Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại Từ Đại Bi

06 Tháng Tư 202319:18(Xem: 1214)
Đại Từ Đại Bi
Đại Từ Đại Bi

Đại sư
Tinh Vân
Thích Nữ Hạnh Đoan


Vô Ưu

Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để học sinh có chỗ phụng hiến sở học, gieo rắcquảng bá hạt giống Bồ-đề.

Thường có người hỏi tôi: “Vì sao phải xây nhiều Tự viện, Đạo tràng… lớn như thế? Trên thế giới có biết bao khổ nạn, nên lấy tiền xây chùa mà đem đi cứu nạn, cứu tế người bần khổ, như vậy có phải tốt hơn không?”

Câu hỏi này mới nghe qua hình như có lý, nhưng suy nghĩ cặn kẽ thấu đáo sẽ thấy là không đúng! Bởi vì, dẫu ta có bố thí tiền bạc châu báu nhiều đến mấy, có xây dựng nhiều cơ ngơi từ thiện đến đâu, nhưng nếu chẳng giúp người tiêu diệt hẳn tham, sân, si, chẳng giúp họ bạt trừ tận gốc rễ nguyên nhân tạo ra nghiệp chướng, thì chỉ là cứu được sinh mạng xác thịt mà thôi!

Do cứu người là cần thiết, cấp bách, nên việc bố thì Phật pháp, hướng dẫn chân lý, giúp người tịnh hóa tâm linh, cứu được pháp thân huệ mệnh, khiến học nhân đoạn trừ phiền não, liễu sinh thoát tử rất cần tiến hành. Bởi ảnh hưởng thù thắng này kéo dài đến kiếp kiếp đời đời. Thế nên kiến tạo nhiều Phật tự, độ hóa ngàn vạn chúng sinh, mới là từ bi và có hiệu quả triệt để nhất.

Xây chùa độ chúng sinh, vốn là sứ mệnh thiêng liêng cần làm. Đáng tiếc là một số nhân sĩ giáo giới tuy có biết nhưng không am tường, không rành rẽ, nên chỉ quan tâm kiến tạo tự viện, mà chẳng để ý đến bồi dưỡng đào tạo Tăng tài. Để rồi một khi quay đầu nhìn lại, không những học Tăng vô phương phát huy công năng độ chúng, còn bị lạc vào đám người xấu, trở thành biến chất, tha hóa, có khi chỉ nhắm vào mục đích thu gom của cải tiền tài. Thật đáng buồn biết bao!

Bởi vậy, từ bi nếu vận dụng không đúng, cũng có thể thành tội ác. Quan sát các hiện tượng trong xã hội, ta thấy từ bi vận dụng không đúng, là dung túng con người thái quá tạo thành vấn đề không hay cho xã hội, để cho người làm ác – khiến xã hội mất trật tự…

Còn bố thí, nếu lạm thí tiền tài, thì chỉ giúp nuôi dưỡng khiến tham lam bành trướng lớn mạnh thêm trong tâm người. Lạm hành phóng sinh, những tưởng là tốt, vô tình làm tổn hại sinh mạng[2].

Những điều này tất cả đều do không có thấy biết đúng đắn.

Thế nên từ bi chân chánh cầntrí huệ dẫn đầu. Nếu không, hành từ bivô trí, sẽ biến khéo thành vụng, chữa lợn lành thành lợn què, biến tốt thành xấu, làm mất đi thiện tâm mỹ ý.

Từ bi chân chính cũng không nhất thiết là phải tươi cười hớn hở, toàn thốt lời hay khen ngợi, mà lắm lúc phải dùng sức kim cương dũng mãnh để giáng ma, hàng ác. Thực ra phải rất đại từ đại bi mới có thể thực hiện những điều khó lành mà nên hành này.

Điều kiện phát triển sự nghiệp quan trọng nhất là vì người, mà thành lập "sự nghiệp cực kỳ hao tổn tâm lực tự nguyện" cũng là vì người.

Mấy mươi năm nay, công nhân viên phục vụ tại Phật Quang Sơn xấu tốt không đồng, tôi luốn dặn dò vị chủ quản nên dùng từ binhiếp thọ tất cả.

Kết quả những công nhân cống cao ngã mạn, nhờ xông ướp tu tập Phật pháp, dần dần cũng trưởng thành. Còn những người cùng bổn sơn đạo phong bất tương ưng, tôi cũng không gây khó dễ cho họ, mà luôn ngầm mở cho một con đường thoát. Bởi vì tôi muốn tạo kết cục viên mãn, hai bên đều hoan hỉ.

Kinh nghiệm xử thế bao năm nay khiến tôi cảm nhận sâu sắc rằng: Chỉ có từ bi, mới khéo biến can qua thành ngọc bạch, biến vũ khí thành tơ lụa[3].Muốn làm tiêu hết oán ghét đối nghịch trong vô hình, thì chỉ có từ bi mới đủ sức giúp quảng kết thiện duyên, thành tựu sự nghiệp.

“Thiên hạ vạn sự bất năng như ý”. Việc trong thiên hạ thường không như ý mình, nên chuyện hành từ bi lắm lúc phải chịu nhiều thiệt thòi, thua kém.

Có nhiều người nhờ tôi thay họ thanh toán nợ nần rồi, thì phủi luôn trách nhiệm. Ngoài ra, còn có kẻ lợi dụng lòng từ của người để dọa dẫm bắt chẹt, yêu sách tiền tài. Chẳng hạn như công trình Tây Lai Tự nhiều phen thường bị đe dọa đòi hỏi tiền bạc.

Những việc này cả đời tôi thường gặp, chẳng biết phát sinh biết bao lần. Thế nhưng xưa nay tôi chưa từng khởi tâm chán nản. Bởi, tôi thà vì từ bibản thân chịu thiệt, cũng không bao giờ muốn mặc kệ hay bỏ thí bất cứ chúng sinh nào.

Trích sách Nghĩa Tình Trân Quý


[1]Chi nhánh

[2] Vì người bán săn vật, bắt tới bắt lui.

[3]Dùng phương pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp. Can qua là hai vũ khí cổ, chỉ chiến tranh. Tơ lụa là các thứ vật quý mà hai nước dùng để dâng tặng nhau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 288)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 562)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1317)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1702)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant