Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương năm: Lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo

14 Tháng Hai 201100:00(Xem: 7264)
Chương năm: Lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo

NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO
 Tác giả: Lâm Thế Mẫn - Việt dịch: Thích Chân Tính
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO Ha Noi - 2001

CHƯƠNG NĂM
LỢI ÍCH TỐT ĐẸP CỦA VIỆC TÍN NGƯỠNG PHẬT GIÁO

Sự trọng yếu của tôn giáo đối với nhân sinh, trong đó đạo lýrõ ràng dễ thấy nhất, nó là một khâu rất trọng yếu trong sinh hoạt tinh thần của nhân loại, đã cổ lệ và làm phấn chấn con người có được sức mạnh không thể sánh. Đồng thời tôn giáo có thể an định xã hội, tịnh hóa lòng người, khiến cho người ta có đầy đủ tín tâmhy vọng ở tương lai, giúp cho người ta có được sinh hoạt hợp lý, cao thượng.

Nói chung, tôn giáo đối với người bi quan, có tác dụng an ủi vỗ về; đối với người làm càn làm bậy, có hiệu lực cảnh cáo răn đe; đối với người tốt lành cũng có thể giúp họ hăng hái làm điều thiện.

Điều mà chương này cần thảo luậnlợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo, nói thế không phải chê bai tín ngưỡng tôn giáo khác là không có lợi ích tốt đẹp. Tiến sĩ Trương Trừng Cơ trong cuốn “Thế nào là Phật pháp” có nói : “Phật pháp không chê bai tôn giáo khác, Phật pháp cho rằng căn khí chúng sinh khác nhau thì phương pháp dạy đạo cũng không thể chấp nhất”. Nhân đấy các tôn giáotriết học đều có những giá trịcông dụng của nó. Các tôn giáo, ở trong khoảng một thời gian không gian nào đó, đối với một loại chúng sinh nào đó, có tác dụng giáo hóalợi ích thiết thực.

Song giữa các tôn giáo, do trí tuệ và hoài bão của vị giáo chủ khác nhau, giáo lý nói ra sâu cạn cũng bất đồng, phương thức, tinh thần giáo dục cũng có khác. Nhân đó mỗi một tôn giáo, tuy nhiều ít đều có thể đem lại cho người tín ngưỡng những điều lợi ích tốt đẹp, nhưng chỗ rốt ráo thì không giống nhau. Tiểu học và Đại học tuy đều là trường học, đều dạy đạo lý liên quan đến làm người, làm việc, và ngày sau có kỹ năng đứng vững trong xã hội, song vào Tiểu học và vào Đại học sở học và sở đắc có giống nhau không ?

Dưới đây là thuyết minh điều lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo.

1/ Phật giáo có thể khiến cho người ta đạt được nhân sinh quan chính xác

Phật giáo phân tích rõ ràng vấn đề vũ trụ nhân sinh, mục đích ở chỗ giúp cho người ta đối với nhân sinh có được nhận thức chính xác.

Thông thường, người ta có cái nhìn đối với đời sống không ngoài hai loại bi quanlạc quan :

1- Bi quan : Cho rằng đời người ngắn ngủi tạm bợ, sinh mạng giả dối, người ta sống chỉ đợi một ngày nào đó sẽ chết, do đó mà cả ngày vẻ mặt u sầu, ủ rũ.

2- Lạc quan : Loại người này không phải cả ngày tươi vui thật sự, bởi vì sinh hoạt của họ không có mục đíchý nghĩa. Họ chỉ ôm ấp quan niệm “vui chơi theo thời”, cuồng nhiệt vui thú theo dục lạc, nhằm thỏa mãn cảm giác của mình. Ý nghĩa sinh mạng và mục đích đời sống là gì, họ không cần quan tâm, họ cũng không cần biết đến.

nhân sinh quan Phật giáo khẳng định không thuộc ở bi quan và cũng không thuộc ở lạc quan, chúng ta có thể miễn cưỡng gọi là “trung quan”.

Thế nào là “trung quan” ? Tức là không phải buồn than khóc lóc đời sống, cũng không phải buông thả sinh mạng một cách ngớ ngẩn. Trung quan chính là dùng con mắt trí tuệ, quét sạch hết thảy mọi nghi ngờ, sầu muộnhiểu lầm về nhân sinh. Nhận thức một cách chính xác thực tướng của nhân sinh, nắm chắc phương hướng của nhân sinh.

Có người hoài nghi cho Phật giáobi quan, bởi vì đã đề xướng “khổ, không, vô ngã”. Cho rằng nhân sinh đầy dẫy khổ não, cho rằng thế giới trước mắt đều là nhân duyên tạm thời tụ hội mà thành, không có một thứ gì là chân thật, vĩnh hằng cả.

Thật ra Phật giáo chỉ là không “giấu bệnh tránh thuốc” mà thôi, chẳng qua là nói thật chứ không phải là bi quan. Bạn nhìn thử xem nhân sinh chẳng phải là đầy dẫy khổ não sao ? Bạn hãy xem kỹ thế giới này có chân thật, vĩnh hằng hay không ?

Phật giáo không phải là một loại tôn giáo không có tinh thần trách nhiệm. Đầu tiên Phật giáo muốn chúng ta nhận thức nhân sinh ấy là thứ nhân sinh khổ não. Sau đó tiến thêm một bước, phân tích những thứ khổ não ấy của nhân sinh, đều là do vô tri tham dục của chính bản thân con người gây ra và mọi người đều có thể tự mình khắc phục những thứ khổ não ấy. Sau cùng chỉ ra con đường hạnh phúc của nhân sinh, mong muốn chúng ta phải tiết chế dục vọng của mình, vì người khác mà phục vụ. Phật giáo tin chắc rằng : Mình muốn an lạc thì nhất định không thể thiết lập sự an lạc đó trên đau khổ của kẻ khác. Chỉ khi nào toàn thể chúng sinh đều được hạnh phúc an lạc, cá nhân mình mới có hạnh phúc, an lạc chân chính.

Phật giáo cho rằng công danh lợi lộc chỉ là mây khói bay qua mắt, vì sinh ra không đem gì theo, chết rồi cũng không mang gì đi. Do đó khuyên người ta không nên tham luyến quá mức, mong cầu quá mức. Ngược lại còn khuyên người phải biết bố thí, tu phước tu huệ, tránh xa danh lợi. Nhiều của cải cũng không thể tiêu biểu cho sự tốt đẹp về tinh thần của một cá nhân, chỉ có tu dưỡng phẩm chất đạo đức, tịnh hóa tâm linh, mới có thể giúp cho cuộc sống được an vui hạnh phúc.

2/ Phật giáo có thể khiến cho người ta tích cực hướng thượng

Sau khi Phật giáo “phủ định” tất cả, khiến cho người ta không còn tham luyến, truy cầu một cách mê muội nữa. Có như thế mới có thể “tích cực” vì nhân quầnphục vụ, lại còn khẳng định giá trị của cuộc sống và ý nghĩa của sinh mạng.

Phật giáo nói thân thể của con người là “không”, “giả’, mục đích ở chỗ khuyên người không nên “nơi nơi vì ta”, mà phải “ta vì mọi người”. Bởi vì “ta” đã là “không” là “giả” thì công danh lợi lộc có gì là thật đâu ?

Phật giáo lại cho rằng chúng sinhmột thể, vui buồn có nhau, tiểu ngã sinh hoạt trong đại ngã. Do đó cần phải hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã, chẳng những không nên tự tư tự lợi, ngược lại còn phải có tinh thần từ bi giúp người.

Phật giáo không đồng ý về việc vận mạng thao túng trong tay của thần hoặc người khác, tự mình làm tự mình gánh chịu. Do đó mọi người phải chịu đựng nhẫn nại, nỗ lực phấn đấu, muốn ngày mai tươi sáng thì ngày nay phải cống hiến. Nếu không chịu cày cấy khổ nhọc thì làm sao thu hoạch kết quả tốt cho được ?

Phật giáo khuyên người nên “thiểu dục tri túc”, mà không muốn người ta phải trốn tránh trách nhiệm. Phật giáo muốn người ta “vai thép gánh đạo nghĩa” chứ không nên chỉ lo cho bản thân mình. Cái gọi là “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”, “ta không vào địa ngục, thì ai vào ?” đã chứng minh sự tốt đẹp nhất tinh thần cứu nhân độ thế của Phật giáo.

Giới luật của Phật giáo, đối với hành vi của con người không phải là trói buộc cứng nhắc, mà là cổ vũ sinh động. Về phương diện tiêu cực có thể dừng ác phòng ngừa tội lỗi, về phương diện tích cực có thể khuyến khích cứu nhân độ thế. Chẳng hạn như giới “không sát sinh”, mục đíchtinh thần chân chính của nó, không phải ở chỗ bản thân mình không giết mà còn phải khuyên người khác giữ giới sát nữa. Một người lập chí học Bồ tát đạo, tự mình sát sinh vốn là phá giới, nếu thấy người sắp chết mà không cứu cũng phạm giới. Những giới luật khác cũng như vậy, không phải chỉ tự mình không nên “trộm cắp”, “nói dối” mà còn phải khuyên người không nên trộm cắp, nói dối, hết lòng khuyên bảo người cải tà quy chính.

Như thế, tâm lý tự tư “mỗi người tự quét dọn tuyết ở trước nhà mình” sẽ không còn chỗ đứng. Mọi người đều sốt sắng việc công, chăm lo việc nghĩa, tốt đạo đẹp đời, “thực hành đại đạo, thiên hạ là việc công”. Có như thế mới xứng đáng là người tràn đầy nhân ái, luôn tích cực hướng thiện, hướng thượng.

3/ Phật giáo có thể tịnh hóa xã hội lòng người

Trong xã hội loài người vẫn thường xảy ra những chuyện trộm cướp, giết người, hiếp dâm, gian dối v.v… thật khủng khiếp. Ai lại không đau buồn lo lắng ?

Một tín đồ Phật giáo tối thiểu phải nghiêm túc giữ gìn năm điều giới luật cơ bản dưới đây :

1- Không sát sinh : Không tàn hại sinh linh.

2/ Không trộm cắp : Không lấy, không cướp đoạt tài sản của người khác.

3- Không tà dâm : Là quan hệ vợ chồng chính đáng, không ngoại tình hoặc xúc phạm tiết hạnh người khác phái.

4- Không vọng ngữ : Nói lời chân thật, không hư dối, không nói láo.

5- Không uống rượu : Rượu có thể làm loạn tính, khiến cho người ta mất hết lý trí, do đó cần phải cấm tuyệt (chỉ khi có bệnh cần rượu pha thuốc thì mới tạm thời được uống).

Các bạn học hãy suy nghĩ thử xem, năm giới này có trùng khớp với nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho gia đề xướng không ? Như nhân (không sát sinh), nghĩa (không trộm cắp), lễ (không tà dâm), trí (không uống rượu), tín (không nói dối).

Nghiêm thủ năm giớicăn bản của việc làm người, vi phạm năm giới đối với xã hội cũng không thể có chỗ đứng, đồng thời còn bị pháp luật trừng trị, giam cầm tù đày nữa. Phật giáo cho rằng muốn làm “người” thì không thể không giữ ngũ giới, nếu vi phạm thì đời sau không thể được thân người trở lại, mà còn phải đọa vào ba đường ác : Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh (ba loại báo ứng của chúng sinh đó đều là thống khổ không chịu được, do đó gọi là đường ác).

Chúng ta không cần phải để ý đến đời sau như thế nào, chỉ xem việc trước mắt cũng đủ. Người ta không sát sinh thì xã hội sẽ không có án giết người; không trộm cắp thì sẽ không có ăn cắp vặt, cướp đoạt của người; không tà dâm thì không có chuyện ngoại tình, phá hoại luân lý gia đình; không vọng ngữ thì không có việc dối trá lẫn nhau; không uống rượu, thì thân tâm an ổn, đầu óc sáng suốt, không phải vì một lúc say sưa mà hại cả mình lẫn người. 

Một xã hội như thế không phải là xã hội yên tĩnh, an lạc sao ? Do đó tôi cho rằng Phật giáocông dụng tịnh hóa xã hội lòng người.

4/ Phật giáo có thể khiến cho người ta đạt được an lạc chân chính

Người ta muốn có được an lạc chân chính, đại khái cần phải có đầy đủ các yêu cầu dưới đây :

1- Tâm hồn bình tĩnh, không sinh phiền não.

2- Đối với khổ nạn trước mắt, tùy hoàn cảnhgiải quyết, không oán trời trách người.

3- Đối với các vấn đề vũ trụ, nhân sinh, có thể giải đáp một cách hợp lý.

4- Đối với vị lai, có thể được đáp án thỏa đáng.

5- Tiền đồ, vận mạng, chỗ về của mình, cho đến thành bại, khổ vui không phải bị thao túng trong tay kẻ khác.

Tôi nghĩ Phật giáo có thể đáp ứng hoàn toàn yêu cầu ấy của nhân loại vì :

a- Phật giáo khuyên người nên biết đủ thường vui, phải học tập thiền định, lạc quan tiến thủ, tâm ý tự nhiên bình tĩnh thì sẽ không sinh phiền não.

b- Phật giáo cho rằng sự việc nhãn tiền không như ý, đều là kết quả của nhân mà mình đã làm trước đây, cho nên cần phải dũng mãnh nhẫn nại, dám làm dám chịu, không nên oán trời trách người.

c- Kinh điển của Phật giáo không phải ở chỗ ca ngợi quyền uytài năng của Phật, mà là hoàn toàn giải thích triệt để vấn đề cơ bản của vũ trụ nhân sinh, có thể giúp cho người ta đạt được giải đáp hợp lý. Cho nên La Tố, nhà triết học Anh quốc đã nói : “Tôn giáo trên thế giới mà tôi tán thành nhất chính là Phật giáo”. Tôn Trung Sơn nói : “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Khương Hữu Vi nói : “Phật học rộng lớn tinh vi… tuy có triết học của bậc thánh cũng không ứng phó kịp. Giáo lý ấy hàm nghĩa rất sâu xa”. Chương Thái Viêm nói : “Lý luận của Phật giáo khiến cho người thượng trí không thể không tin”. Lương Khải Siêu nói : “Tín ngưỡng Phật giáo là trí tín chứ không phải là mê tín”.

d- Trong kinh Phật có nói : “Phật vì một nhân duyên lớn xuất hiện ở nơi đời”. “Nhân duyên” lớn ấy (tức là mục đích của Phật đến thế gian) là gì ? Chính là vì giúp chúng sinh chuyển mê thành ngộ, từ trong khổ nạngiải thoát, hưởng sự an vui và tự do mãi mãi.

e- Phật giáo cho rằng con người chính là loài hiên ngang khí phách, trên con người không có thần nào có thể thao túng sự sống chết, thành bại, họa phước của chúng ta. Con người là chủ nhân của chính mình, chủ tể của chính mình, chỉ cần tự mình phấn đấu nỗ lực, nhất định sẽ có ngày vinh quang tươi sáng.

Do đó tôi cho rằng tín ngưỡng Phật giáothể đạt đến an lạc chân chính.

5/ Phật là bậc Đạo sư rất hiền từ của nhân loại

Đức Thích Ca Mâu Ni sinh tại nhân gian, là thái tử con vua Tịnh Phạn, đã lìa bỏ công danh phú quý, là một người có đầy đủ lòng từ bi và trí tuệ rộng lớn. Vì nhân loại chưa giải thoát được sinh lão bệnh tử, nên Ngài ăn không ngon, ngủ không yên, phải xuất gia tìm đạo. Sau khi đắc đạo, Ngài thuyết pháp 49 năm, sớm tối truyền bá không mệt mỏi, lưu lại rất nhiều chân lý và lời dạy quý báu, là một ngọn đèn sáng bất diệt của nhân sinh tăm tối, là chiếc thuyền từ không chìm trong biển khổ mênh mông đầy sóng gió. Ai có thể bi tâm như Phật với lời thệ nguyện : “Ta không vào địa ngục thì ai vào ?”.

Phật không bao giờ nổi giận, hoặc xử phạt đệ tử, tuyệt đối không tìm đâu thấy Phật tức giận dùng tai họa, tật dịch để xử phạt loài người.

Phật đối với đệ tử lúc nào cũng hòa ái tươi vui, tha thiết dạy bảo, dù già, trẻ, giàu, nghèo, quý, tiện, cho đến tất cả chúng sinh trong vũ trụ Ngài đều rủ lòng thương chỉ giáo. Tùy theo căn cơ của chúng sinh mà Ngài nói pháp cho họ nghe.

Phật bình thường giáo hóa chúng sinh, lúc giải đáp nghi vấn cho đệ tử, Ngài áp dụng bốn loại phương pháp như sau : 1/ Vấn đề nào cần phải phúc đáp thẳng thắn, 2/ Vấn đề nào nên dùng phương pháp giải đáp phân tích, 3/ Lại có vấn đề nên lấy phản vấn làm phúc đáp, 4/ Cuối cùng, có một loại vấn đề cần phải gác lại. (Tức là tạm thời chưa giải đáp, bởi vì đối phương chưa có thể hiểu được đạo lý ấy, nói ra sẽ làm tăng thêm hoang mang và nghi hoặc cho họ. Như học sinh Tiểu học ngay cả đến số học cũng không hiểu mà hỏi về vi tích phân (toán học) thì thầy giáo làm sao có thể giải đáp cho chúng hiểu được ?).

Phương thức giải đáp vấn đề như thế đó, chính là ứng cơ thuyết pháp.

Phật luôn luôn dùng tâm ái và tâm nhẫn để chỉ dạy đệ tử. Ngài không cho rằng có người ngu đần đến nỗi không thể giáo dục, có người hung ác đến nỗi không thể hối ngộ.

Một đời của Phật cống hiến trí tuệtừ ái của mình, nói ra những chân lý vĩ đại, dạy đạo vô số chúng sinh, nhưng Ngài không tự xưng mình là “giáo chủ” hoặc “chúa tể”. Ngài cho rằng mình đến nhân gian, chỉ là trách nhiệm thừa tiếp người trước, hướng dẫn kẻ sau - phát dương chân lý mà các Đức Phật thời quá khứ đã phát hiện, chỉ dạy cho người biết sau, giác sau.

Bản thân Ngài là Phật, mà Phật tin chắc rằng chúng sinh ở trong vũ trụ, xuyên qua sự nỗ lực và ma sát của bản thân họ, sẽ đạt đến nhân cách vĩ đại, trí tuệ sáng suốt giống như bản thân Ngài.

Ngày nay các bạn đồng học vẫn đọc sách cầu học, nhân đó gọi là học sinh, là chúng sinh biết sau giác sau. Song chỉ cần nỗ lực, một ngày nào đó các bạn cũng có thể học được các tri thức và kỹ năng, cũng ngang bằng với các thầy dạy của các bạn hiện nay, có thể trở thành thầy giáo của người, kế tục sự nghiệp giáo dục, cống hiến cả cuộc đời của mình cho hậu sinh.

Phật với chúng sinhbình đẳng, mỗi một chúng sinh là Phật ở vị lai. Giữa Phật và chúng sinh không phải là mối quan hệ “chủ nhân và nô lệ”, mà chỉ là một loại quan hệ “thầy trò” tạm thời mà thôi.

Các bạn học thân mến ! Lúc mê là chúng sinh, một khi đã khai ngộ thì là Phật với đầy đủ tri kiến chân chính.

Nản lòng, nhụt chí cũng như căn nhà tối tăm đã trải qua thời gian mười năm, chỉ cần đốt lên một ngọn đèn thì có thể xua đuổi bóng tối hàng chục năm, đem lại ánh sáng đầy nhà.

Các bạn đọc thân mến ! Hãy mau thắp lên ngọn đèn bất diệt ở trong tâm của bạn, ánh sáng sẽ ở chung quanh bạn, hạnh phúc sẽ ở bên thân của bạn.

Những đạo lý này chính là do Đức Phật cao quý nói với chúng ta, Ngài không phải là một vị thầy hiền từ nhân ái sao ?

6/ Phật giáo có thể bồi dưỡng nhân cách tự tôn tự tin và độc lập tự chủ

Từ lúc tu hành đến khi thành chính quả, Đức Phật phải ra sức nỗ lực bằng chính bản thân mình, không ai có thể thay thế giúp sức cho Ngài cả.

Phật giáo khẳng định mỗi cá nhân đều là chủ nhân của chính mình, không phải là nô bộc của người khác, không cần phải cầu xin thần hoặc Phật, chỉ cần nỗ lực thực hành theo đạo lý Ngài đã dạy thì có thể thành Phật. Điều này đã cổ vũ lòng tự tin và tự tôn của chúng ta.

Phật giáo cho rằng mỗi người đều có đầy đủ bản tính thành Phật, “trên trời dưới trời chỉ có ta là cao quý”, không ai có thể điều khiển loài người, có thể nô dịch loài người, sự thành bại hạnh phúc của con người hoàn toànbản thân họ. Mà việc tu hành chứng quả là do tự ta hoàn thành nhân cách vĩ đại - thành Phật. Đó là nỗ lực của chính bản thân nhân loại, không phải do ân điển của thần, cũng không phải sự cứu bạt của Phật (mà là chúng sinh tự cứu lấy mình).

Phật giáo cho rằng, con người là vì “mình” mà sống, vì “hết thảy chúng sinh” mà sống (làm cho chúng sinh trong vũ trụ đều được hạnh phúc, an lạc). Đồng thời thành quả của mọi nỗ lực là do tự mình phấn đấu mà có, vinh quang quy về bản thân nhân loại, nếu thất bại đó là nỗ lực của mình không đủ, cần phải cố gắng thêm nữa, nhắm thẳng mục tiêutiến tới.

Tư tưởng này của Phật giáo, nhắc nhở loài người đối với hành vi của mình phải tự mình gánh lấy trách nhiệm không thể quy tội cho trời hoặc oán trách người khác.

Vì thế người ta mới có quyền quyết định vận mạng và tiền đồ của mình, người ta mới có nhân cách độc lập tự chủ (không phải bị lệ thuộc nơi thần, bị thần thao túng, khống chế). Có nhân cách độc lập tự chủ rồi, mới có thể nói đến tự tôn và tự tin.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28288)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6740)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8857)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9390)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15521)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8319)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8745)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16819)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 27104)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18808)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15739)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22675)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19617)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18506)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16332)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25772)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12968)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37946)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20225)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10784)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10134)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10605)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10456)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11092)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15358)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10916)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19821)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11784)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10868)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11316)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10180)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10639)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11626)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10960)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11490)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12221)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11130)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13095)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17902)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15342)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15844)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11062)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12194)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11118)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 22016)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12178)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9246)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20251)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17362)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10156)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant