Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Mốt: Ma Cốc Chống Gậy

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15752)
Tắc thứ Ba Mươi Mốt: Ma Cốc Chống Gậy

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI MỐT

MA CÓC CHỐNG GẬY

 

THÙY: Động thì ảnh hiện, giác thì băng sinh. Nếu như không động không giác, khó mà khỏi rơi vào hang chồn hoang. Hiểu thấu được, đủ lòng tin, không tơ hào chướng ngại, như rồng gặp nước, như cọp dựa núi. Buông bỏ, gạch ngói tỏa sáng; nắm giữ, vàng ròng mất mầu. Công án của cổ nhân, khó tránh vòng vo. Thử nói xem, họ bình luận việc gì vậy?

CỬ: Ma Cốc chống gậy đến gặp Chương Kính. Đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gậy đứng sừng sững đó. Chương Kính nói, “Đúng, đúng.” (Tuyết Đậu phê bình, “Sai!”) Ma Cốc lại đến gặp Nam Tuyền.Lại cũng đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gậy đứng sừng sững đó. Nam Tuyền nói, “Không đúng, không đúng.” Nam Tuyền nói, “Chương Kính thì đúng, ông mới là không đúng. Đây chính là cái bị sức gió chuyển động; cuối cùng thế nào cũng bại hoại.”

BÌNH: Cổ nhân hành cước khắp chốn tùng lâm, duy có việc này trong tâm niệm: chỉ muốn phân biện xem lão hòa thượng ngồi trên giường khắc kia có mắt hay không? Cổ nhân thường thì nếu trong một lời mà khế hợp thì ở lại, còn nếu không khế hợp thì lại đi. Nhìn xem Ma Cốc đến gặp Chương Kính. Đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gập đứng sừng sững đó. Chương Kính nói, “Đúng đúng.” (Muốn sử dụng được) thứ đao giết người kiếm cứu người này, cần phải là một chuyên gia mới được.

Tuyết Đậu nói, “Sai!” Như thế là rơi vào cả hai bên, song nếu các ông dựa vào hai bên mà hiểu, các ông không thấy được ý của Tuyết Đậu. Ma Cốc đứng sừng sững đó. Thử nói xem, thầy ta làm gì vậy? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “Sai!” Ma Cốc sai ở chỗ nào? Chương Kính nói “Đúng” là đúng ở chỗ nào? Tuyết Đậu như thể ngồi đó mà đọc lời phán xét. Ma Cốc ôm chữ “đúng” này mà đến gặp Nam Tuyền. Cũng y như trước đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gậy đứng sững đó. Nam Tuyền nói, “ Không đúng, không đúng.” ( Muốn sử dụng được) đao giết người kiếm cứu người, phải là bậc thầy trong tông môn mới được. Tuyết Đậu nói, “ Sai!” Chương Kính nói, “Đúng, đúng.” Nam Tuyền nói, “ Không đúng, không đúng”. Như thế là giống hay là khác nhau? Người thứ nhất nói, “Đúng.” Tại sao là sai. Người thứ nhì nói, “Không đúng.” Tại sao cũng sai luôn? Nếu như tìm chỗ hiểu trong câu nói của Chương Kính, thì tự cứu mình cũng chẳng còn được nữa. Nếu như dựa vào câu nói của Nam Tuyền mà hiểu được thì có thể cùng làm Thầy với Phật và Tổ. Tuy vậy đi nữa, các nạp tăng phải tự mình tầm cứu mới được, chứ đừng dựa vào lời nói của người khác.

Câu hỏi của Ma Cốc là một, tại sao người thì nói “đúng”, người thì nói “không đúng”? Nếu là người thành thạo thông suốt, đã đạt được đại giải thoát, ắt phải có cách sinh nhai khác. Nếu như là người chưa quen được cả cơ lẫn cảnh, nhất định thế nào cũng bị vướng vào hai phía này. Nếu như muốn biện rõ cổ kim, làm líu lưỡi tất cả mọi người trong thiên hạ, cần phải nắm được hai cái “sai” này thì mới được. Cho đến cuối, Tuyết Đậu chung qui cũng chỉ tụng hai cái” sai” này. Tuyết Đậu muốn nêu lên cái chỗ sống động, chonên mới nói như thế. Nếu các ông là những kẻ dưới da có máu, đương nhiên là không dựa vào ngôn cú mà hiểu, không nắm vào cái cột buộc lừa mà chấp làm đạo lý. Có người nói rằng Tuyết Đậu thay cho Ma Cốc mà nói hai chữ “ sai” này. Song nói như thế có gì là đúng? Đâu có biết rằng khi cổ nhân phê bình đã khóa chặt cửa ngõ, phía này cũng đúng mà phía kia cũng đúng. Song rốt cuộc chẳng thuộc về phía nào cả. Khánh Tàng Chủ nói, “Chống gậy bước quanh giường Thiền, đúng với không đúng đều sai. Kỳ thực cũng không phải là ở đây.”

Há không biết chuyện Vĩnh Gia đến Tào Khê gặp Lục Tổ, đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống gậy đứng sừng sững đó. Lục Tổ nói, “Đại sa môn phải có ba ngàn uy nghi, tám vạn tế hành. Đại đức từ đâu đến sinh đại ngã mạn như thế để làm gì?” Tại sao Lục Tổ lại nói là Vĩnh Gia sinh đại ngã mạn? Thầy ta đâu có nói “đúng” hay “không đúng”. “Đúng” với “không đúng” chỉ là cái cột buộc lừa mà thôi. Chỉ có Tuyết Đậu phát biểu ra hai chữ “sai” là còn có chút gì.

Ma Cốc nói, “Chương Kính nó “đúng”, tại sao hòa thượng lại nói “không đúng?” Lão hán này không tiếc lông mày, lậu đậu không ít. Nam Tuyền nói, “Chương Kính thì đúng, ông mới là không đúng.” Nam Tuyền có thể nói là thấy thỏ thả ưng. Khánh Tàng Chủ nói, “Nam Tuyền tha thiết quá đáng nhẽ có thể qua loa mà chấm dứt ở chỗ “không đúng”, lại vạch ra chỗ lầm lẫn của người kia mà nói rằng, “Đây chính là cái bị sức gió chuyển động, cuối cùng thế nào cũng bại hoại.” Kinh Viên Giác nói, “ Nay thân tôi đây, tứ đại hòa hợp. Những cấu sắc gọi là tóc, lông , móng, răng, da thịt, gân, cốt, tủy , não rồi cũng đều trở về với cát bụi.Nước miếng , nước mũi,mủ, máu đều trở về với nước. Hơi thở ấm trở về với lửa, động tác trở về với gió. Lúc tứ đại chia lìa, cái thân giả tạm này biết tìm ở chỗ nào?” Lúc Ma Cốc chống gậy đi quanh giường Thiền đã là bị sức gió chuyển động cuối cùng thế nào cũng bại hoại. Thử nói xem, rốt cuộc việc phát minh tâm tông là ở chỗ nào? Đến chỗ này rồi phải là một ngươì do thép sắt đúc thành mới được.

Há không nghe chuyện Trương Chuyết Tú Tài đến tham kiến Tây đường Tạng Thiên Sư, rồi hỏi rằng, “Sơn hà đại địa là hữu hay vô? Tam thế chư Phật là hữu hay vô? Tây Đường Tạng nói, “ Hữu.” Trương Chuyết Tú Tài nói, “ Sai” Tây đường Tạng nói, “Tiền bối từng tham kiến những ai rồi?” Trương Chuyết Tú Tài nói, “Tham kiến Kính Sơn Hòa Thượng, phàm kẻ hèn này hỏi bất cứ gì Kính Sơn cũng nói vô cả.” Tây Đường Tạng nói, “Tiền bối có quyến thuộc gì không?” Trương Chuyết nói, “ Có một vợ quê mùa, hai đứa con đần độn.” Tây đường Tạng hỏi, “Kính Sơn có gia quyến gì không?” Trương Chuyết nói, “Kính Sơn là bậc cổ Phật thầy đừng phỉ bang ngài có được không?” Tây Đường Tạng nói, “Đợi khi nào tiền bối được như Kính Sơn rồi hãy nói tất cả đều là vô.” Trương Chuyết đành cúi đầu khuất phục. Phàm các bậc tông sư thành thạo lúc nào cũng muốn cởi bỏ những cái dính dấp trói buộc, nhổ cọc gỡ chốt cho người khác. Họ không thể chỉ nắm vào một phía, mà phải biết lách bên phải xoay bên trái, lách bên trái xoay bên phải.

Xem lúc Ngưỡng Sơn đến Trung Ấp để cảm tạ Trung Ấp đã truyền giới. Trung Ấp thấy Ngưỡng Sơn tới bèn vỗ lên giường Thiền và nói, “Hòa thượng”. Ngưỡng Sơn bèn đứng qua phía đông rồi lại đứng qua phía tây, rồi lại đứng vào giữa. Lúc cảm tạ xong lại lui về phía sau mà đứng. Trung Ấp nói, “Ông đắc tam muội ấy ở đâu vậy?” Ngưỡng Sơn nói, “Đắc từ Tào Khê ấn.” Trung Ấp nói, “Ông thử nói xem Tào Khê dùng tam muội này để tiếp ai?” Ngưỡng Sơn nói, “ Tiếp Nhất Túc Giác.” [1] Rồi Ngưỡng Sơn lại hỏi, “ Hòa thượng đắc tam muội này ở đâu vậy? Trung Ấp nói, “Ta đắc tam muội này từ Mã Tổ.” Lối nói chuyện như vậy, phải chăng là của những người nêu một hiểu ba, thấy gốc theo ngọn?

Long Nha dạy chúng rằng, “ Phàm những người tham học, phải thấu qua Tổ Phật thì mới được. Tân Phong Hòa Thượng nói, “Xem ngôn giáo của Tổ Phật như oan gia, lúc ấy mới có chỗ để tham học.” Nếu như không thấu qua được thì chỉ bị Tổ Phật lừa mà thôi.” Lúc ấy có ông tăng hỏi, “Tổ Phật mà còn có tâm lừa thiên hạ sao?” Long Nha nói, “Ông thử nói xem sông với hồ có tâm làm trở ngại thiên hạ không?” Rồi lại nói tiếp, “Tuy rằng sông hồ không có tâm làm trở ngại thiên hạ, chỉ tại vì thiên hạ không qua sông được. Cho nên sông với hồ đâm ra trở thành chướng ngại.Không thể nói rằng sông với hồ không trở ngại thiên hạ. Tổ Phật tuy không có tâm lừa thiên hạ, song chỉ vì thiên hạ không thấu qua được, cho nên Tổ Phật đâm ra thành lừa thiên hạ. Không thể nói là Tổ Phật không lừa thiên hạ. Nếu như thấu qua được Tổ Phật, kẻ ấy vượt qua Tổ Phật. Song cần phải thể hội được ý của Tổ Phật thì mới ngang hàng với những bậc cổ nhân hướng thượng được.Nếu như chưa thấu được, thì dù có học Phật học Tổ đi nữa, vạn kiếp cũng chẳng có khi nào đắc được.” Ông tăng lại hỏi, “ Phải như thế nào thì mới không bị Tổ Phật lừa?” Long Nha nói, “Ông phải tự ngộ lấy mới được.” Đến chỗ này rồi cần phải như thế. Tại sao vậy? Vì người , thì phải vì cho trót; giết người thì phải thấy máu. Nam Tuyền, Tuyết Đậu là những người như thế, cho nên mới dám nêu lên mà chơi.

TỤNG

Đây sai kia sai,

Kỵ nhất đừng lấy.

Bốn bề sóng yên,

Trăm sông triều xuống.

Cổ sách phong cao thập nhị môn,

Mỗi cửa có đường trống sơ xác.

Không sơ xác,

Chuyên gia phải kiếm thuốc không bệnh.

BÌNH: Tụng này giống công án Đức Sơn gặp Qui Sơn. Trước tiên đem công án ra bình thêm hai chuyển ngữ rồi xâu thành một chuỗi , sau đó mới tụng ra. “Đây sai kia sai, kỵ nhất đừng lấy.” Ý Tuyết Đậu là: ở đây một cái sai, ở kia một cái sai, kỵ nhất là đừng lấy nó đi. Lấy đi là sai. Phải đặt hai cái sai như vậy thì mới thấy được rằng, “ Bốn bề sóng yêu, trăm sông triều xuống.” Gió mới trong trăng mới sáng làm sao! Nếu như các ông hiểu được hai cái “sai” này, thì chẳng còn có sự việc gì nữa: núi là núi sông là sông, cái dài tự dài, cái ngắn tự ngắn, năm ngày một trận gió, mười ngày một cơn mưa. Cho nên mới có câu nói, "Bốn bề sóng yên, trăm sông triều xuống.”

Đoạn cuối tụng Ma Cốc chống gậy rằng, “ Cổ sách phong cao thập nhị môn.” Cổ nhân dùng roi làm gậy, các nạp tăng thì dùng tích trượng làm gậy. Trên Dao Trì của Tây Vương Mẫu có mười hai cửa đỏ. “Cổ sách” có nghĩa là vậy. Gió trên đầu gậy cao hơn mười cửa đỏ. Nơi các thiên tửĐế Thích ở mỗi chỗ cũng đều có mười hai cửa đỏ. Nếu như các ông hiểu được hai cái “sai” này, thì đầu gậy phát ra ánh sang, ngay cả cổ sách cũng không làm gì được. Cổ nhân nói, “Nếu hiểu được cây gậy, cả đời tham học của ông kể như xong.” Lại cũng nói, “Không phải chỉ là bầy vẽ bề ngoài vô sự, mà nó giống như dấu vết cây bảo trượng của Như Lai.” Nó cũng thuộc về loại đó. Đến chỗ này rồi, thất điên bát đảo, trong mỗi lúc đạt được đại tự tại.

“Mỗi cửa có đường trống sơ xác.” Tuy có con đường, song lại trống không sơ xác. Đến chỗ này Tuyết Đậu tự cảm thấy lậu đậu, cho nên mời đả phá cho các ông. Song dù là như thế, vẫn có chỗ không sơ xác. Dù cho là tay chuyên gia đi nữa, lúc không có bệnh cũng nên tìm chút thuốc mà uống trước mới được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33347)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6581)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11339)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30432)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30460)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8010)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12243)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12285)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11643)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12887)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34848)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9871)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52301)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10790)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10551)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10747)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10498)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13109)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16320)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21892)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9650)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7154)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10420)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12810)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12826)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16268)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16562)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13900)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16628)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12163)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13870)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14352)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9240)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11778)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11301)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16373)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14388)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16227)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12715)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12123)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11826)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15698)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11548)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14048)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12037)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12693)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15020)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11987)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13155)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14584)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20759)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13260)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10995)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20747)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14395)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20435)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17688)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14053)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31888)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12048)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant