Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Con Đường Tu Tập Của Người Phật Tử Tại Gia Qua Kinh Trung Bộ

24 Tháng Chín 202120:02(Xem: 2919)
Con Đường Tu Tập Của Người Phật Tử Tại Gia Qua Kinh Trung Bộ
Con  Đường Tu Tập Của Người 
Phật Tử Tại Gia Qua  Kinh Trung Bộ
 


Trần Như Mai

ngam suy

* Đây là bài phát biểu của tôi nhân dịp kết thúc khóa học Kinh Trung Bộ dành cho cư sĩ tại Thiền Viện Vạn Hạnh - Saigon, năm 1988, do HT Thích Minh Châu giảng dạy.   

________________

Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”... Tại sao cuộc sống đầy rẫy những khổ đau, bất hạnh, bất như ý ? Tại sao cùng sinh ra làm kiếp người mà lại có muôn vàn  khác biệt nhau ? Tại sao niềm vui thường chóng tàn, còn khổ đau, phiền não thì cứ triền miên như bất tận?  Làm thế nào để hết khổ được vui ?

Tất cả những câu hỏi đó, triết học thế gian cũng như nhiều tôn giáo đã từng đưa ra nhiều lời giải đáp khác nhau, nhưng tôi vẫn chưa cảm thấy hài lòng. Với lòng khao khát chân lý và mong muốn tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của chính bản thân và cuộc sống, tôi đã tìm đến Thiền Viện Vạn Hạnh - Saigon và xin theo học lớp Kinh Trung Bộ dành cho cư sĩ, do Hòa Thượng Thích Minh Châu giảng dạy.

Trước đây, tôi vẫn thường nghe nhiều người phê bình đạo Phật là đạo bi quan, yếm thế, tiêu cực; là đạo của những kẻ chán đời, thất bại trong cuộc sống và muốn trốn chạy thực tại; hay là đạo của những người già muốn tìm nơi nương tựa trong những ngày cuối cùng của cuộc đời. Thế nhưng, sau hơn hai năm theo học lớp Kinh Trung Bộ, tôi thấy những lời giảng dạy của Đức Phật rất thiết thực, đã giúp tôi giải toả biết bao ưu tư phiền não, đã đem lại cho tôi một nguồn an lạc thanh cao, một sức mạnh tinh thần vững chắc để làm hành trang trên vạn nẻo đường đời, và đã thay đổi cách nhìn của tôi về con người và cuộc sống.

Từ mỗi bài kinh tôi đều có thể rút ra ít nhất là một bài học thực tiển để suy nghĩáp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù đó là bài kinh Đức Phật thuyết giảng cho các tỷ kheo, cư sĩ hay những người ngoại đạo. Những bài học thực tiển rút ra từ Kinh Trung Bộ  rất nhiều và phong phú, nhưng trong phạm vi giới hạn của bài viết này, tôi chỉ xin đề cập sơ lược một vấn đề thiết thân, cốt lõi nhất của chúng ta, đó là vấn đề “ Tại sao con người đau khổ ?” và “ Làm thế nào để hết khổ ?”.

Giáo pháp của Đức Phật vô cùng thâm sâu vi diệu, dù ta bỏ cả cuộc đời để nghiên cứu học hỏi chắc cũng chưa đủ. Thế nhưng nhìn xuyên suốt quá trình 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã khẳng định: “ Này các tỷ kheo, xưa cũng như nay, ta chỉ nói một điều, đó là sự khổ và diệt khổ”.

Vậy thế nào là khổ ?

Theo cách hiểu thông thường của chúng ta thì khổ có hai loại : vật chấttinh thần. Về vật chất thì già yếu, bệnh tật, đói rách, thiếu thốn mọi nhu cầu của cuộc sống hằng ngày là khổ. Về tinh thần thì tất cả những điều gì trái ý nghịch lòng đều làm ta khổ: phải xa cách người mình thương là khổ, phải gần gũi người mình ghét là khổ, cầu mong mơ ước không thành là khổ...vv . Nhưng với trí tuệ của một bậc Toàn Giác, Đức Phật đã có một cái nhìn thật rốt ráo về khổ, Ngài khẳng định : “Tất cả những gì vô thường đều là khổ”.

Quả thật, từ khi sinh ra cho đến lúc lớn lên, học hành rồi đi làm việc, ta thấy cuộc sống như một giòng sông phẳng lặng, êm đềm trôi chảy mãi không thôi. Ta không hề chú ý đến những biến hoại đang âm thầm diễn ra từng giây phút trong vạn vật cũng như trong chính bản thân mình. Ngay trong thân thể của chúng ta, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân… mỗi ngày qua là mỗi biến đổi, hao mòn suy yếu; thế mà ta cứ tưởng rằng mình vẫn giữ được mãi nét thanh xuân, nên ta không ngừng mọi nỗ lực để tô bồi cho thân ta ngày càng trẻ trung tươi đẹp ! Ta bị cuốn hút vào việc mưu cầu lợi ích cho bản thân, nào là tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, tình yêu..vv., và cho rằng đó là mục đích của cuộc sống, là lý tưởng, là nguồn hạnh phúc duy nhất của đời người. Ta say sưa trong men dục của thế gian và tưởng rằng những gì ta đạt được sẽ mãi mãi là của ta. Cho đến một ngày kia, ta gặp  một biến cố bất thường, một sự thất bại, một sự mất mát lớn lao đập mạnh vào tim khiến ta đớn đau, bàng hoàng, rời rã: như mất tài sản, điạ vị, danh vọng mà ta đã dày công xây đắp, mất tình yêu, mất sắc đẹp, mất người thân yêu nhất của ta...vv. Ta giật mình nhìn lại chuổi ngày qua, nhìn lại mình và tự hỏi “ Đây  có phải là hạnh phúc đích thực chăng ?”.  Nếu là hạnh phúc đích thực, nó phải trường tồn, vĩnh viễn, không bao giờ mất. Tại sao ta bây giờ không còn là ta của những ngày đã qua ? Tại sao niềm vui giờ đã tan biến và chỉ còn lại nỗi chán chường, mệt mỏi, thất vọng, muộn phiền ? Ta giật mình hoảng hốt, muốn níu kéo lại những gì đã qua nhưng nào có được! Ta cảm thấy bất lực và đau khổ muôn vàn...Ở đây, lời dạy của Đức Phật đã soi sáng cho ta chân lý muôn đời:“ Tất cả các pháp đều vô thường, và tất cả những gì vô thường đều là khổ”.

Vậy nguồn gốc của khổ đau do đâu mà có ?

Ta biết rằng khổ đau có mặt cùng với sự hiện hữu của con người, khổ đau do con người cảm nhận từ khi bắt đầu tiếp xúc với cuộc đời. Nếu khôngcon người thì không thể đặt ra vấn đề đau khổ. Triết học thế gian đã từng nêu vấn đề: “Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và sẽ đi về đâu ?”. Nhưng những lời giải đáp mang tính chất siêu hình của triết học thế gian không làm thỏa mãn những người đang khao khát đi tìm chân lý. Đôi lúc con người lại muốn ngụy biện về sự hiện hữu của mình theo kiểu ‘ triết lý hiện sinh’ :“Tôi đâu có muốn sinh ra đời, chính vì do ý muốndục vọng của cha mẹ tôi mà tôi phải có mặt trong đời này. Vậy cha mẹ tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những khổ đau của tôi !”.

Ở đây, Đức Phật đã đưa ra một lời giải đáp rốt ráo về nguyên nhân sự hiện hữu của con người trong cuộc đời qua Lý Duyên Khởi. Trong Đại Kinh Đoạn Tận Ái, Đức Phật dạy rằng, ta có mặt trong đời không phải là một sự ngẫu nhiên, mà chính do ái dục, do lòng khao khát muốn được tiếp tục thọ hưởng các dục lạcthế gian mà thức của ta đã gá vào bào thai của người mẹ vào đúng thời điểm hội đủ các điều kiện thuận lợi của bốn món ăn: đoạn thực, xúc thực, tư niệm thựcthức thực, để rồi từ đó một con người được sinh ra trong cõi đời này. Chính bốn món ăn này do ái dục làm nhân duyên, và ái dục này phát xuất từ vô minh, để cho ra đời toàn bộ khổ uẩn của con người : sinh , già, bệnh, chết.

Tại sao Đức Phật dạy rằng vô minh kết hợp với ái dục để phát sinh toàn bộ nỗi thống khổ của con người ?

Ta hiểu rằng do ái dục, con người được sinh ra. Lúc còn nhỏ, ta chưa có khuynh hướng tâm lý rõ ràng; nhưng lúc lớn lên và bắt đầu hiểu biết, khi sáu căn của ta tiếp xúc với sáu trần, tham ái bắt đầu khởi. Ta bắt đầu phát sinh những tình cảm như yêu thích, giận hờn, ghét bỏ, ham muốn..., và từ từ ta bị lôi cuốn vào các dục : sắc, thanh, hương, vị, xúc...Sự cám dỗ của các dục ngày càng gia tăng theo tốc độ phát triển của nền văn minh vật chất. Được cái này, ta lại muốn cái kia; được cái kia ta lại muốn cái nọ, cứ muốn sao cho bằng hoặc hơn bạn bè, bà con, thiên hạ. Ta không những muốn ăn ngon mặc đẹp, muốn có người yêu lý tưởng, mà còn muốn giàu sang, danh vọng, địa vị xã hội, quyền lực... để cho mọi người nể nang, thán phục. Ta thấy tự ngã của mình ngày càng lớn, chẳng muốn thua kém ai, càng ngày ta càng chìm đắm trong biển dục mênh mông không biết đâu là bờ bến...

Chính vì vô minh nên ta không hiểu được sự nguy hiểm của các dục, như Đức Phật đã dạy: “Này các tỷ kheo, các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, ở đây sự nguy hiểm lại càng nhiều hơn”. Chính vì vô minh, ta chấp thân làm ngã. Ta chấp sắc, thọ, tưởng, hành , thức này là ta, là của ta, là tự ngã của ta. Do đó, ta tìm mọi cách, mọi phương tiện để làm thỏa mãn tấm thân ngũ uẩn này. Đức Phật dạy rằng, Ác Ma vốn không phải ai xa lạ, nó chính là năm dục. Khi ta tham đắm dục lạc, chính là lúc ta đã rơi vào bàn tay của Ác Ma, bị Ác Ma điều khiển, ta làm theo mệnh lệnh của Ác Ma, để rồi dấn thân tạo nghiệp, thọ khổ..., và kết quả là tiếp tục quanh quẩn trong sáu nẻo luân hồi. Như vậy, vô minh kết hợp với ái dục: vô minh sinh ái dục, và ái dục nuôi dưỡng vô minh. Cứ như thế, toàn bộ khổ uẩn của con người bắt đầu từ đó, như Lý  Duyên Khởi đã nêu rõ.

Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo, và khởi đầu là Chánh Tri Kiến. Muốn có được Chánh Tri Kiến, ta phải biết tu tập để phát triển trí tuệ.  Đây quả thực không phải là một vấn đề đơn giản cho những phàm phu như chúng ta. Ta có thể hiểu được khổ và nguồn gốc của khổ, nhưng ta không thể nào diệt được khổ nếu ta không có trí tuệ.

Vậy thế nào là người có trí tuệ ?

Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật đã nhiều lần đề cập đến người có trí : ‘ Người có trí là người có nghe lời dạy của Đức Phật, có tu tập hành trì đúng như lời Phật dạy, biết rõ sự sanh diệt của các pháp. Người ấy biết rõ: đây là lậu hoặc, đây là lậu hoặc tập khởi, đây là lậu hoặc đoạn diệt, đây là con đường đi đến lậu hoặc đoạn diệt. Từ đó, người ấy tinh tấn tu tập hành trì để dần dần đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến đoạn diệt các mầm mống của sanh y, tiến tới an lạc, giải thoát, Niết Bàn.’

Đức Phật đã dạy: “Này, các tỷ kheo, phàm như có sự sợ hãi, nguy hiểm, tai họa nào khởi lên, chúng chỉ khởi từ người ngu, không khởi từ người trí”. Vì sao ? Vì người trí đã có tri kiến như thật về sự sanh diệt của các pháp, người ấy đã biết rõ thế nào là khổ, đâu là nguyên nhân, và con đường diệt khổ. Từ đó, người ấy biết rõ việc gì nên làm và việc gì không nên làm. Người ấy biết rõ các pháp bất thiện sẽ đem lại sự sợ hãi, nguy hiểm, tai họa... nên người ấy cương quyết không làm. Người ấy biết rõ các thiện pháp sẽ đem lại hạnh phúc an lạc, nên người ấy cố gắng tinh tấn thực hiện. Do đó sự sợ hãi, nguy hiểm, tai họa, khổ đau sẽ không đến gần người có trí.

Đối với chúng ta đang còn là những phàm phu, bản chất chúng ta vốn yếu đuối về cả trí tuệ lẫn thể xác. Vì vậy, khi một việc bất hạnh, phiền não xảy ra, chúng ta như người bị trúng hai mũi tên độc: thân ta đau đớn và tâm ta cũng đau đớn. Muốn nhổ mũi tên độc trong thân, chỉ cần có thầy hay thuốc tốt là có thể lành bệnh, nhưng muốn nhổ mũi tên độc trong tâm thật vô cùng khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải có một sức mạnh tinh thần phi thường, sức mạnh ấy phát xuất từ trí tuệ.

Do đó, muốn có trí tuệ, ta phải biết thân cận với người có trí, để nghe pháp, tùy pháphành pháp. Nhờ nghe pháp nhiều, tâm trí ta ngày càng được soi sáng, ta hiểu được Lý Duyên Khởi, sinh lòng tin vào Phật, Pháp, Tăng. Ta cố gắng giữ gìn giới luật, hộ trì các căn, sống thiểu dục tri túc, chế ngự không cho tham ái khởi lên, giữ vững chánh niệm tỉnh giác trong đời sống hằng ngày. Ta hiểu được nguyên nhân vì sao ta có mặt trong đời, vì sao ta gặp bất hạnh hay được sung sướng, vì sao cùng là con người mà lại có muôn vàn sai khác cách biệt nhau. Tất cả đều do hành động của ta, do nghiệp mà ta đã tạo trong quá khứhiện tại. Sự đau khổ trong hiện tại là do nghiệp của ta đã tạo trong quá khứ. Vậy muốn chấm dứt đau khổ, ta phải tích cực thực hiện những hành động thiện để chuyển nghiệp.

Thế nào là hành động thiện ?

Đức Phật đã định nghĩa rất rõ: “Hành động nào đem đến lợi mình, lợi người, lợi cả hai là hành động thiện. Hành động nào đem đến hại mình, hại người, hại cả hai là hành động bất thiện”. Bởi thế, trước khi làm việc gì, ta phải suy nghĩ, cân nhắc, đắn đo, xem hành động sắp làm là thiện hay bất thiện; ngay cả những hành động nào chỉ lợi cho mình mà không lợi cho người ta cũng nên tránh. Trong tâm ta, ta phải luôn luôn giữ vững chánh niệm, tỉnh giác để kiểm soát dòng tư duy của mình. Khi có một ý niệm bất thiện chợt thoáng qua, ta cố gắng quên ngay, đừng bao giờ cho phép nó khởi lên; và nếu nó đã khởi lên rồi thì ta cố gắng tìm cách đoạn trừ. Khi một ý niệm thiện chưa khởi, ta hãy tìm cách tạo điều kiện cho nó sinh khởi, và khi một ý niệm thiện đã khởi lên, ta cố gắng nuôi dưỡng cho nó càng ngày càng tăng trưởng tốt đẹp hơn. Ta cố gắng tu tập trong từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động nhỏ hằng ngày. Cố gắng giữ gìn thế nào để tâm chỉ nghĩ đến điều thiện, miệng chỉ nói những lời thiện, thân chỉ làm những việc thiện. Đó chính là quá trình rèn luyện để có được Chánh Tri Kiến, từ đó đưa đến Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng…

Đây quả thực là một con đường tu tập rất khó khăn đối với những phàm phu như chúng ta. Bởi vì ý nghiệp đã ăn sâu vào tiềm thức, đã chi phối, hình thành nếp suy nghĩ, thói quen và hành động thường ngày của ta, chúng là những tập khí sâu dày mà ta đã tích tụ từ vô lượng kiếp. Hơn nữa, bản chất của ta vốn do ái dục sinh, và ta đang trầm mình trong dục giới với đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến; do đó, ta rất dễ bị dục vọng lôi cuốn và trở nên yếu đuối, quên mất lời Phật dạy, chìu theo dục vọng và buông thả với chính mình. Chỉ cần mất tỉnh giác, buông lơi, phóng dật, dễ dãi với chính mình là ta đã rơi ngay vào vòng tay của Ác Ma dục vọng và chịu sự điều khiển của nó.

Vì vậy, muốn tu tập có kết quả, ta phải nghiêm khắc với chính mình và tinh tấn hành trì với niềm tin bất thối chuyển vào những lời Phật dạy, đây chính là thực hành Chánh Tinh Tấn. Giữ gìn năm giới là một hình thức kỷ luật tự giác của bản thân, ta phải xem giữ giới là điều tâm niệm hằng ngày. Tiếp đến, ta phải hành thiền đều đặn để thanh tịnh tam nghiệp, giữ vững chánh niệm, và phát triển tuệ giác. Hành thiền chính là một quá trình thanh lọc tâm hữu hiệu nhất, như Đức Phật đã dạy: “Thiền là thay thế năm triền cái bằng năm thiền chi”.  

Trong quá trình thanh lọc tâm, bước đầu ta từ bỏ các pháp bất thiện về thân, khẩu, ý, và cố gắng thành tựu các thiện pháp về thân, khẩu, ý. Tiếp đến ta từng bước thực tập pháp Quán Niệm Hơi Thở Vào - Hơi Thở Ra, tập trung sự chú tâm vào đối tượng là hơi thở để thiết lập chánh niệm vững chắc, dần dần loại bỏ năm triền cái là Tham, Sân, Hôn Trầm Thụy Miên, Trạo Hối, Nghi và thay thế bằng năm thiền chi là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm.

Đây là một quá trình tu tập lâu dài và khó khăn đối với chúng ta, vì ta biết rằng năm triền cáikẻ thù bên trong chúng ta. Tiêu diệt kẻ thù bên trong bản thân mình quả thật vô cùng khó khăn gian khổ, đòi hỏi ta phải có nghị lực lớn, quyết tâm cao để có thể tinh tấn hành trì mà không nản lòng, thối chí. Chỉ có hành thiền mới giúp ta tăng cường nội lực, phát triển định lực, đưa đến tuệ giác để thấy rõ sự vật đúng như thật. Nhờ vậy ta mới tạo được sức mạnh tinh thần để đối trị các dục, và vượt qua được những cơn khủng hoảng khiến ta trở nên yếu đuối trước sức cám dỗ của Ác Ma. Hành thiền  là con đường đưa đến Chánh NiệmChánh Định.

Khi tâm ta đã được định tĩnh, đã tìm được nguồn an lạc do thiền đem lại, ta cảm thấy nhẹ nhàng thư thái, dần dần buông xả được những trói buộc của dục vọng vốn đã làm ta đau khổ bấy lâu nay. Ta đã hiểu được Vô Thường là qui luật chung của vạn pháp, không có gì là thường hằng, vĩnh cữu; và tất cả những gì vô thường đều là Khổ. Ta cũng hiểu được rằng chính vì vô thường nên tất cả các pháp đều Vô Ngã, không có tính chất cố định, không có gì là ta, là của ta, hay là tự ngã của ta. Ta chỉ là một tập hợp của năm uẩn, của tứ đại, và sẽ có ngày tan rã thành cát bụi. Như vậy, tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, tình yêu..., nói chung là các dục của thế gian, và ngay tấm thân này, tất cả đều như bọt nước, như mây trôi, như giấc mộng, cuối cùng tất cả đều trở về với cái thực tướng của nó là Không. Vậy có gì đáng cho ta tham đắm ? Còn gì đáng cho ta chấp thủ, phiền não, khổ đau ? Chúng đến hay đi, còn hay mất, ta hãy bình thản nhận biết và cố giữ cho tâm không dao động. Ta hãy chuẩn bị tinh thần để đón nhận vô thường như một người khách có hẹn trước. Nhờ vậy, khi vị khách Vô Thường đến, ta không ngạc nhiên, không hoảng hốt, không sợ hãi, chỉ bình thản nhận biết, ‘À, vị khách Vô Thường đã đến ! ’.

Khi ta đã giữ được tâm thanh tịnh, an nhiên tự tại, bình thản trước mọi biến cố thăng trầm trong cuộc sống, ấy là lúc ta đã thấy được đạo, ta đã có được trí tuệ để thấy sự vật đúng như thật.  Đây là lúc ta hưởng được cảnh Niết Bàn nơi trần thế, ngay trong hiện tại này. Hạnh phúc chính là đây, đây mới là hạnh phúc đích thực.  

Khi ta đã thấy được chân lý, đã tìm được an lạc cho chính mình, lòng ta bỗng trở nên bao dung, rộng lượng. Ta cảm thấy thương yêu mọi người, nhìn mọi người bằng con mắt từ bi, nhìn cuộc đời với cõi lòng rộng mở. Ta bỗng cảm thấy xót xa khi chung quanh ta có biết bao người đang đau khổ. Vì thế ta quyết tâm dấn thân vào đời với tinh thần vô tham, vô sân, vô si, vô chấp thủ. Với lòng thương yêu tất cả chúng sanh, ta nguyện đem hết khả năng mình để phục vụ chúng sanh, giúp cho nhiều người bớt khổ được vui. Đó là lý tưởng mà bất cứ người Phật tử chân chính nào cũng mơ uớc thực hiện.

Tóm lại, con đường tu tập của người Phật tử tại gia qua Kinh Trung Bộ chính là Tứ Diệu Đế ( Bốn Chân Lý Cao Thượng ) và Bát Chánh Đạo ( Tám Chi Phần của Con Đường Tu Tập Chơn Chánh ):

* Bốn Chân Lý Cao Thượng là : Khổ - Nguồn gốc của Khổ - Khổ có thể được  diệt trừ, và Con đường diệt Khổ (tức  là Bát Chánh Đạo ).

* Bát Chánh Đạo gồm có :

-         Chánh Tri Kiến, nghĩa là hiểu biết đúng đắn, chơn chánh. Đây là bước khởi đầu vô cùng quan trọng trên con đường tu tập của chúng ta, vì có hiểu biết đúng đắn, chơn chánh ta mới có thể hành động đúng được, như Đức Phật đã dạy :‘ Ý dẫn đầu các pháp’.

-        Nhờ hiểu biết đúng, ta mới suy nghĩ đúng (Chánh Tư Duy), nói năng đúng (Chánh Ngữ), hành động đúng ( Chánh Nghiệp), chọn nghề sinh sống chơn chánh ( Chánh Mạng), siêng năng, tinh cần tu tập ( Chánh Tinh Tấn), dẫn đến tâm luôn luôn tỉnh thức ( Chánh Niệm) tiến tới tâm  định tĩnh ( Chánh Định) và nhờ vậy trí tuệ tỏa sáng, thấy rõ vạn pháp đúng như thật .

Như vậy, trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật đã giảng dạy cho  người Phật tử  con đường tu tập ngay trong lòng cuộc đời, để vừa có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc đích thực cho bản thân, vừa góp phần xây dựng một xã hội ngày càng  tốt đẹp hơn, trong đó mọi người biết sống chung hài hòa, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, biết đem lòng từ, bi, hỷ, xả làm phương châm hành động.

Điều này chứng minh rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo tiêu cực, Đức Phật nêu lên vấn đề đau khổ vì đó là một sự thật không thể phủ nhận, ta phải mạnh dạn nhìn thẳng vào nó để tìm cách diệt trừ. Biết khổ và hiểu được nguyên nhân gây ra đau khổ, để rồi tìm phương pháp diệt khổ hầu đem lại an vui hạnh phúc cho mình và cho xã hội, đó chính là mục tiêu cao thượng và tích cực của giáo lý đạo Phật.

Ta có thể kết luận rằng người Phật tử chân chính là người hạnh phúc nhất, vì người ấy biết sống thiểu dục, tri túc, không tham ái, không chấp thủ, an nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh, và tìm được an lạc ngay giữa lòng cuộc sống xô bồ, đầy biến động của thế gian này.

                                                                                   

                                                                                                Trần Như Mai (1988)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 288)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 570)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 562)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1317)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 930)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant