Bài Văn Tín Tâm
Đời Tùy, Tam Tổ Tăng Xán Sáng Tác
Thánh Tri Phỏng Việt Dịch Lời Nghĩa
(Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010)
Tín Tâm Minh hay Bài Văn Tín Tâm được Tam Tổ Tăng Xán làm vào đời nhà Tùy bên Trung Quốc. Ngài là một vị thiền sư đã Kiến Tánh Liễu Đạo đương thời được truyền tâm ấn và y bát bởi Nhị Tổ Huệ Khả, và là thầy của Tứ Tổ Đạo Tín. Đã khiến cho Phật pháp được sáng tỏ cả một gốc trời. Sử sách còn ghi rằng ngoài truyền y bát và tâm ấn cho Tứ Tổ Đạo Tín, Tổ Tăng Xán còn ấn chứng cho ngài Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi, vị sư người Ấn Độ sang Trung Quốc tham học lúc bấy giờ. Sau đó, ngài Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi theo lời Tổ Tăng Xán dạy mà đến đất phương Nam giáo hóa. Do vậy thiền phái Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi ở Việt Nam từ đó mà có và từng sáng chói một thời.
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán, cũng như mỗi chữ mỗi câu, nói ngược nói xuôi đều thông suốt lẫn nhau, nên người dịch không thể nào Việt dịch đúng 584 chữ được. Vì vậy mà phải dựa theo ý chỉ để dịch ra lời nghĩa. Nếu dịch như các bản dịch trước thì khó mà thấu rõ được. Đồng thời người dịch cũng có kèm theo bản chữ Hán và Hán-Việt đi đôi với nhau cho dễ thấy, dễ đọc, dễ học, và dễ nghiên cứu. Tuy là dịch lời nghĩa nhưng cũng không phải là việc dễ làm, bởi nếu không từng nghiên cứu và đi cùng một đường Tâm này thì những lời dạy của Tổ khó mà lãnh hội được, thì lấy đâu mà dịch cho rõ ràng được! Do vậy, nên phải khép mình theo khuông phép của cổ đức đi trước như dựa chính vào bài Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải của Thiền Sư Trung Phong Minh Bổn (1263 – 1323) ở cuối thời Nam Tống, đầu thời nhà Nguyên, do cố Hòa Thượng Thích Duy Lực Việt dịch.
Người dịch đã cố gắng hết sức để dịch nghĩa bài Tín Tâm này cho rõ ràng và khế hợp với ý chỉ Thiền Tông và tinh yếu của Phật pháp. Tuy nhiên cũng không sao tránh khỏi lỗi lầm sai sót bởi vì còn là người trong đường mê sinh tử. Còn bài văn này là của người đã hoàn toàn giác ngộ giải thoát. Há có thể đem tâm thức phàm tình mà suy lường chỗ tình thức không tới được của Phật, của Tổ ư? Càng suy lường thì càng không tới được. Do vậy câu đầu tiên Tổ dạy là “Chí Đạo vô nan, duy hiềm giản trạch” [Đạo cùng tột thì không có gì khó, chỉ sợ còn tình thức phân biệt mà thôi (câu 1)] là vậy.
Đã là người sống trong thế giới tương đối thì phải thuận theo sự tương đối mà sống và tu cho phù hợp. Người của thời đại nào, dù đã giác ngộ hay chưa giác ngộ, từ xưa đến nay và mãi tận vị lai cũng phải thế. Cái thân vật chất vốn thuộc về thế giới tương đối. Lúc xưa thân tứ đại do nhân duyên hòa hợp mà thành, hiện tại thân tứ đại nương gá nơi các duyên mà duy trì, và tương lai cũng phải theo nhân duyên biệt ly mà trả về cho tứ đại. Có hội tụ thì phải có chia lìa, đó là thuận theo sự tương đối đó vậy. Muốn không thuận theo cũng không thể được!
Vậy thì với sự tu học và hành Phật pháp của chúng ta trong hiện tại cũng phải tùy thuận nhân duyên nghiệp quả trong tương đối mà làm. Đối với người đã giác ngộ thì không có việc đem tâm cầu Đạo, bởi Tâm chính là Đạo, Đạo chính là Tâm vậy, nên Tổ cũng dạy “Tương tâm dụng tâm, khởi phi đại thác” [đem tâm dụng tâm, há chẳng phải là lầm lớn đó sao? (câu 42)]. Hơn nữa bài văn nói “Ngôn ngữ đạo đoạn, phi khứ lai kim” [đường ngôn ngữ dứt, chẳng phải là quá khứ, hiện tại, hay vị lai (câu cuối 73)], lại nói “Mẫn kỳ sở dĩ, bất khả phương tỷ” [Nó bặt hết mọi lý giải, chẳng thể thí dụ được (câu 51)] thì làm sao và lấy gì để cầu? Lại trong mười phương ba đời không có chỗ nào là không phải Đạo, Đạo luôn rõ ràng ở ngay trước mắt [Vô tại bất tại, thập phương mục tiền (câu 65)], đâu do cầu mà được?!
Còn đối với người chưa giác ngộ thì chưa thể thấy biết được việc ấy, nên cũng chưa thể tin nỏi được việc ấy, nên Tổ nói “Tiểu kiến hồ nghi chuyển cấp chuyển trì” [Người mê thấy biết nhỏ hẹp nên sinh tâm nghi ngờ, muốn gấp thì lại càng trễ (câu 32)]. Do vậy nên Tổ mới làm bài văn Tín Tâm này để khuyến tín kẻ ‘tiểu kiến hồ nghi’ vậy. Cho nên phải buộc lòng đem tâm thành mà cầu Đạo vậy. Nếu không thì biết đâu mà vào, biết đâu mà xu hướng tới? Phải mượn Văn Tự Bát Nhã để Quán Chiếu Bát Nhã mà chứng Thật Tướng Bát Nhã vậy (nói thế cũng là miễn cưỡng mà nói bởi Đạo đã không có chỗ để cầu thì lấy chỗ nào để chứng?). Há chẳng từng nghe trong quá khứ đức Thế Tôn cũng đã xã bao thân mạng để cầu Đạo và chư Tổ cũng chẳng quảng ngàn dậm xa xôi mệt nhọc để cầu Pháp đó hay sao? Hơn nữa Tổ cũng dạy “Bất thức huyền chỉ đồ lao niệm tĩnh” [Nếu chẳng biết cái Tâm Yếu Sâu Xa, thì uổng công tịnh niệm (câu 6)]. Phải biết đường mà tu, hướng để vào, nếu không chỉ uổng công lao nhọc tịnh niệm, đi loanh quanh ngoài cửa Đạo mà thôi. Do vậy đành phải tạm mượn cái tướng và nương nơi sự tương đối để biết mà đi bằng đường Tâm vào bản Thể Tuyệt Đối vậy.
Ôi! Đạo rộng lớn thênh thang thế ấy mà không có chỗ vào! Rộng lớn thênh thang thế ấy mà đường tơ chẳng lọt! Tại sao thế? Bởi vì còn tình thức phân biệt vậy! Cho nên Tổ dạy “Hào ly hữu sai, thiên địa huyền cách” [Hễ còn mảy may tình thức phân biệt, thì cũng như đất trời xa cách nhau vậy (câu 3)]. Lại nói “Chấp chi thất độ, tất nhập tà lộ” [Hễ chấp thì lạc phương hướng, tâm sẽ rời vào đường tà (câu 33)]. Vậy, muốn vào Đạo này thì phải làm sao? Nói muốn cũng là tạm bàn, chứ kỳ thật móng khởi một cái tâm muốn thì cũng trệch đường, cách Đạo rồi vậy. Nên bài văn nói“Tài hữu thị phi, phân nhiên thất tâm” [Vừa có phải quấy lăng xăng, thì lạc mất bản Tâm (câu 22)]. Tổ đã từ bi phương tiện miễn cưỡng mà chỉ cho những kẻ lầm mê như mình cách để vào Đạo như sau: Nếu đừng có tâm yêu ghét, thì Tâm này tự nhiên thông suốt minh bạch (câu 2); nếu muốn Tánh Giác hiện tiền, thì chớ còn tâm thuận nghịch (câu 4); chẳng cần cầu chơn, chỉ cần dứt hết sở kiến hai đầu thì toàn thể tức chơn (câu 20); muốn hướng tới Đạo Nhất Thừa, thì chớ có chán ghét lục trần (câu 38); lục trần chẳng ghét, thì cùng về với Chánh Giác (câu 39); và nếu muốn mau tương ưng, chỉ nói Bất Nhị (câu 61).
Nói cho cùng thì chẳng ngoài việc buông xuống tình thức phân biệt vậy. Cho nên Tổ nói “Đắc thất thị phi, nhất thời phóng khước” [Được mất phải trái, phải cùng một lúc buông bỏ hết (câu 46)], bởi vì “Đa ngôn đa lự, chuyển bất tương ưng” [Nói nhiều lo nhiều, loanh quanh mãi thì càng chẳng tương ưng với Đạo (câu 15)], còn “Bất kiến tinh thô, ninh hữu thiên đảng” [Nếu không còn thấy có đẹp xấu, thì đâu có thiên lệch bên nào? (câu 30)], và “Tuyệt ngôn tuyệt lự, vô xứ bất thông” [Nếu dứt hết nói năng bặt hết lo nghĩ, thì chỗ nào chẳng thông? (câu 16)], bởi vì “Phóng chi tự nhiên, thể vô khứ trụ” [Tâm chấp đã buông thì tự nhiên vắng lặng, bởi bản thể vốn không có đi ở (câu 34)]. Muốn được vậy thì phải “Tu du phản chiếu, thắng khước tiền không” [Nếu soi chiếu ngược lại, thì hơn hẳng cảnh Không trước mặt (câu 18)] bởi vì “Quy căn đắc chỉ, tùy chiếu thất tông” [Trở về cội gốc thì được Ý Chỉ, đuổi theo chiếu soi lại mất bản Tông (câu 17)]. Do vậy mà nói “Nhất tâm bất sanh, vạn pháp vô cữu. Vô cữu vô pháp, bất sanh bất tâm” [Nếu một tâm chẳng sanh, thì muôn pháp không có lỗi (câu 24); Không có lỗi thì không có pháp, pháp chẳng sanh thì tâm ấy tự tịch (câu 25)]. Tâm ấy tự tịch tức là Bồ Đề, là Đạo, là Niết Bàn đó vậy. Nên Ngộ Tánh Luận nói: “Tịch diệt là Bồ Đề vì diệt hết các tướng” và Kinh Đại Bát Niết Bàn cũng nói: “Chư hành vô thường, thị sinh diệt pháp, sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc.”
Nay đã có bản đồ Tín Tâm Minh trong tay, đã biết chỗ mà thu hướng tới, đã biết đường mà quay về nhà, thì từ nay nương theo đó mà đi thẳng cho đến tận đầu nguồn, chẳng còn quanh co nhiều lối rẽ chi cho lao nhọc oan uổng nữa. Vậy hãy cùng nhớ lời Tổ dạy rằng: “Chí Đạo vô nan, duy hiềm giản trạch!”
Thánh Tri Kính Viết
Cuối Thu, 2016
San Antonio, TX, Hoa Kỳ
Bài Văn Tín Tâm
Đời Tùy, Tam Tổ Tăng Xán Sáng Tác
Thánh Tri Phỏng Việt Dịch Lời Nghĩa
(Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010)
Dịch Lời Nghĩa
Bài Văn Tín Tâm Hết
------------------------------------------------
大正新脩大藏經 第48冊 No. 2010
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010
信心銘
Tín Tâm Minh
隋, 僧璨作
Tùy, Tăng Xán Tác
Hán và Hán-Việt
Chí Đạo vô nan, duy hiềm giản trạch
Đản mạc tăng ái, động nhiên minh bạch
Hào ly hữu sai, thiên địa huyền cách
Dục đắc hiện tiền mạc tồn thuận nghịch
Vi thuận tương tranh thị vi tâm bệnh
Bất thức huyền chỉ đồ lao niệm tĩnh
Viên đồng thái hư vô khiếm vô dư
Lương do thủ xả, sở dĩ bất như
Mạc trục huyễn duyên, vật trụ không nhẫn
Nhất chủng bình hoài, dẫn nhiên tự tận
Chỉ động quy chỉ, chỉ cánh di động
Duy trệ lương biên, ninh tri nhất chủng
Nhất chủng bất thông, lưỡng xứ thất công
Khiển hữu một hữu, tùng không bối không
Đa ngôn đa lự, chuyển bất tương ưng
Tuyệt ngôn tuyệt lự, vô xứ bất thông
Quy căn đắc chỉ, tùy chiếu thất tông
Tu du phản chiếu, thắng khước tiền không
Tiền không chuyển biến, giai do vọng kiến
Bất dụng cầu chơn, duy tu tức kiến
Nhị kiến bất tụ, thận mạc truy tầm
Tài hữu thị phi, phân nhiên thất tâm
Nhị do nhất hữu, nhất diệc mạc thủ
Nhất tâm bất sanh, vạn pháp vô cữu
Vô cữu vô pháp, bất sanh bất tâm
Năng tùy cảnh diệt, cảnh trục năng trầm
Cảnh do năng cảnh, năng do cảnh năng
Dục tri lưỡng đoạn, nguyên thị nhất không
Nhất không đồng lưỡng, tề hàm vạn tượng
Bất kiến tinh thô, ninh hữu thiên đảng
Đại đạo thể khoan, vô dị vô nan
Tiểu kiến hồ nghi chuyển cấp chuyển trì
Chấp chi thất độ, tất nhập tà lộ
Phóng chi tự nhiên, thể vô khứ trụ
Nhậm tánh hợp Đạo, tiêu dao tuyệt não
Hệ niệm quai chơn, hôn trầm bất hảo
Bất hảo lao thần, hà dụng sơ thân
Dục thủ nhất thừa, vật ố lục trần
Lục trần bất ác, hoàn đồng chánh giác
Trí giả vô vi, ngu nhân tự phược
Pháp vô dị pháp, vọng tự ái trước
Tương tâm dụng tâm, khởi phi đại thác
Mê sanh tịch loạn, ngộ vô hảo ác
Nhất thiết nhị biên, lương do châm trước
Mộng huyễn hư hoa, hà lao bả tróc
Đắc thất thị phi, nhất thời phóng khước
Nhãn nhược bất miên, chư mộng tự trừ
Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như
Nhất như thể huyền, ngột nhĩ vong duyên
Vạn pháp tề quán, quy phục tự nhiên
Mẫn kỳ sở dĩ, bất khả phương tỷ
Chỉ động vô động, động chỉ vô chỉ
Lưỡng ký bất thành, nhất hà hữu nhĩ
Cứu cánh cùng cực, bất tồn quỹ tắc
Khế tâm bình đẳng, sở tác câu tức
Hồ nghi tận tịnh, chánh tín điều trực
Nhất thiết bất lưu, vô khả ký ức
Hư minh tự chiếu, bất lao tâm lực
Phi tư lượng xứ, thức tình nan trắc
Chơn như pháp giới, vô tha vô tự
Yếu cấp tương ưng, duy ngôn bất nhị
Bất nhị giai đồng, vô bất bao dung
Thập phương trí giả, giai nhập thử tông
Tông phi xúc diên, nhất niệm vạn niên (vạn niên nhất niệm)
Vô tại bất tại, thập phương mục tiền
Cực tiểu đồng loại, vong tuyệt cảnh giới
Cực đại đồng tiểu, bất kiến biên biểu
Hữu tức thị vô, vô tức thị hữu
Nhược bất như thị, Tâm bất tu thủ
Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất
Đản năng như thị, hà lự bất tất
Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn, phi khứ lai kim
信心銘之終
Tín Tâm Minh Chi Chung
-------------------------
Chú Thích
Tài Liệu Tham Khảo