Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Năm: Hạt Gạo Của Tuyết Phong

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15668)
Tắc thứ Năm: Hạt Gạo Của Tuyết Phong

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ NĂM

HẠT GẠO CỦA TUYẾT PHONG

 

THÙY: Kẻ muốn giữ gìn tông môn của chúng ta hẳn phải là một bậc anh hùng hảo hán, có cái khả năng giết người không chớp mắt, mới có thể lập tức thành Phật được.Cho nên quán chiếu và dụng đồng thời, cuộn mở hòa hợp, lý sự không hai, quyền thực tịnh hành. Bỏ qua một cái ,lập tức kiếp lập nghĩa thứ hai. Nếu như cắt phăng ngay hết những dây dưa, kẻ hậu học sơ cơ, khó có chỗ mà bám víu. Hôm qua như vậy, vấn đề không thể tránh được. Hôm nay mà cũng như thế, thì sai lầm đầy trời. Nếu như là người mắt sáng, chẳng thể bị lừa chút nào. Nếu không như thế, thực chẳng khác gì nằm trong miệng hổ, khó mà không tán thân thất mạng. Thử nêu lên cho quí vị xem.

CỬ: Tuyết Phong dạy chúng nói rằng: “ Gom cả trời đất lại, chỉ lớn bằng một hạt gạo. Ném xuống trước mặt, nếu vẫn mê mờ không hiểu tôi sẽ đánh trống mời tất cả mọi người đến xem.

BÌNH: Trường Khánh hỏi Vân Môn, “ Tuyết Phong nói như thế, còn có chỗ nào không xuất đầu lộ diện được không?” Vân Môn nói, “ Có”.Trường Khánh hỏi, “Tại sao?” Vân Môn nói, “Không phải lúc nào cũng có thể có cái kiến giải của dã hồ tinh được.” Vân Phong nói, “ So với trên thì không đủ, so với dưới thì có đủ. Để tôi thêm dây dưa cho các ông vậy.” Đưa gậy lên nói, “ Còn thấy Tuyết Phong không? Lệnh vua khá nghiêm, không cho phép người ta cướp phá ngoài chợ.” Đại Qui Triệt nói “Để tôi thêm bùn lên đất cho các ông.” Dơ gậy lên nói, “ Nhìn kìa nhìn kìa, lão Tuyết Phong đang ỉa ngay trong mặt các ông. Ôi , tại sao các ông không ngửi thấy mùi cứt thối?”

Tuyết Phong dạy chúng nói, “Gom cả trời đất lại, chỉ bằng một hạt gạo.” Cổ nhân tiếp vật lợi sinh, có những chỗ đặc biệt hết sức. Không bao giờ màng gian khổ, ba lần lên núi Đầu Tử, chín lần đến núi Động Sơn. Đến chỗ nào cũng bầy thùng đen môi gỗ làm đầu bếp chỉ với ý định thấu rõ việc này mà thôi. Khi đến với Động Sơn cũng làm đầu bếp. Một hôm Động Sơn hỏi Tuyết Phong, “Thầy làm gì vậy?” Tuyết Phong nói, “Vo gạo” Động Sơn nói, “ Vo hết gạo hay là vo hết cát?”. Tuyết Phong nói, “Cát với gạo đều vo hết.” Động Sơn nói, “Vậy thì đại chúng ăn cái gì?” Tuyết Phong bèn lật úp chậu. Động Sơn nói, “Chú có duyên với Đức Sơn”. Rồi dạy đến gặp Đức Sơn.

Vừa đến nơi Tuyết Phong đã hỏi, “Kẻ học nhân này có phần gì trong việc truyền thừa của tông phái từ xưa chăng?” Đức Sơn lấy gậy đánh Tuyết Phong rồi nói, “Nói cái gì vậy?” Nhờ đó mà Tuyết Sơn thức tỉnh. Sau bị kẹt tuyết trên Ngao Sơn, Tuyết Phong nói với Nham Đầu, “ Lúc tôi bị ăn gậy của Thầy Đức Sơn, tôi có cảm giác giống như thể cái thùng bị đập lũng đáy”. Nham Đầu hét nói, “ Bộ ông không nghe nói cái gì từ ngoài cửa vào chẳng phải là gia bảo trong nhà sao? Phải là cái gì tự chính trong lòng mình tuôn ra bao trùm cả trời đất, lúc ấy mới có phần nào khế hợp.” Tuyết Phong hốt nhiên đại ngộ, cúi lạy nói, “ Sư huynh, hôm nay đúng là đệ thành đạo trên Ngao Sơn.”

Người thời nay nói rằng cổ nhân bày đặt ra cái gì đó để làm qui củ cho người đời sau. Nói như vậy chỉ là phỉ bang vổ nhân mà thôi, như thế cũng chẳng khác gì là thân Phật chảy máu. Cổ nhân không cẩu thá giống như người thời nay, làm gì mà chịu suy tầm một lời hay nửa câu suốt cả đời? Cho nên đối với chuyện phù trì tông môn, liên tục thọ mạng của Phật, cổ nhân chỉ thốt ra một lời hay nửa câu, cũng đủ làm cho cả thiên hạ cứng họng. Không có chỗ để cho các ông suy nghĩ, cảm tưởng , hay đương đầu với đạo lý. Thử xem cách Tuyết Phong dạy chúng. Vì thầy ta từng gặp gỡ các người thông thạo cho nên thầy ta cũng có búa kềm của tay thông thạo. Mỗi khi Tuyết Phong thốt ra một lời hay nửa câu, tuyệt nhiên không phải là hoạt kế của bọn quỉ trong hàng dựa vào tâm cơ hay ý thức, Chỉ hiển nhiên là một người siêu qyần bạt tụy. Đoán định tất cả việc cổ kim, không để hở cho bất cứ một mối nghi nào. Dụng xứ của Tuyết Phong toàn như thế cả.

Một hôm Tuyết Phong dạy chúng rằng, “ Trên Nam Sơn con rắn có mũi rùa, các ông thử đi xem cho kỹ xem.”Lại nói, “Tất cả trời đất chỉ là con mắt của sa môn, các ông biết đi đâu để ỉa đây?” Lại nói, “Đã gặp các ông ở đình Vọng Châu. Đã gặp các ông ở đình Ô Thạch. Đã gặp các ông ở trước tăng đường.” Lúc ấy Bão Phúc hỏi Nga Hồ, “Khoan nói đến chuyện trước tăng đường, thế nào là gặp ở đình Vọng Châu và đình Ô Thạch.” Nga Hồ lập tức rảo bước về phòng. Tuyết Phong thường dùng những lời này mà dạy chúng.

Gom cả trời đất lại chỉ lớn bằng hạt gạo.” Thử nói xem, cốt yếu của vấn đề này có thể so đo được bằng tình thức chăng? Cần phải đả phá hết màng lưới, được mất thị phi, một lúc buông bỏ cả. Tự tự tại tại, tự nhiên đi xuyên qua được cái vòng dây dưa thì mới thấy được dụng xứ của thầy ta. Thử nói xem, ý của Tuyết Phong ở chỗ nào? Người ta thường hiểu lầm, lấy tri thức cảm quan ra mà hiểu, rồi nói, “ tâm là chủ của vạn pháp,[14]cả trời đất chỉ nằm trong tay ta”. May thay những cái này chẳng có gì là nhằm nhò với vấn đề cả. Đến chỗ này cần phải nhìn suốt tận xương tủy, song không được vướng vào tri thứcý niệm cảm quan. Nếu như ông là một tăng sĩ có bản lãnh, đương nhiên ông sẽ thấy rằng Tuyết Phong nhất nhất đều vì người khác cả.

TỤNG: 

Đầu trâu mất

Đầu ngựa hiện

Trong kính Tào khê[15] dứt bụi trần

Đánh trống nhìn xem Ngài chẳng thấy,

Trăm hoa xuân đến nở vì ai?

BÌNH: Tuyết Đậu đương nhiên thấy cổ nhân kia. Chỉ cần bắt mạch ông ta rồi tụng “đầu trâu mất, đầu ngựa hiện.” Thử nói xem Tuyết Đậu nói cái gì vậy? Nếu như thấy được, thì nó cũng chỉ tầm thường như việc ăn cháo sáng sớm ăn cơm buổi trưa.Tuyết Đậu từ bi,trước tiên một búa đập tan tành hết, rồi đoán định tất cả bằng một câu. Thầy ta đơn độc lừng lững, như đá lửa như điện chớp, không để lộ cái sắc bén của mình, đâu có chổ nào để các ông bám víu. Thử nói xem, các ông có dùng ý căntìm tòi được chăng? Hai câu này một lúc đã nói lên tất cả.

Ở câu thứ ba, Tuyết Đậu khai thông một đường mới, để lộ chút qui củ, kể như đã rơi vào bụi. Nếu như ông trên lời đặt thêm lời, trên câu đặt thêm câu, trên ý đặt thêm ý, rồi theo đó mà giải thích, thì không những chỉ làm lão tăng hệ lụy mà còn phụ lòng Tuyết Đậu nữa. Câu của cổ nhân tuy như thế. Song ý lại không như vậy. Tuyết đậu không bao giờ bày vẽ ra nguyên tắc để trói buộc người ta cả. “Trong kính Tào Khê dứt bụi trần.” Biết bao nhiêu người so đo nói rằng tĩnh tâm tức là kính. May thay những lời ấy chẳng có gì nhằm nhò với vấn đề cả. Nếu các ông chỉ lo phân biện so đo, biết đến bao giờ mới dứt đây? Đó chỉ là những lời căn bản, sư núi tôi đâu dám không dựa theo căn bản. “Đầu trâu mất, đầu ngựa hiện?” Tuyết Đậu đã nói quá rõ ràng. Chỉ tại người ta không tự hiểu mà thôi. Tuyết Đậu luộm thuộm như thế lại tụng tiếp, “Đánh trống nhìn xem ngài chẳng thấy.” Những kẻ mê mờ còn thấy chăng? Tuyết Đậu lại nói với cái ông, “ Trăm hoa xuân đến nở vì ai?” Có thể nói là thầy ta mở rộng cửa nẻo, vạch rõ ra cho các ông. Khi mùa xuân đến, nơi thung lũng thâm u bên khe suối hoang vu, ở một nơi không người lui tới, trăm hoa đua nở. Thử nói xem, rốt cuộc nở vì ai?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33337)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6574)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11327)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30430)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30455)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8005)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12235)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12278)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11635)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12877)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34836)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9867)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52294)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10777)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10545)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10743)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10491)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13105)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16314)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21886)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9644)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7150)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10411)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12800)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12820)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16263)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16558)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13893)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16623)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12157)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13865)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14348)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9232)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11772)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11297)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16367)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14381)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16220)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12710)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12111)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11819)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15695)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11542)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14042)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12033)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12687)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15016)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11983)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13152)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14582)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20753)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13256)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10988)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20742)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14389)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20432)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17683)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14049)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31877)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12038)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant