởi chẳng qua là ngoại tại, là nói rõ thân này lưu chuyển theo trình tự thuận. Cửu tướng của luận này là chuyên về nội bộ, là nói rõ trình tự luận của nhất tâmbiến hóahành trạng ra làm sao. Còn về khai triển theo thứ lớp của tâm thức chúng sinh mà nói, thì phân thành: tâm, ý, ý thức. Nói về hoặc chướng của tâm chúng sinh, thì lại phân ra vô minhnhiễm tâm.

Tóm lại, chỗ cường điệu của luận này là nhất tâm. “Tâm” này đem sánh với “Thức” của nhà Duy thức lại khiên cưỡng hơn, vì cho rằng “mê ngộ bất ly nhất tâm” (mê ngộ không lìa một tâm), và Ðại thừa pháp tức là tâm chúng sinh. Nói cách khác, tin Phật, học Phật, thành Phật, tất cả đều xuất từ đức tin của tâm chúng ta, vào sự học tập của tâm chúng ta, và vào sự thành tựu của chính tự tâm của chúng ta; thế giới hiện tượngchúng ta tiếp xúc là do tự tâm của chúng ta tạo thành, “bản thể giới” của chúng ta cũng do tự tâm của chúng ta khai phát. Vì thế, về mặt triết học, Luận Ðại Thừa Khởi Tín thuộc duy tâm luận tuyệt đối.

Kinh Hoa Nghiêm khai mở tịnh tâm duyên khởi, được ví như là hoa, Luận Ðại Thừa Khởi Tín sau cùng kết thành, được coi là quả; truyền thống Phật giáo của Trung Quốc dựa vào đó tạo cho mình một lối đi riêng, cho nên không lấy gì lạ khi biết Luận Ðại Thừa Khởi Tín đối với Phật giáo Tung Quốc là vô cùng quan yếu.

- Hai hệ phái lớn.

Hệ phái Long Thọ sau trở thành phái Trung Quán, đến thời của Phật Hộ, Thanh Biện mới phân làm ba dòng lớn và chia thành hai phái. Cơ hồ cũng trong cùng thời đại, phái Du Già sau Thế Thân cũng phân thành hệ vô tướng Duy thức của An Huệ, và hệ hữu tướng Duy Thức của Trần Na. Tình hình này đại loại như biểu đồ sau (trong biểu đồ này có thêm niên đại của các luận sư, và đều dùng tây lịch, đồng thời đấy cũng là đại thể chứ không hẳn là xác định):

 

blank

 

Từ sau Thế Thân, là những vị viết giải thích cho “Duy Thức Tam Thập Tụng”, những vị này thường được xưng tụng là “Thập đại luận sư”. Và giữa họ lại tạo ra cuộc tranh luận hữu - không với phái Trung quán, nhân đấy mới có chuyện người này hoặc nhóm này là của hệ người này hoặc của hệ nhóm này, Ðại thừa Phật giáo ở thời văn kỳ, xuất hiện cảnh tượng có cả trăm luận sư tranh luận nhau rất “ồn ào”.

Hệ vô tướng Du thức của An Huệ kéo dài đến Ðiều Phục Thiên, gây ảnh hưởng đến Sư Tử Hiền thuộc phái Trung Quán Kinh Lượng; trong khi đó hệ Hữu tướng Duy Thức của Trần Na kéo dài đến thời Giới Hiền, gây ảnh hưởng đến Tịch Hộ thuộc phái Du Già Trung Quán Tự Lập. Chung cuộc cả hai dòng không, hữu đều bị Mật giáo nhiếp thọ, và tự đánh mất lập trường nguyên ủy của mình; việc này xảy ra vào thế kỷ thứ VII thứ VIII tây lịch.

Ðược xưng tụngThập đại luận sư, theo cuốn “Duy Thức Sử Quan Cập Kỳ Triết Học” của pháp sư Pháp Chiên, thiên thứ nhất, chương năm, tiết bốn có giới thiệu mười một vị luận sư sau Thế Thân đó là: Trần na, Ðức Huệ, An Huệ, Hộ Pháp, Nan Ðà, Tịnh Nguyệt, Thân Thắng, Hỏa Biện, Thắng hữu, Tối Thắng TửTrí Nguyệt. Trong đó ngoài Trần Na, số còn lại thường được xưng tụng là Thập Ðại Luận Sư là những vị viết giải thích cho Duy Thức Tam Thập Luận.

Những vị vừa nêu trên, thì Trần Na, An HuệÐức Huệđệ tử của Thế Thân (có người cho rằng Ðức Huệ sau thuộc hệ An Huệ). Nan Ðà sau cùng thuộc hệ Thế Thân. Ông là người đề xướng thuyết tân huân chủng tử, khác với thuyết bản hữu chủng tử của người xưa, và Nan Ðà cũng tự mình lập một phái riêng, còn Thân ThắngHỏa Biện là người cùng với thế Thân. Hỏa Biện là một cư sĩ tại gia, Thắng Hữu, Tối Thẳng Tử, và Nguyệt Trí đều là đệ tử hộ pháp, đại bộ phận những vị trên xuất hiện từ năm 561 đến năm 634 tây lịch.

- Trần Na.

Trần Na (Dignàga - Ðại Vức Long) người nam Ấn Ðộ, buổi đầu ông xuất gia với Ðộc Tử Bộ thuộc Tiểu thừa, về sau ông theo Thế Thân học Duy thứcNhân minh, những trước tác của ông gồm có:

Tập Lượng Luận, Quán Sở Duyên Duyên Luận, Chướng Trung Luận, Nhập Du Già Kinh, Cu Xá Luận Chú Yếu Nghĩa Ðăng, Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận v.v...

Về Duy thức học, trong bộ “Quán Sở Duyên Luận” ông thành lập nghĩa về căn trần Duy thức, còn trong bộ “Tập Lượng Luận”, ông thành lập nghĩa của tâm thể với ba phần là: Tướng phần, Kiến phầnTự chứng phần. Thuyết về tâm thể ba phần của ông tạo ảnh hưởng cực kỳ lớn đối với hậu nhân. Người dời thường gọi “An, Nan, Trần, Hộ, là một, hai, ba, bốn”, tựu trung là ca tung bốn vị luận sư về quan điểm phân tích của họ đối với tâm thể. An Huệ chủ trương Thuyết nhất phần - đó là Tự chứng phần, Nan Ðà chủ trương thuyết nhị phần - đó là Tướng phầnKiến phần, Hộ Pháp chủ trương thuyết tứ phần, đó là Tướng phần, Kiến phần, Tự chứng phầnChứng tự chứng phần.

Trần Na, là người thành tựu về môn học Nhân Minh, còn về Duy thức học, ông viết trong các bộ Tập Lượng Luận, (bản dịch của Tây Tạng) và Nhân Minh Chánh Lý Môn Luận, ông cải cách cựu Nhân Minh của Ấn Ðộ, và tập đại thành môn luận lý học cho Ấn Ðộ đương thời. Quan trọng hơn, bộ Tập Lượng Luận của ông không chỉ có giá trị cực lớn đối với Phật giáo, mà còn có địa vị cực cao về mặt triết học sử của Ấn Ðộ.

Nhân Minh, trước hết nó là tên gọi được dùng để chỉ phương pháp biện luận, phương pháp này xuất hiện đầu tiên trong Áo Nghĩa Thư (Upanishad). Lại nữa, gốc gác của môn học này được phái Thắng Luận ngoại đạo và phái Ni Dạ Da (Chánh Lý) sử dụng để “cứu lý trước danh” (nghiên cứu lý luận qua cách dùng danh ngôn). Truyền thuyết kể rằng Túc Mục của phái Ni Dạ Da là người sáng tạo môn học này. Kinh Chánh Lý của phái Ni Dạ Da, trong đó thiết lập mười hai cú nghĩa như ”lượng” v.v... và xuất hiện vào thế kỷ thứ II, thứ III tây lịch.

Phương pháp luận của Phật giáo, ngày lúc khởi đầu đã sử dụng đến ý nghĩa “lượng” của phái ni Dạ Da còn gọi là phái Chánh Lý. Sau đó lược bỏ hoặc cải sửa thêm. Ðến thời đại của vương triều Cấp Ða, hằng trăm nhà nổi lên tranh luận về lý nghĩa “trường đoản đắc thất”. Ai không khéo dùng kỹ thuật luận lý một cách hợp lýlinh hoạt thì khó có thể thù thắng. Vì vậy, các vị luận sư Phật giáo, ít ai lại không nghiên cứu sâu sát về phương pháp luận lý này. Hễ ai đứng vững giữa luận trường, người đó trở thành “nhất gia”, và được gọi là Nhân Minh. Ðối với Nhân Minh học, ngài Thế Thânsáng tác: luận quỹ, luận thức và luận tâm, tiếc là các sách này hiện không thấy lưu truyền.

Trong các trước thuật của Trần Na đều có liên quan đến Nhân Minh, kể có đến tám bộ luận, nhưng bộ Nhân Minh Chánh Lý Môn Luậnbộ Tập Lượng Luậnnổi tiếng hơn cả. Bộ trước thì “lập phá chân thực”, lấy việc sử dụng luận thức chính xác để làm sáng tỏ vấn đề. Bộ sau thì “thích thánh lượng nghĩa”, tức sử dụng tri thức chính xác để làm tỏ vấn đề. Bộ sau thì “thích thánh lượng nghĩa”, tức sử dụng tri thức chính xác để soi xét mọi nghĩa lý. Một bên thiên về “ngộ tha”, một bên nghiêng về “tự ngộ”. Luận thức của Trần Na lấy tông và chi mà cả luận chủ và địch luận cũng tranh luận làm “sở thành lập”, lấy “nhân dụ” mà luận chủ và luận địch đều công nhận làm “năng thành lập”. “Nhân” là đặt nền tảng trên chí Cú nhân để lập ba tướng. Tam tướng ở đây là ba chi tác pháp của tân nhân minh, gọi là Tam tướng đó là:

1. Biến thị tông pháp tánh.

2. Ðồng phẩm địch hữu tánh.

3. Dị phẩm biến vô tánh.

“Dụ” là một phần của tam tướng nhân, tức ở hai tướng là “đồng phẩm” và “dị phẩm” mà đưa ra “đồng dụ” và “dị dụ”, khiến cho tự nó và chính nó hai mặt trái ngược nhau để chứng minh sự chính xác của luận điểm được lập luận.

Nhân Minhmôn học không dễ tiếp thu, người mới học không ai là không tìm đọc cả về hai cách giảng “bát, cửu” trong bộ Tướng Tông Thập Giảng của pháp sư Từ Hàng. Thương yết la Chủ (SÙamïkarasvàmim) là người kế thừa Nhân Minh học của Trần Na. Ông có viết cuốn Nhân Minh học nhập môn với tựa là Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận. Sách này vẫn còn bản Phạn văn, Hán văn và Tạng văn.

Ngoài ra, môn hạ của Thế ThânTrần Na còn có Tam Bảo Tôn, là người viết cuốn Nhất Thiết Như Lai Tạng Tán, Vô Tánh, người sau này của hệ Trần Na viết cuốn Nhiếp Ðại thừa Luận Thích. Tiếp đến là nói về Hộ Pháp.

- Hộ Pháp.

Hộ Pháp (Dharmapàla), đứng về mặt lịch sử của Phật giáo Ðại thừa Ấn Ðộ thời hậu kỳ, thì Hộ pháp là một Tuệ tinh (sao chổi) rực sáng! Ông người nước Ðại La Duy Gia thuộc nam Ấn Ðộ, ông vốn là một vương tử cực kỳ thông tuệ; sau khi xuất gia học Phật ông được người đời xưng tụng là bậc : “học sâu như biển sâu, giảng rõ như mặt trời tỏa sáng, nội giáo thấu triệt cả Ðại - Tiểu thừa, ngôn từ luận nghĩa chân tục đều thông”. Hộ Pháp là người thành danh rất sớm; ông đã từng đảm nhận chức vị trú trì chùa Na Lan Ðà ở trung Ấn Ðộ, năm hai mươi chín tuổi ông lui về ngụ tại Phật Ðà Già Da gần nơi đức Phật thành đạo. Ông tịch tại chùa Ðại Bồ Ðề năm ba mươi tuổi. (Ttheo Duy Thức Thuật Ký thì ông tịch vào năm ba mươi hai tuổi). Với học lý Duy thức, ông xiển dương và phát huy rất tinh tường. Ông viết nhiều tác phẩm như: Ðại Thừa Quảng Bách Luận Thích, Thành Duy Thức Bảo Sinh Luận, Thành Duy Thức Luận v.v... Thành Duy Thức Luận là bộ sách giải thích Duy Thức Tam Thập Tụng của Thế Thân. Bản Hán dịch luận Thành Duy Thức của Huyền Trangy cứ vào bộ luận này, đồng thời Huyền Trang cũng có thêm sự tham khảo từ chín đại luận sư còn lại, cũng như có sự lược bỏ ít nhiều.

Hộ Pháp đứng trên lập trường của thế tục đế, và tuyên thuyết “chơn hữu tục không” của Duy thức. Ðiều đó khiến ông trở thành đối lập với “chân không tục hữu” của phái Trung Quán. Theo ông, thì Uẩn, Xứ, Giới của tất cả pháp đều là có, và ông dùng lập trường này để giải thích Duy Thức Tam Thập Tụng. Ðệ tử ông là Giới Hiền, ông này truyền xuống đệ tử người Trung Hoa là Huyền Trang. Ðến đệ tử Huyền TrangKhuy Cơ, thì Duy Thức học tại Tung Quốc trở thành một đại học phái - Duy Thức Pháp Tướng Tông. Vì vậy, về mặt lịch sử của Duy Thức học, địa vị của Hộ Pháp chỉ đứng sau Thế Thân.

- Ðức HuệAn Huệ.

Ðức Huệ (Gunïamati) người nam Ấn Ðộ, có người nói ông là đệ tử của Thế Thân, và lấy An Huệ làm học trò. Ông là người từng hàng phục ngoại đạo Ma Già Ðà, về sau ông đến ngụ tại chùa Na Lan Ðà, và các xứ như Phạt Lạp Tỳ v.v... Những trước tác của ông gồm có: Cu Xá Luận Thích, Tùy Tướng Luận, Duy Thức Tam Thập Luận Thích (sách này hiện không thấy, trong quá khứ Huyền Trang có đọc qua). Trong bộ Nhiếp Ðại Thừa Luận Thích của mình, ông chủ trương bản hữu chủng tử và tân Luận chủng tử hiệp làm một luận, ấy là thuyết “Bản tính trụ chủng’ cùng với “Tập sở thành chủng”.

- An Huệ. Ông người nước La La ở nam Ấn, ông trước tác rất nhiều, trọng yếu hơn cả là các bộ như: Biện Trung Biên Luận Sớ, Duy Thức Tam Thập Tụng Thích, Ngũ Uẩn Luận Thích, Ðại thừa A Tỳ Ðạt Ma Tạp Tập Luận, Ðại Bảo Tích Kinh Luận, Ðại Thừa Trung Quán Luận Thích, Cu Xá Luận Thực Nghĩa Số, v.v... bộ Duy Thức Tam Thập Tụng Thích của ông chưa được dịch ra Hán văn, bản Phạn văn hiện còn, và được vị bác sĩ người Pháp là Ba Lê Liệt Duy hiệu bản. Lập trường của An HuệHộ pháp không giống nhau hoàn toàn, ông lấy thức A Lại Da làm trú xứ cho tất cả chủng tử tạp nhiễm pháp. Tất cả pháp lấy thức A Lại Da làm kho chứa ấy là quả, bản thân thức A Lại Da là nhân của tất cả pháp, do dó ông cho rằng tất cả pháp tức là thức A Lại Da; do thức A Lại Da này, mà sinh khởi Tư Lương Thức và Liễu Cảnh Thức, kết quả lại qui về thức A Lại Da.

Thành Duy Thức Luận Thuyết Ký(10) của Khuy Cơ, khi giới thiệu về An Huệ có đoạn viết: “diệu giải Nhân Minh, khéo đi đến tột điểm “nội luận”, làm sáng cái hay của Tiểu thừa, với Ðại thừa thơm như lan huệ, thần thái chí cao, khó mà nói cho hết” một đời tông tượng đủ thấy ông là người thế nào.

 

(1) Ðại Chánh Tạng-54, cuối trang 205.

(2) Ðại Chánh Tạng-50, giữa trang 188, Bà Tẩu Bàn Ðậu - Vasubandhu - Thế Thân hoặc Thiên Thân.

(3) Long Sơn Chơn Thường-Ấn Ðộ Phật Giáo Sử, dãn từ chương năm.

(4) Chương 4, trong bộ Ấn Ðộ Chi Phật Giáo, của pháp sư Ấn Thuận.

(5) Mộc Thôn Thái Hiền - Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận. Thiên I, chương 5, tiết I.

(6) Thù thắng: (thuật ngữ) vật siêu tuyệt hơn hết ở đời gọi là thù thắng. Từ Ðiển Phật học, xuất bản khoa học xã hội Hà Nội.

(7) Tướng: ở đây là một hình thái tri thức, nhận thức.

(8) Ðại Chánh tạng-50, từ trang 190-191

(9) Ðại Chánh Tạng-31, đầu trang 60.

(10) Ðại Chánh tạng-43, cuối trang 231.

TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Ðại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Ðà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Ðại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Ðộ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốcpháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Ðây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

blank

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vipháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Ðạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyênmười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

blank
 

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệtđộc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tươngliên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

blank

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian phápxuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gianxuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế giankhí thế gian. Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gianan lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữutrung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gianan lập thứ tự. Dục giới, sắc giớivô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giớivô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Ðịnh của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trívô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp tríloại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần địnhcăn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơntrải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyênngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Ðộc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trướchiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Ðẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Ðây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.
 
 

(1) Ðại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Ðạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Ðiển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Ðại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Ðại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Ðại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Ðại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Ðại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Ðại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Ðiển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Ðộ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14307)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14570)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11846)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14371)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13283)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14650)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12648)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25266)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27897)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26375)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17238)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16529)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15920)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22150)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17140)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24931)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21994)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19083)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16176)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21728)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16792)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14674)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16714)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25030)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18790)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16621)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18017)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12935)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14950)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12725)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13894)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14618)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28050)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27221)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14353)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20986)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24202)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28708)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14743)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13304)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16464)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27262)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12022)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21507)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant