Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngũ Uẩn Giai Không

08 Tháng Tư 202207:53(Xem: 2352)
Ngũ Uẩn Giai Không


Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không. Trong bốn từ này có ba từ dễ hiểu, không cần giải thíchmọi người đều có thể mường tượng ý nghĩa của nhóm chữ, chỉ có từ Uẩn là khá khó hiểu.


Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp. Ngũ uẩn bao gồm : Sắc (vật chất, matter, material); Thọ (cảm giác, perception); Tưởng (tưởng tượng, imagination) ; Hành (chuyển động, motion); Thức (nhận thứcphân biệt, conciousness, alaya, discrimination).

Chữ uẩn mang hàm ý tích hợp, là tập hợp của nhiều phần tử để tạo ra một hiện tượng ảo hóa. Bởi vì hiện tượng ảo hóa đó kéo dài và con người không có cách nào để phát hiện tính cách giả tạo của hiện tượng nên lầm tưởng là thật, và từ lầm tưởng đó mà sướng khổ một cách vô căn cứ. Tất cả mọi sướng khổ đều là vô căn cứ bởi vì nó dựa trên tưởng tượng. Tưởng tượng này kinh điển Phật giáo gọi là thế lưu bố tưởng tức là tưởng tượng đã phổ biến qua nhiều đời ở thế gian. Nguyên lý của vấn đề này nằm ở chỗ kinh điển gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính, tất cả mọi tính chất của pháp là do tưởng tượng gán ghép của con người. Dễ thấy nhất là ngôn ngữtừ ngữ của của bất cứ ngôn ngữ nào đều không có ý nghĩa, mọi ý nghĩa đều là do con người gán ghép cho từ ngữTương tự như vậy, tất cả mọi vật trong vũ trụ đều không có thực chất, mọi tính chất đều do chúng sinh gán ghép cho vật. Đó cũng chính là ý nghĩa của ngũ uẩn giai không. Khoa học thế kỷ 20 đã xác minh vấn đề này qua cuộc tranh luận thế kỷ giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới, là Niels Bohr và Albert Einstein mà tôi sẽ đề cập ở phần sau.

Uẩn đầu tiên cũng quan trọng nhất là Sắc (vật chất).

Nó quan trọng tới nỗi có rất nhiều người, từ triết học gia cho tới khoa học gia, xây dựng cả một chủ nghĩa duy vật (materialism), họ cho rằng nền tảng duy nhất của vũ trụ vạn vật là vật chấtVật chất tiến hóa từ vô cơ (inorganic) cho tới hữu cơ (organic). Từ hữu cơ cho tới sinh vật đơn bào, sinh vật cấp thấp, sinh vật cấp cao, rồi con người có bộ não, từ bộ não mới phát sinh ý thức.

Tuy nhiên sinh vật tiến hóa luận của Darwin đã bị phản bác rất nhiều trong thế kỷ 20, sang thế kỷ 21 hầu như nó đã bị bác bỏ hoàn toàn bởi vì có nhiều bằng chứng khảo cổ cho thấy không có tiến hóa. Hóa thạch con dế cách nay 125 triệu năm cũng giống hệt con dế hiện nay. Theo thuyết tiến hóa thì các giống loài phải ngày càng nhiều vì nó phân nhánh, nhưng thực tế khảo cổ cho thấy các giống loài đồng loạt xuất hiện rất nhiều trong kỷ Cambri, rồi sau đó ít dần, một số bị tuyệt chủng, số còn lại cũng không hề có tiến hóa gì. Các mắt xích hóa thạch để chứng minh sự tiến hóa từ con vật tới con người không có đầy đủ, nếu có cũng không chứng minh được một cách rõ ràng và liên tục.

Ngay cả vật lý học cũng lâm vào khủng hoảng trầm trọng, bởi vì khi người ta đi tìm hạt vật chất đầu tiên thì không thể khẳng định được. Mô hình chuẩn của vật lý hạt (Standard model of particle physics) nêu ra 17 hạt cơ bản, nhưng chúng đều là hạt ảo, không thể độc lập tồn tại, chúng là trừu tượng khi bị tách riêng, cô lập. Tất cả chúng đều có thể quy về lượng tử nhưng lượng tử là một hạt trừu tượng tuy có công dụng nhưng không có thực thể. Điều đó chứng tỏ công dụng là ảo hóa, là tưởng tượng chứ không phải thật.

Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922) nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).

Có những thí nghiệm khoa học chứng minh rằng vật chất không độc lập tồn tại, nó là một sự tưởng tượng của tâm thức, chỉ hiện hữu trong tâm thứcbản thân vật chất chỉ là sóng vô hình không phải vật chất, nó là tiềm thể, là một cấu trúc ảo, từ những hạt ảo mà thành. Điều này thì trong kinh điển Phật giáo có nói rất rõ. Kinh Hoa Nghiêm nói : nhất thiết duy tâm tạo一切唯心造
Đây là thí nghiệm nổi tiếng về hai khe hở :

Double Slit Experiment – Thí Ngiệm Hai Khe Hở – Phụ đề Việt ngữ

Dưới đây là cuộc tranh luận thế kỷ giữa hai nhà khoa học hàng đầu thế giới là Niels Bohr và Albert Einstein. Bohr nói rằng các đặc trưng của hạt photon như vị trí, khối lượng, điện tích, số spin không có sẵn, không xác định cho tới khi có người quan sát đo đạc nó. Còn Einstein thì cho rằng hạt photon lúc nào cũng có sẵn đặc trưng, những đặc trưng đó lúc nào cũng xác định dù có ai quan sát đo đạc hay không. Kết quả năm 1982 tại Paris, Alain Aspect đã làm thí nghiệm chuẩn xác, nó chứng minh rằng Bohr đúng, Einstein sai. Điều đó chứng tỏ hạt photon là do tâm thức tạo ra. Chi tiết xin xem trong video sau :

Tranh Luận Giữa Bohr Và Einstein Về Cơ Học Lượng Tử

Sắc tức thị Không thì những Uẩn còn lại cũng đều là không

Thân thể tứ đại bằng vật chất của chúng ta đã là không, thì cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể cũng như cảm giác tổng hợp của ý thức cũng chỉ là tưởng tượng. Đều đó có nghĩa Thọ cũng là Tưởng (tưởng tượng). Hành (chuyển động) chỉ là điều kiện để phát sinh ảo hóanếu không có chuyển động thì cuốn phim chỉ là những tấm ảnh bất động. Chính sự chuyển động tạo ra thế giới sống độngCuối cùng Thức là sự nhận biết, sự phân biệt để tạo ra sự tưởng tượng phong phú đa dạng. Chức năng chính của Thức là phân biệtphân biệt từ những sai biệt nhỏ nhặt nhất như thứ tự, đến những sai biệt về số lượng, về vị trí trong không gian và thời gianVũ trụ vạn vật là do Thức tạo ra, bởi vì nếu không phân biệt thì vũ trụ chỉ là tánh không trống rỗng không có gì cả. Thế giới hiện hữu là do tưởng tượng, tưởng tượng muốn cho phong phú và thuyết phục phải dựa trên lượng tử, lượng tử là trừu tượng, chỉ là sóng tiềm năng không phải vật chất, nhưng qua sự hoạt động đồng bộ của 8 thức thì lượng tử biến thành thế giới muôn màu muôn vẻ trong đó có thế gianthiên đường và địa ngục. Tất cả chỉ là tưởng tượng nhưng chúng sinh bị kẹt cứng trong tưởng tượng đó, cảm thấy sướng hay khổ là do thói quen tưởng tượng của chúng.

Có những kẻ đánh bom liều chết tự nguyện, chúng cảm thấy như vậy là sướng thích, là hết mình phục vụ cho niềm tin của mình về một chủ nghĩa Hồi giáo thống trị thế giới. Có những tu sĩ Tây Tạng tự thiêu, tuy đau đớn thể xác nhưng sướng thích về tinh thần, họ cảm thấy như vậy là hết mình phục vụ tổ quốc dân tộc chứ không nghĩ đó là sự bạo hành đối với bản thân, sự vi phạm giới luật cấm sát sinh dù là tự sát. Có những quan tham vơ vét của công rồi bị kết án tử hình, nhưng thâm tâm vẫn bằng lòng chấp nhận vì đã tẩu tán được một số của cải cho thân nhân của mình.

Có những ca sĩdiễn viênnổi tiếnggiàu có, tự hào vì thành công và khối tài sản to lớn của mình, cho rằng như vậy là sướng, là tài năng của mình, chứ không nghĩ rằng đó chỉ là phước báo, hết phước thì tài sản tiêu tan chẳng mấy hồi. Có những người lao động nghèo khổ, kiếm không ra tiền, sống đói rách, đã vậy còn bị bệnh tật nan y và tai nạn, bèn cho rằng cuộc đời mình là quá khổ, cũng không hiểu rằng đó là nghiệp chướng của mình.

Những cảnh đời sướng khổ, chuyện yêu đương, con cái, kiếm tiền, của hàng tỉ người trên trái đất còn được dựng lên thành hàng vạn phim ảnh, chiếu suốt ngày đêm trên các đài truyền hình tại khắp các quốc gia. Tức là thế gian vốn đã là tưởng tượng, người ta lại tưởng tượng thêm thành tưởng tượng cấp hai của phim ảnh phẳng, bây giờ người ta lại dựng thêm phim 3D thành ảnh nổi 3 chiều có phụ thêm một số cảm giác như gió, nước, rung lắc, đó là tưởng tượng cấp ba.

Tóm lạithế gian điên đảo mộng tưởngmọi người sống với sự sướng khổ tưởng tượng của mình mà không biết. Nhiều kẻ cảm thấy quá khổ, quá tuyệt vọng, bèn tự tử. Còn có những kẻ khác cảm thấy đời sống vật chất của mình quá đầy đủ đến mức thừa mứa, đâm ra nhàm chán, không biết làm sao cho có hứng thú, bèn chạy theo những cuộc đua tranh về quyền lực, làm sao cho thành công trong kinh doanh, giàu có nhất thế giới, có quyền lực bậc nhất, chi phối cả chính quyền. Khi đạt được rồi cũng chán, bèn đem tiền lập quỹ từ thiện.

Đức Phật đã giác ngộgiác ngộ là tánh biết vô sinh pháp nhẫn, còn có tên gọi là chánh biến tri, biết hết mọi điều ẩn kín của thế giới khắp không gian thời gian, biết rõ nguồn gốc mọi sướng khổ của chúng sinh đều chỉ là tưởng tượng vô căn cứ, không có chút gì là thực chất, nên nói rằng ngũ uẩn giai không, đó là một lối thoát cho tất cả mọi bế tắc của con người, nó có khả năng giải quyết được tất cả mọi khổ ách.

Hôm nay là ngày đầu năm mới dương lịch 2016, và nhân năm mới âm lịch Bính Thân sắp tới, tôi xin mượn một bài ca để nhắc lại lời Đức Phật nói trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng là nội dung ý nghĩa của bài này.

Bài Ca Tánh Không – Huệ Phổ Pháp Sư – Việt dịch

Xin chúc tất cả mọi người rửa sạch tất cả mọi phiền nãotự do tự tại.

Truyền Bình

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 287)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 561)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 744)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1316)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1347)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1214)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant