Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mười điều tâm niệm

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6480)
Mười điều tâm niệm

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Mười điều tâm niệm

Trong cuộc sống, ai cũng có những điều mang canh cánh bên lòng, không thể quên được. Người ngoài đời có nhiều nỗi lo về sinh kế, về công danh hoặc về những ơn nghĩa khó đáp đền. Đối với người tu, dù ít bận tâm đến những vấn đề thuộc đời sống thường nhật, nhưng vẫn có nhiều điều phải ghi khắc vào tâm khảm. Trong đó, có mười điều tâm niệm.

Mười điều tâm niệm được tìm thấy trong Luận-Bảo-Vương Tam-Muội. Đây là hành trang của một hành giả mang theo suốt lộ trình tu hành, từ khi phát tâm đến khi thành chánh giác.

Điều 1. “Nghĩ đến thân thể, đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ phát sinh.”

Con người sinh ra đời, thường có cái nhìn sai lạc về thân, nên xây biết bao ảo tưởng trên đó. Họ cho thân là chắc thật, là lâu bền, là chính mình; từ đó, tạo bao nhiêu nghiệp ác, chịu nhiều phiền não lo toan cũng chỉ vì thân.

Bằng trí tuệ siêu suất, Đức Phật đã nhận rõ bản chất của thân, và Ngài đã nói lên một sự thật: Thân là duyên sinh giả hợp, là vô thường, không có tự thể. Thật vậy, xác thân này là do vay mượn từ tứ đại (Đất, nước, gió, lửa) bên ngoài, trở thành tứ đại bên trong, luôn chịu sự chi phối của luật tương sinh và tương khắc. Tương sinh là vay mượn nhau, nương vào nhau để trở thành, để tồn tại rồi hủy diệt. Đây là một chu kỳ sinh diệt của thân. Trong thời gian tồn tại, các yếu tố lại trải qua nhiều tương khắc, như gió khắc với đất, nước khắc với lửa. Bệnh tật phát sinh khi yếu tố này trội hơn yếu tố khác; và suốt đời, con người cứ như một ông chủ nhốt bốn con rắn vào trong giỏ, cả ngày chỉ mãi lo cho chúng ăn và điều hòa cho chúng, can ngăn chúng khỏi cắn nhau. Nhưng dù cố gắng cách mấy, cũng có lúc chúng giở trò cắn nhau, đó là bệnh; và tệ hơn, chúng lại cắn rách giỏ và thoát ra ngoài, đây là lúc chết. Ông chủ lại nuôi bốn con rắn khác, tiếp tục công việc vô nghĩa ấy, không có ngày cùng, đó là vòng luân hồi sanh tử, lăn lộn mãi trong ba cõi sáu đường mà không có lối ra.

Biết được bản chất của thân, chúng ta thấy Sanh-Lão-Bệnh-Tử là bốn điều mà thân không thể tránh khỏi, kể cả thân 32 tướng tốt của Đức Phật. Bằng chánh niệm, chúng ta nhận diện được rằng, bệnh khổ là một thực tại thuộc lĩnh vực tự thân, là một điều gần gũi vì nó theo sát với thân trong suốt chu kỳ sinh diệt. Khi đã nhận diện được bệnh, chúng ta sẽ thực hiện được sự chuyển hóa. Bệnh gây nên một cảm giác thống khổ trên thân; nhưng vì thân là duyên sinh giả hợp, không phải là ta, nên dù thân bệnh mà ta không thấy khổ. Một hành giả tu thiền sẽ thấy điều này khá rõ: Nếu tâm không mơ màng đến tương lai, nhớ tưởng về quá khứ, mà đứng ngay trên mảnh đất thực tại, sống với cái “đang là”, chúng ta sẽ trực nhận được tất cả những bất ổn xảy đến trong thân và tâm, rồi vượt thoát lên rồi tự tại với tất cả.

Thật ra, một người luôn gặp nhiều điều may mắn, thân không tật bệnh, mọi việc đều thuận theo ý muốn, thì dục vọng sẽ lẫy lừng. Họ có ảo tưởng mình là vĩ đại, là trên hết mọi người; từ đó sinh kiêu căng đến ngông cuồng, muốn chinh phục cả thế giới. Nếu một người thỉnh thoảng chịu đau đớn khổ sở do bệnh, người ấy dễ thấy được thực chất của thân, nên dễ thức tỉnhphát tâm tu hành. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta nên bạc đãi huỷ diệt thân, hoặc mong cầu có bệnh, vì có mong cầu là có tác ý, không đúng với tinh thần Phật dạy. Cả hai cực đoan, một bên là quá chăm sóc nuôi dưỡng thân, vì thân mà tạo bao nghiệp ác; một bên cho thân là thứ nhơ nhớp, đáng chán bỏ, làm mọi cách để thoát khỏi nó; hai ý niệm đó đều không phù hợp với Trung đạo của người tu Phật.

Điều 2. “Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.”

Những ngày đầu năm, mọi người thường chúc nhau “Vạn sự như ý”. Câu này nói lên mong ước của chúng ta, suốt đời đừng gặp tai nạn họa ương, muôn việc đều hanh thông tốt đẹp. Mong ước này có thực tế không ?

Gẫm lại, đến các bậc vua chúa đứng đầu muôn dân, nhứt hô bá ứng, vẫn còn gặp nhiều chuyện phiền lòng. Bởi vì, lúc nào tai họa cũng rình rập sẵn không ai có thể tránh khỏi. Nói theo lý nhân-quả, những chuyện không hay xảy đến cho mình, chính do mình đã gieo nhân không tốt vào một thời điểm nào trước đó. Vì vô minh, từ thân khẩu ý chúng ta đã tạo bao nhiêu nghiệp ác, bấy giờ cầu nguyện cho mình gặp mọi việc may mắn, đó là điều không đúng lẽ thật.

Những người tu chúng ta, đều là những chiến sĩ chống giặt tham-sân-si-phiền não, lúc nào cũng có thanh gươm trí tuệ phòng sẵn trong tay. Nhờ có trí tuệ, chúng ta nhận diện được hoạn nạn là một thực tế trong cuộc đời, để có thể chuyển hóa nó. Khi hoạn nạn đến, nếu chúng ta chưa thật sự tự tại thì cũng bớt phiền não khổ đau.

Lại nữa, nhiều khi chúng ta không nhận định được đâu là phước, đâu là họa. Một người suốt đời gặp may mắn, thường cho mình là nhất trong thiên hạ; ngã tướng vì thế có dịp phát sinh, đó là “kiêu sa”, tức cho mình hơn người và xem thường người khác. Đến khi có một nghịch cảnh xảy đến, liệu người ấy có đứng vững trước thử thách hay không? Ngược lại, một người bình thường thỉnh thoảng có vài chuyện không theo ý muốn, nhờ đó có thể thức tỉnhphát tâm tu hành.

Điều 3. “Cứu xét tâm tánh, đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.

Đọc tiểu sử các danh nhân thế giới, đặc biệt là các nhà bác học, chúng ta thấy ai cũng ôm ấp một hay nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình, miệt mài ngày đêm tìm tòi chiêm nghiệm, đôi lúc quên ăn bỏ ngủ. Khi vấn đề đã được giải quyết, một niềm vui vô hạn trào dâng khiến họ không tự chủ được mình. Giai thoại về Archimede (287-212 trước công nguyên) khi phát minh được sức đẩy của nước đã minh họa được điều này.

Đối với người học đạo, tâm thiết tha chân thành cầu đạo lại càng quan trọng bội phần. Nếu tu hành mà không muốn khúc mắc, cái gì cũng muốn suôn sẻ dễ hiểu lại không chịu tìm tòi học hỏi, thì bao giờ sự hiểu biết mới sâu xa, sở học mới thấu đáo? Làm sao một người không có tinh thần cầu thị, sợ khó sợ khổ lại tiến bước trên đường tu? Cho nên, đây cũng là con đường nhận diện những khó khăn. Trong khó khăn, nếu có người tâm thiết tha cầu học thì phải quán chiếu, tư duy, nhất tâm nhất ý vào vấn đề mình đang khúc mắc. Khi lý lẽ bắt đầu tỏa sáng, họ sẽ thấy thế nào là niềm vui tinh thần thẩm thấu toàn thể thân và tâm. Có những vị Thiền sư, sau bao năm quảy gói du phương, mòn bao nhiêu đôi giày cỏ, hoặc ngồi rách bao nhiêu bồ đoàn vẫn chưa tìm được yếu lý của nhà Thiền. Chợt một hôm nào đó, ánh giác ngộ bừng lên, đột nhiên thấy mình hòa cùng vũ trụ vạn hữu, thân-tâm-cảnh nhất như. Thiền sư hoặc cười, hoặc khóc, hoặc hét… tất cả là những biểu hiện trong muôn một của niềm vui khi khám phá ra thực tại vĩnh hằng.

Điều 4. “Xây dựng đạo hạnh, đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.

Nhà Phật phân biệt 2 loại ma: nội ma ngoại ma. Nội ma thuộc thân và tâm của chính mình, ngoại ma là do những người khác hoặc do hoàn cảnh bên ngoài; tất cả làm trở ngại cho sự tiến tu. Trong cuộc sống tu hành, không ai không gặp khó khăn trở ngại từ bên ngoài và cả bên trong. Ví dụ: thân có lúc mắc bệnh hay bị tai nạn; tâm thường loạn tưởng lúc tọa thiền, đó là nội ma. Một người đang tu yên ổn tự nhiên có kẻ đến quấy rối, vu oan giá họa; hoặc nơi ta ở gặp phải thiên tai, đó là ngoại ma. Có thể nói, bất cứ lúc nào và ở đâu, người tu cũng có thể bị ma chướng.

Như vậy, ma chướng cũng là một thực tại không thể tránh khỏi. Phật dạy chúng ta đừng cầu không bị ma chướng, mà phải nhận diện rồi chuyển hóa nó. Một hành giả tu thiền, hôm nào đó mắc bệnh viêm dây thần kinh tọa không thể ngồi thiền; vị đó có tu được không? Nếu chấp vào tư thế tọa thiền mới cho là tu, người ấy chưa hiểu đạo; bởi vì tọa thiền là một tư thế tốt, nhưng không phải là tư thế duy nhất để tu thiền.

Khi vua Lý Nhân Tông chuẩn bị thân chinh đi bình Chiêm, vì biết trong triều có kẻ muốn tạo phản nên vua dặn Nhiếp Chính Ỷ Lan rằng: “Vạn biến như lôi, nhất tâm thiền định.” Muôn điều biến hóa xảy ra có thể như sét đánh làm não loạn thân tâm, cứ nhiếp tâm thiền định thì sáng suốt giải quyết được mọi vấn đề. Mặc cho nội ngoại ma quấy nhiễu, nếu chúng ta một bề chánh niệm tỉnh giác thì không có khó khăn nào không vượt qua đuợc.

Thật ra, chính những chướng duyên là thước đo định lựcý chí của người tu; đó cũng là thắng duyên nếu chúng ta biết chuyển hóa nó. Một người phát nguyện tu hạnh nhẫn nhục, nếu cầu mong đừng có ai đụng chạm, xúc phạm đến mình, thì làm sao tròn bản nguyện? Cho nên, nếu khôngma chướng, ý chí của ta sẽ không được trui rèn, nghị lực của ta không được thử thách, công phu sẽ khó tiến triển.

Một điều cần nhấn mạnh, chính mình là nhân vật chủ chốt để gây khó khăn cho mình. Vì sao nói như vậy? Người tu đừng bao giờ đặt người khác làm đối tượng của mình, và xem mình là đối tượng của người khác. Muốn xây dựng đạo hạnh, chúng ta phải có một không gian thênh thang cho riêng mình, thì dù người nào hay hoàn cảnh nào bức bách, cũng không ảnh hưởng vào không gian thênh thang ấy. Chúng ta sẽ thấy tự tại giữa cuộc sống, giữa dòng đời, không một chướng ngại nào cản trở được bước tiến của ta.

Điều 5. “Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo.

Mọi công việc trong đời, nhất là việc Phật sự, nếu chúng ta dễ dàng thành công thì trong tâm tất sanh kiêu ngạo. Chúng ta nghĩ mình tài giỏi, có trí lựcphước báo hơn người. Chính tâm ngã mạn này cản trở rất nhiều trong việc tu học của chúng ta, nhất là khi vấp phải một thất bại nào cũng có thể làm ta thối tâm, lui sụt.

Mặt khác, chúng ta đã biết rằng, việc càng khó thành tựu thì giá trị càng lớn. Muốn xây dựng một cơ ngơi, nhiều khi phải bỏ công sức suốt cả đời người. Muốn có danh vọng lớn, phải mất bao nhiêu thời gian rèn luyện, trải qua bao nhiêu gian truân và đánh đổi bao nhiêu trí lực. Đó chỉ mới là tài sản địa vị phù phiếm của thế gian, huống nữa là việc lớn thoát ly sinh tử, thành Phật tác Tổ, mà chỉ muốn bỏ ra chút ít thì giờ, tiền bạc, công lao, thì liệu có thành công được không? Ngày xưa thiền sinh Thần Quang chặt tay cầu pháp, sau mới thành Nhị Tổ Huệ Khả; cư sĩ Huệ Năng đeo đá giã gạo suốt tám tháng dưới nhà trù, hầu hạ chư tăng không một lời than vãn, sau mới được truyền y bát thành Lục Tổ. Ngày nay nếu chúng ta noi gương các Ngài, có ý chí hùng lực vị pháp vong thân như vậy, thì mới có phần tương ưng. Còn nếu sống dật dờ cho qua ngày đoạn tháng, gặp cảnh thuận thì tu, gặp cảnh nghịch lại thối tâm Bồ đề, thì chỉ luống uổng một đời người mà thôi.

Điều 6. “Giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.

Trong giao tiếp, những người biết đạo lý đều biết cách xử thế với nhau, sao cho có chân tình, không vì lợi cho mình mà làm hại kẻ khác. Đó gọi là sống có đạo nghĩa.

Kinh Ưu-Bà-Tắc Giới, Phật dạy: “Một đời sốnggiá trị, là một đời sống gồm cả lợi mình lợi người. Một đời sống vô giá trị, là một đời sống không có lợi cho người và cũng không lợi cho chính mình. Một đời sống ích kỷ, là một đời sống chỉ biết lợi cho mình, dù làm tổn hại kẻ khác. Một đời sống độc ác, là một đời sống nhầm hại kẻ khác để mình được lợi. Trong tinh thần tự lợi-lợi tha, Đức Phật đưa ra bốn lối sống và dạy chúng ta chỉ nên sống theo lối thứ nhất, gồm cả lợi mình lợi người. Những bậc tiền nhân ngày xưa, đôi khi vì đạo nghĩa mà làm lợi cho người, dù điều đó có hại cho bản thân. “Nam vị tri kỷ giả tử” - Bậc trượng phu có thể vì tri kỷ mà chết, như Kinh Kha vì cảm tấm tình tri kỷ của Thái tử Đan mà sang Tần làm thích khách, dù phải hy sinh cả tính mạng. Người xưa trọng nghĩa như thế, chúng ta bây giờ há vì một chút lợi riêng mà làm mất đạo nghĩa hay sao?

Điều 7. “Với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.

Mỗi người sinh ra đều có nghiệp riêng do mình tạo từ đời trước, nên hoàn cảnh chánh báoy báo không ai giống ai. Cái nhìn, cái hiểu biết cũng tuỳ nghiệp lực, vì còn tư duy là còn sinh diệt, còn chịu sự chi phối của nghiệp. Cho nên sự hiểu biếtnhận định là theo ý kiến chủ quan của mỗi người, nếu đòi hỏi tất cả mọi người đều có cùng quan điểm với mình, điều ấy không thể nào hoàn toàn tương đồng được.

Trong một tập thể, dù là tập thể tu hành, cũng có chín người mười ý. Ngay cả những kiến giải trong công phu, đâu phải ai ai cũng giống mình. Một người lúc nào cũng được người xung quanh đồng tình ủng hộ, tuyên bố điều gì cũng được mọi người hô hào tán thưởng, người ấy không khỏi phát sinh ngã mạn, ngày sẽ càng xa rời đạo lý.

Đức Phật dạy: Người biết tôn trọng chân lý thì không bao giờ nói rằng, sự hiểu biết của tôi là đúng, người nào hiểu khác tôi là sai. Người biết bảo vệ chân lý sẽ nói, đây là ý kiến của riêng tôi, không phải ý kiến chung của mỗi người. Trong một cuộc hội thảo, khi bàn một vấn đề nào đó, ta thường thấy có nhiều ý kiến đưa ra, đôi khi chống trái lẫn nhau. Đó là do mỗi người thấy một khía cạnh, nhưng đôi khi những sự tranh luận ấy lại giúp sáng tỏ vấn đề. Cho nên, mỗi người đều có quyền phát biểu quan điểm của mình, nhưng cần tôn trọng quan điểm của người khác. Có thông cảm mới bỏ được những dị biệt cố chấp, có hiểu nhau mới thật sự thương nhau.

Điều 8. “Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân mà có ý mưu đồ.

Thi ânban ơn cho người khác, hoặc vật chất hoặc tinh thần. Khi thi ân cho người khác, chúng ta đừng mong cầu sự trả ơn. Động cơ của ban ơn phải là lòng trắc ẩn, thương người như thương mình, thấy người khổ cũng như mình khổ, nên tìm mọi cách xoa dịu nỗi khổ cho người. Ý nghĩa của Bố thí Ba-la-mật là không thấy pháp để thí, không thấy có người thí và không thấy có người được thí - đó là Tam luân không tịch.

Chúng ta hiểu lời Phật dạy, nên dùng vô tâm để cứu giúp mọi người khốn khổ hơn mình. Nếu làm việc bằng hữu tâm, nghĩa là có mưu đồ tính toán, nghĩ rằng người khác có bổn phận phải biết ơnđền ơn cho mình, thì khi người ấy không đền đáp, chúng ta sẽ phiền não buồn bực, oán người trách đời. Lòng trắc ẩn lúc ấy đã bị vẩn đục, đã bị lớp sương mù ngã chấp che lấp.

Điều 9. “Thấy lợi đừng nhúng tay vào, vì nhúng tay vào thì si mê khởi động.

Mới đọc qua, chúng ta không khỏi thắc mắc: Thường con người làm việc phải hưởng được một vài lợi lạc cho bản thângia đình, miễn lợi lạc ấy chân chính. Ở đây lại dạy, thấy lợi đừng nhúng tay vào; vậy thì chúng ta phải làm việc để làm gì?

Trong kinh A - Hàm, Đức Phật chỉ bày cặn kẽ về những cách ổn định đời sống gia đình, trong đó đời sống kinh tế là quan trọng. Những người tu hành, nếu thấy việc nào có lợi cho Giáo hội, cho công ích cũng vẫn phải làm. Trong tự viện vẫn có quỹ riêng, vẫn phải lo kinh tế tự túc cho chúng Tăng ngoài phần cúng dường của Phật tử. Tất cả đều là lợi. Thật sự, những điều này không có gì trái với điều tâm niệm ở trên, bởi vì Đức Phật muốn nhắc chúng ta, đừng để lợi lạc làm si mê, chạy theo lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng.

Bầy kiến chết chìm trong hủ mật, cá tham mồi cắn câu, chồn tham ăn mắc bẫy… Con người cũng thế, thường cho là khôn ngoan nhưng cũng bị ngũ dục lục trần quyến rũ, nên cứ mãi trầm luân trong ba nẻo sáu đường. Nếu biết ngũ dục chính là mồi ngon nhận chìm biết bao nhiêu kẻ si mê, nếu biết tất cả thú vui trần tục chỉ là huyễn hóa không thật có, chúng ta sẽ tránh được biết bao phiền não khổ đau.

Điều 10. “Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạchnhân ngã chưa xả.

Điều tâm niệm cuối cùng này càng làm chúng ta thắc mắc. Thông thường, khi bị nghi oan hay bị vu cho tiếng xấu, chúng ta cần phải biện bạch, giải thích cho người khác khỏi hiểu lầm mình. Nhất là trong gia đình hay giữa những người bạn bè thân thiết, đôi khi sự hiểu lầm gây nên những đổ vỡ đáng tiếc, có thể không xảy ra nếu chúng ta phân giải rõ ràng. Vậy thì, lẽ thực nằm ở đâu, khi bảo rằng oan ức không cần biện bạch?

Những ân oán giữa người và người đều có nguyên nhân xa hoặc gần từ bao đời kiếp. Hiện tại chúng ta bị vu oan vu cáo, có thể do một kiếp nào đó ta đã gieo nhân không lành tương ứng với quả hôm nay. Nếu chúng ta cố gắng biện minh, đó là do tâm nhân-ngã. Đây là tâm trần lao phiền não, làm chướng ngại cho sự giải thoát. Ở đây, muốn nói đến cảnh giới của Thánh, đó là ý chí phi thường của người không còn bị nhân-ngã-bỉ-thử làm phai nhạt sở nguyện tu hành. Người đã siêu việt thị phi mới rành được việc thị phi; nếu công phu đạt được mức độ nào đó mà còn bận lòng về phải-quấy, tốt-xấu thì công phu sẽ ngưng trệ. Do vậy, chúng ta không thể dùng phàm tình để đo lường sự hiểu biết của bậc Thánh.

KẾT LUẬN

Bởi vậy Đức Phật dạy: “Lấy bệnh khổ làm thuốc thần, lấy hoạn nạn làm giải thoát, lấy khúc mắc làm thú vị, lấy ma quân làm bạn đạo, lấy khó khăn làm thích thú, lấy kẻ tệ bạc làm người giúp ích, lấy người chống đối làm nơi giao du, coi thi ân như đôi dép bỏ, lấy sự xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.

Trong mười tình huống khó khăn nêu trên, Đức Phật luôn dạy chúng ta nhận diện chúng. Không phải trốn tránh, càng không phải chống đối, mà là nhận diện. Đây là bước đầu tiến trình Nhận diện - thức tỉnhchuyển hóa. Khi trực nhận những trở ngại thử thách đến với mình, chúng ta sẽ thấy chúng là những thực tại không thể chối bỏ, là những yếu tố đương nhiên phải có của cuộc sống. Nhờ bệnh tật khổ đau, chúng ta mới thấy thân này là vô thường, không có chủ tể; nhờ những tệ bạc, chống đối, người vu oan giá họa, chúng ta mới thấm thía lý nhân quả; từ đó chúng ta thức tỉnh, thấy cuộc đời chỉ là những trò huyễn mộng, chỉ là hoa đốm giữa hư không. Chúng ta sẽ tăng trưởng đạo tâm, rèn luyện ý chí, củng cố định lực; thực hiện sự chuyển hóa tự thân và chuyển hóa hoàn cảnh, biến nghịch duyên thành thắng duyên. Đức Phật sớm thành đạo quả cũng nhờ Đề-Bà-Đạt-Đa luôn luôn tìm cách chống đối hãm hại Ngài và Ngài đã gọi Đề-Bà-Đạt-Đa là “Thiện hữu tri thức bậc nhất” - Chúng taThích tử, có gan dạ như đức Từ Phụ, hoan hỉ khi gặp được một “Thiện hữu tri thức bậc nhất” như vậy hay không?


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19842)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20910)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19252)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40510)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21246)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41044)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24091)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23036)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17826)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26929)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20715)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33620)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20992)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28884)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12682)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25278)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19130)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17511)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25764)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18998)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18967)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29007)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18894)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33309)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38376)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31229)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18216)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24486)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19442)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17889)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23034)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18010)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32177)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17377)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17425)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16066)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18562)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20761)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18061)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20101)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14873)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20900)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15065)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15758)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12934)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14503)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14899)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29386)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12764)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14515)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant