Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vua trời Đế Thích tham kiến Phật

13 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 20255)
Vua trời Đế Thích tham kiến Phật

VUA TRỜI ĐẾ THÍCH THAM KIẾN PHẬT 
Toàn Không


 dethichthamkienphat-toankhong Khi đức Phật ngự trong động Nhẫn-Đà Bà-La, tại núi Tà-đà, thuộc nước Ma-kiệt-Đà, bấy giờ Vua Trời Thích (Đế-Thiên Đế-Thích, cũng gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế) khởi tâm muốn đến gặp Phật. Ngay khi ấy, các vị Trời cõi Đạo-Lợi biết được Đế-Thích khởi tâm như thế, liền đến chỗ Đế-Thích thưa :

- Nay Ngài khởi tâm thiện vi diệu muốn đến chỗ Như-Lai nơi cõi trần phàm, chúng tôi cũng muốn theo hầu, để được đến mà chiêm báihọc hỏi nơi Thế-Tôn.

 Lúc đó Đế-Thích bảo Thần-nhạc là Bàn-giá-Dực rằng:

- Ta muốn đến nơi Thế-Tôn ngự, vậy ông và chư Thiên có thể đi cùng ta đến đó.

 Thần nhạc đáp:

- Thưa vâng.

 Rồi Thần nhạc cầm cây đàn Lưu-ly khảy khúc đàn cúng dàng Đế-Thích và chư Thiên. Tiếng đàn vừa dứt, chỉ trong khoảnh khắc như người lực sĩ duỗi cánh tay, họ biến mất khỏi Thiện Pháp-đường cõi Trời và đến trên núi Tỳ-Đà.

 Trong khi ấy, đức Phật đang nhập định Hỏa-diệm tam-Muội, khiến cả vùng núi có một màu đỏ rực; một vài người dân trong vùng gần đấy trông thấy tự nói: “Núi Tỳ-Bà là một biển lửa ! Không biết chuyện gì đã xẩy ra mà đang đêm cháy như thế?”. Đế-Thích bảo Bàn-già-Dực:

- Đức Như-Lai ra đời thật hy hữu hiếm có, Ngài thường được các chư Thiên và đại Qủy-Thần theo hầu. Nay ông hãy vào động Nhẫn-Đà Bà-Là khảy đàn cúng dàng Như-Lai, còn ta và chư Thiên sẽ đến sau.

 Vâng lời Đế-Thích, Bàn-già-Dực liền vào động khảy khúc đàn hòa với tiếng ca cúng dàng Như-Lai, tiếng đàn trầm bổng, xen với tiếng hát ca tụng công đức vô lượng vô biên của Như-Lai; khi đàn hát vừa dứt, thì đức Phật xuất định, và bảo Bàn-già-Dực:

- Hay thay! Hay thay! Ông có thể dùng âm thanh thanh tịnh hòa điệu với tiếng đàn Lưu-ly để khen ngợi Như-Lai; giọng ca, tiếng đàn uyển chuyển, trầm bổng, mà có ý nghiã tham dụctrói buộc, phạm hạnh của Sa-môn đưa đến giải thoát.

 Lúc đó Bàn-già-Dực liền đảnh lễ Phật, xong thưa:

- Vua Trời Thích và chư vị Trời Đạo-Lợi sai con đến thăm hỏi đức Thế-Tôn có được mạnh khoẻ không, đi đứng có được thoải mái không?

 Đức Phật nói :

- Ta mong cho Đế-Thích của ông, và Chư Thiên Đạo-Lợi sống lâu, an vui, và không hoạn nạn.

 Lúc ấy, Đế-Thích tự nghĩ: “Bây giờ chúng ta nên đến ra mắt Như-Lai cho đúng lúc”. Nghĩ rồi cùng Chư Thiên vào động đảnh lễ và thưa:

- Đế-Thích và Chư Thiên Đạo-Lợi đến đảnh lễ Như-Lai, không biết chúng con nên ngồi gần hay nên đứng cách xa đức Thế-Tôn?

 Phật đáp:

- Thiên chúng của ông quá đông, vậy nên ngồi gần Như-Lai.

 Lúc đó động đang chật hẹp tự nhiên rộng hẳn ra, chứa hết chư Thiên, và chỉ trong khoảnh khắc tất cả đã an vị xong, Đế-Thích nói:

- Trước kia, có một lần Thế-Tôn ngự tại nước Xá-Vệ, lúc ấy trong khi Ngài đang nhập định, con vì có chút việc nên ngồi xe báu nghìn căm đến chỗ Tỳ-lâu-Lặc Thiên-Vương. Khi đi ngang qua hư không, con thấy một Thiên nữ đang chắp tay đứng trước Thế-Tôn, con liền nói với nàng ấy rằng: “Nếu khi Thế-Tôn xuất định, nàng hãy nhân danh ta thăm hỏi đức Thế-Tôn có được mạnh khoẻ thoải mái không?”. Nhưng không biết Thiên-nữ ấy có hiểu được hậu ý của con không, đồng thời Thế-Tôn có còn nhớ sự việc ấy không?

 Phật đáp:

- Nhớ, Thiên-nữ ấy đã nhân danh ông mà nói đúng như những lời ấy, và khi Ta xuất định cũng nghe tiếng xe của ông.

 Đế-Thích lại nói:

- Thuở xưa có một Thiên chúng nói: “Nếu Như-Lai xuất hiện ở thế-gian, Thiên chúng các cõi Trời sẽ tăng lên, và A-Tu-La (Thần) sẽ giảm bớt vì do sự giáo hóa của Như-Lai”. Nay đích thân con thấy Như-Lai đang ở thế-gian, thì tự con biết rằng Chư Thiên đang tăng lên, và A-Tu-La đang giảm xuống, đó là điều vô cùng vui mừng thấy được Thế-Tôn nơi đây.

 Ca tụng Phật xong, Đế-Thích nói tiếp:

- Thưa Thế-Tôn, có Thích-nữ Cù-Di ở nơi Pháp của Thế-Tôn trước đây tu phạm-hạnh, sau khi qua đời ở thế-gian, được sinh về cõi Trời và làm con của con; Chư Thiên đều khen ngợi Thiên-nữ Cù-Di có công đức lớn, có oai lực lớn. Lại có ba Tỳ-kheo cũng theo Thế-Tôn tu phạm hạnh trước kia, cũng được sinh lên cõi Trời, nhưng lại ở địa vị thấp kém hơn, làm kẻ đánh nhạc ca hát cho con.

 Nói đến đó, Đế-Thích lại thưa tiếp:

- Nếu Thế-Tôn có rảnh, xin Ngài cho con hỏi một điều thắc mắc.

 Phật nói:

- Tùy ý ông cứ hỏi, Ta sẽ tùy từng trường hợpgiải thích cho.

 Đế-Thích hỏi:

- Thế nào là cứu cánh của một vị tu hành?

 Đức Phật giảng:

- Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).

 Đế-Thích thưa:

- Con đã ôm ấp mối nghi này từ lâu, nay nhờ Thế-Tôn mà con được giải nghi. Con còn nhớ ngày xưa con đã từng đến nơi Bà-la-Môn để hỏi về nghiã này rồi, vì trước đó, con cùng chư Thiên đã nhiều lần thảo luân về Như-Lai đã xuất hiện ở thế-gian này hay chưa. Chúng con cũng đã đi tìm kiếm khắp, nhưng không thấy Như-Lai, nên chúng con trở về Thiên cung vui thú ngũ dục.

 Về sau, con thấy một số chư Thiên, đại Thiên-Thần sau khi vui thú ngũ dục thì dần dần lần lượt mạng chung (chết). Thấy như thế xong, con đâm ra sợ hãi cùng cực, không biết làm sao, con bèn hội họp chư Thiên lại thảo luận để tìm nguyên nhân, nhưng chẳng ai biết được! Con bèn đi tìm những vị Thánh ở thế-gian để hỏi, con thấy Sa-môn, Bà-la-Môn ở nơi thanh vắng tu hành lánh tục, con liền đến chỗ ấy mà hỏi: “Thế nào là cứu cánh của một vị tu hành ?”. Khi con hỏi như thế, người ấy không đáp được, đâm ra lúng túng, lại còn hỏi ngược lại con: “Ông là ai?” Con đáp: “Tôi là Thích-đề-hoàn-nhân”. Họ lại hỏi: “Ông là Thích, mà là Thích gì?” . Con lại đáp: “Tôi là Vua Trời Thích (Thiên Đế-Thích)”. Khi đó, con và họ cứ theo sự hiểu biết của mình mà nói qua nói lại một hồi, kết quả chẳng đi đến đâu. Xong, họ lại tự nguyện xin làm đệ-tử của con! Do đó sự thắc mắc ấy vẫn giữ mãi trong tâm cho tới nay mới được Thế-Tôn giải mối nghi to lớn của con.

 Thưa Thế-Tôn, nay con là Phật-tử, đã chứng quả thứ nhất Tu-đà-hoàn. Cúi xin Thế-Tôn thọ ký cho con sẽ chứng quả thứ hai Tư-đà-hàm.

 Phật bảo Đế-Thích:

- Ông còn nhớ khi được hỷ lạc (sung sướng vui vẻ) và niệm lạc (ý nghĩ vui sướng) không?

- Thưa Thế-Tôn, con còn nhớ ngày xưa, con và chư Thiên đã cùng A-Tu-La đánh nhau, chúng con thắng , A-Tu-La bại. Khi trở về ca khúc khải hoàn thật là sung sướng vui vẻ vô cùng. Tuy nhiên, đó chỉ là sự vui vẻ sung sướng trên chiến tranh, chửi lộn, đánh nhau, dùng mưu kế đánh đập, hành hạ, giết chóc.

 Nay con ở nơi Phật ngự được thoải mái, vui vẻ, không có binh giáp chiến tranh, không có đánh đập giết chóc, mà trí tuệ lại được mở mang.

- Vậy ông ở trong sự hỷ lạc (vui sướng) này còn mong cầu điều gì nữa?

- Con mong cầu được tăng tuổi thọ, sau này qua đời khi tái sinh không còn lo buồn. Con lại biết nói chính đạo, nhớ tu phạm hạnh, và thấy được chân-đế (chân lý).

 Thưa Phật tới đó, Đế-Thích xoay qua nói với chư Thiên:

- Chư Thiên, các ông ở trước Phạm-Đồng-Tử (Phạm Thiên Vương) cung kính lễ bái, nay ở trước Thế-Tôn các ông cung kính lễ bái, như vậy thì không đẹp lắm sao?

 Khi Đế-Thích vừa nói dứt lời, Phạm Đồng-Tử bỗng nhiên xuất hiện giữa hư không bên trên chúng Thiên, đồng thời hướng về Đế-Thích nói kệ:

Thiên-Vương hạnh thanh tịnh,

Nhiều lợi ích chúng-sanh,

Ma-Kiệt, Đế-Thích chủ,

Hay hỏi nghĩa Như-Lai.

 Phạm Đồng-Tử vừa nói kệ xong, bỗng nhiên biến mất; rồi Đế-Thích đứng lên đảnh lễ Phật, Chư Thiên, Bàn-già-Dực cùng đứng lên đồng loạt đảnh lễ Phật, rồi tất cả đều biến mất khỏi chỗ Phật chỉ trong chớp mắt.

 Đế-Thích đi trước, xoay lại nói với Bàn-già-Dực:

- Hay thay, ông có thể ở trước Như-Lai khảy đàn ca hát vui vẻ cúng dàng, sau đó ta và Chư Thiên đến sau; nay ta bổ nhiệm ông vào chức vị của cha ông là bậc tối thượng cuả hàng Càn-thát-Bà (Nhạc Thần), đồng thời sẽ gả Bạt-Đà Càn-Thát Vương-nữ cho ông làm vợ.

 Bàn-già-Dực thưa:

- Xin đa tạ Thiên-Vương, kính chúc Thiên-Vương vạn vạn tuế.,.

 

Toàn Không


Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 164)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 200)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 289)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 205)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 254)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 337)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 301)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 383)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 614)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 475)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 579)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 753)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 836)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 858)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 844)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 711)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 814)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 941)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 717)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 616)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 714)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 824)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 712)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 708)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 824)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 851)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 887)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1085)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1672)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1213)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1279)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1559)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2034)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1099)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1287)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1293)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1025)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant