Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Mùa an cư – Nguồn gốc nghi thức cúng Quá đườnggiá trị tu tập tâm linh

Monday, June 26, 202312:06(View: 1919)
Mùa an cư – Nguồn gốc nghi thức cúng Quá đường và giá trị tu tập tâm linh
Mùa an cư – Nguồn gốc nghi thức cúng Quá đườnggiá trị tu tập tâm linh

cung-dai-bang

I. DẪN NHẬP

Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương; từ rằm tháng 6 đến rằm tháng 9 theo truyền thống Phật giáo Nam phương. An cư có bốn mục đích chính:

1. Mùa mưa, cần an cư cấm túc để tránh dẫm đạp côn trùng, khỏi bị cư sĩ than phiền.
2. Việc an cư mùa mưa đã có trước thời Phật, đức Phật chỉ hợp pháp hóa, Ngài thấy thời gian này là thích hợp để chư Tăng ở yên một chỗ tu tập tiến bộ tâm linh. 3. Biểu hiện tinh thần hòa hợp của cộng đồng Tăng lữ trong cùng một trú xứ. Nhiệm vụ các tỳ-kheo sống chung là phải giáo giới lẫn nhau, chỉ điểm và sách tấn nhau, chứ không thể sống như những người câm. 4. Tạo điều kiện cho Phật tử thân cận gần gũi chư Tăng để học hỏi giáo pháp, gọi là thân cận thiện sĩ.

Và trong các bộ luật của chính thống giáo như luật Tứ phần của Pháp tạng bộ, Ngũ phần của Hóa địa bộ v.v… không thấy nói gì đến chư Tăng an cưnghi thức cúng “Quá đường”. Luật Tứ phần ghi chép trong mùa an cư: Kết cương giới an cư, phân chia phòng xá, phân chia tọa cụ, ngọa cụ, quy định tiền an cư, hậu an cư, chỉ dạy cách sinh hoạt trong một trú xứ. Hoặc phép tắc xuất ngoại trong thời gian an cư: nếu có thí chủ mời, hay vì duyên sự quan trọng được phép đi từ 7 ngày đến 40 ngày, nếu quá bị coi là phá hạ. Và đặc biệt an cư bất cứ nơi đâu nơi ấy phải có thí chủ cung cấp phẩm vật, thực phẩm trong ba tháng.

Ngày nay chư Tăng Phật giáo Nam phương linh hoạt, tại Thái Lan các tỳ-kheo vẫn đi khất thực, hạn chế ra ngoài; khóa lễ tu tập nghiêm ngặt hơn. Riêng hệ Phật giáo An nam Tông (Annamnikāya, tức Phật giáo Bắc tông tại Thái), an cư theo lịch Việt Nam nhưng sinh hoạt không khác gì ngày thường, không “Quá đường” cúng ngọ; 3 tháng an cư ở trong cương giới, ít đi ra ngoài, không đi quá bảy ngày…

II. KHÁI QUÁT NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG

Chúng ta trở lại Phật giáo Bắc tôngViệt Nam, an cư ra sao? Căn bản thì an cư sinh hoạt theo luật định nhưng khác biệt là thêm nghi cúng Quá đường trang nghiêm khi thọ trai. Từ “Quá đường 過堂”, xuất xứ trong hai tác phẩm: “Thin lâm tượng khí tiên 禪林象器箋”, là bộ từ điển Phật giáo giải thích về những qui củ, chức vị, lễ tiết, khí cụ… trong thiền môn, do thiền sư Trung Đạo hiệu Vô Trước (1653-1744) dòng Lâm tế Nhật Bản biên soạn, ấn hành năm 1741. Tác phẩm thứ hai là “Thiền lâm bị dụng thanh quy 禪林備用清規”, thiền sư Nhất Hàm biên tập năm 1311 thời nhà Nguyên, nội dung gồm: lễ pháp, tụng kinh, tọa thiền, Bách trượng quy cảnh văn, nhật dụng thanh quy…
Từ “Quá đường” được hiểu thông tục là đi qua trai đường dùng cơm. Cả hai tác phẩm này không có chi tiết nghi cúng Quá đường như Phật giáo Bắc tôngViệt Nam đang hành trì. Vậy nghi thức ấy từ đâu ra? Chúng ta xem sơ lược lại nội dung “Nghi thức cúng Quá đường”. Đầu tiên bài kệ “chánh thân đoan tọa” và câu thần chú, chúng ta tìm thấy trong nhiều tác phẩm Tỳ-ni nhật dụng lục (X60, no. 1114, p. 148b1-3), Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu (X60, no. 1115, p. 160a10-12) v.v… Bài kệ thứ hai, “triển bát” trong Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu (p. 159c6), Sắc tu Bách trượng thanh quy (chỉ có bài kệ không có câu thần chú)… Những bài kệ tiếp theo: Quán không bát (quán bát không), Quán thịnh mãn bát (quán bát đầy)…, hầu như trích dẫn từ Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu. Đặc biệt khi bưng bát cúng dường (dẫn từ nguồn “chuatutam.net”):

“Tay trái co ngón giữa và ngón áp, còn ba ngón dựng thẳng để bát lên; tay mặt kiết ấn cam lồ, (ngón cái bên tay phải đè lên ngón áp) để dựa ngang phía trong miệng bát, rồi đồng xướng bài cúng dường:

Cúng dường Thanh tịnh Pháp thân Tì-lô-giá-na Phật,
Viên Mãn Báo Thân Lô-xá-na Phật,
Thiên Bá Ức Hóa Thân Thích-ca Mâu-ni Phật,

Ma-ha bát-nhã ba-la-mật.
Tam đức lục vị,
cúng Phật cập Tăng,
pháp giới hữu tình,
phổ đồng cúng dường,
nhược phạn thực thời,
đương nguyện chúng sanh,
Thiền duyệt vi thực,
pháp hỷ sung mãn.

Dâng cơm lên trán và bắt ấn cúng dường, cũng được gọi là “cử án tề mi”, tức là đưa lên ngang chân mày để biểu tỏ lòng tôn kính ba ngôi Tam Bảo…”

Bài cúng dường trên, từ đoạn “Thanh tịnh Pháp thân… đến Ma-ha bát-nhã ba-la-mật”, trong Thiền lâm tượng khí tiên quyển 17 (B19, no. 103, p. 524b1) giải thích đây là danh hiệu Phật lễ lạy công đức khó nghĩ bàn. Từ đoạn “Tam đức lục vị” đến “phổ đồng cúng dường”, nằm ở mục khác trong Thiền lâm tượng khí tiên (p. 527a17), là bài kệ đọc chú nguyện lúc dùng cháo. Đoạn “Nhược phạn thực thời… pháp hỷ sung mãn”, trong kinh Hoa nghiêm (T10, no. 279, p. 71c17), Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu hương nhũ ký quyển 2 (X60, no. 1116, p. 189a18)… Như vậy toàn văn bài cúng dường là sự tổng hợp và nghi thức kết ấn dâng bát, trong sử liệu Hán truyền hiện còn chúng ta không thấy nói. Nhiều nhà Phật học Việt Nam cho rằng nghi thức cúng “Quá đường” bắt nguồn từ Trung Quốc, nhưng không ai để ý nội dung tại sao có sự sai khác như vậy?

III. NGHI THỨC THỜI BÁCH TRƯỢNG

Ngược dòng lịch sử, thời kỳ đầu Phật giáo du nhập Trung Quốc, Tăng nhân vẫn đi khất thực nhưng đến thời Đông Tấn An đế năm 405, bắt đầu các nhà sư làm ruộng, bỏ khất thực, với nhiều lý do: Thứ nhất, việc khất thực không hợp với một xã hội rộng lớn và xem trọng lao động. Thứ hai Tăng đoàn phát triển, nhiều tu viện ở nơi xa xôi hẻo lánh khó dựa vào việc khất thực, đồng thời từ thời Nam Bắc triều, hoàng tộcquý tộc đã bố thí cho Tăng chúng ruộng đất, không trực tiếp cúng dường thức ăn, cho nên Tăng chúng tổ chức phương thức sản xuất tự cung tự cấp. Lý do đó, đến đời Đường, thiền sư Mã Tổ kiến tạo tùng lâm, thiền sư Bách Trượng chế tác thanh quy, chính thức mở ra một hình thức sinh hoạt mới trong Tăng đoàn Trung Quốc. Thời Bách Trượng (720-814), nghi thọ trai như sau:

“Khi nghe bản đánh không được vào Trai đường liền, mà nên sai hành giả đi lấy bát… vào trai đường ngồi xuống ghế phải xá chào người bên cạnh, chớ để y ca-sa vướng vào mép ghế… Nghe tiếng kiền-trùy tưởng niệm: “Phật sinh Ca-tì-la… nhập diệt Câu-hi-la”. Chuyển bát đọc: “Ứng lượng khí (bát) của Phật con nay mở ra… tam luân không tịch.” Khi nhận thức ăn, tưởng niệm:

Khi nhận thức ăn,
Nguyện cho chúng sanh,
Ăn bằng thiền duyệt,
Tràn đầy an vui.

Trước khi ăn quán năm điều (ngũ quán): 1. Xem cơm mình nhiều ít xứng của người đem lại. 2. Xét đức hạnh mình đủ thiếu nhận cúng dường. 3. Ngăn lỗi lầm của tâm tham khi ăn. 4. Thức ăn này là thuốc hay để chữa thân gầy. 5. Vì thành đạo nghiệp nên nhận thức ăn nầy…”

Chúng tôi toát yếu ý chính như thế. Hiện nay, nghi thức cúng “Quá đường” của Phật giáo Bắc tông cả Việt NamTrung Quốc hay Đài Loan gần như nhau, chỉ khác là ở Việt Nam có nét đặc thù là lúc đọc bài cúng dường kết ấn bưng bát cơm dâng lên. Vậy ai là tác giả cải biên hiệu chỉnh nó?

IV. THIỀN SƯ NGUYÊN BIỂU

Theo sử gia Lê Mạnh Thát chứng minh, chính thiền sư Nguyên Biểu biên soạn nghi thức cúng “Quá đường”. Khi thiền sư Nguyên Biểu soạn Thọ giới nghi quỹ, ngay quyển 1 sau phần Yết-ma, ông đã chọn Tịnh độ sám nguyện nghi của Tổ sư Từ Vân (964-1032) để đưa vào sám hối. Đặc biệt giữa những tờ 21b1-22b8, có chép thêm phần Cúng dường pháp. Đây là nghi thức cúng dường mà về sau trở thành nghi thức Quá đường của chúng Tăng ở cả ba miền Trung Nam Bắc trong mùa an cư với một vài cải biên cũng như Nghi thức cúng ngọ tại các chùa trong cả nước.

Thiền sư Nguyên Biểu (1836-1906) sinh ra dưới triều vua Minh Mạng, thọ sa-di năm 1852, thọ giới cụ túc năm 1855. Ông là người có công chấn hưng Luật học và tổ chức giới đàn tại miền Bắc trong giai đoạn này (Phía Nam, từ Quảng Bình trở vào, do Luật sư Pháp Chuyên Diệu Nghiêm [1726-1798] chấn hưng). Thiền sư viết Thọ giới nghi quỹ và Chư kinh nhật tụng tập yếu để sử dụng. Khi viết Thọ giới nghi quỹ, thiền sư đã dựa vào hai bộ Yết-ma chính, là San bổ tùy cơ Yết-ma huyền ti sao của Đạo Tuyên và Đức Thành và Yết-ma chỉ nam của Hàm Tế – Chiêu Minh. Còn Chư kinh nhật tụng tập yếu, ông dựa vào bản Chư kinh nhật tụng lưu hành phổ biếnTrung Quốc.

Tóm lại, sau khi Bách Trượng thanh quy ra đời, các tác phẩm Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu (Độc Thể [1601-1679, cuối đời Minh đầu đời Thanh] soạn), Tỳ-ni nhật dụng lục (Tánh Kỳ soạn thời Minh) v.v tất cả đều y cứ vào thanh quy ấy mà phát triển thêm; kể cả Thiền lâm tượng khí tiên và Thiền lâm bị dụng thanh quy cũng sưu tập từ Bách Trượng thanh quy. Cho nên nghi thức cúng “Quá đường” của thiền sư Nguyên Biểu có chút giống Phật giáo Trung Quốc, chỉ cải biên thêm nghi thức kết ấn dâng cơm cúng Phật.

V. KẾT LUẬN

Nghi thức cúng “Quá đường” là một nét đẹp trong thiền môn của Phật giáo Bắc tông; tuy nhiên truyền thống này ảnh hưởng từ “Bách Trượng thanh quy”. Thiền sư Bách Trượng đã xây dựng một hệ thống riêng biệt cho giới luật thiền tông, hệ Phật giáo Bắc tông thừa hưởng cái “cốt tủy” của nó suốt một thời gian khá dái, song dần dà Tăng chúng tôn vinh vẻ “hình thức” hơn là việc tu tập theo giới luật Thanh văn của Phật chế. Do vậy mà ngày nay, nhiều ngôi chùa Bắc truyền trọng thị nghi thức cúng “Quá đường”, bắt buộc chư Tăng trong ba tháng an cư phải luôn có mặt, sau giờ cúng “Quá đường” muốn đi đâu tùy ý. Việc an cư cấm túc, tu tập thiền tư bị xem nhẹ và tổ chức giảng dạy cho Phật tử gọi là “thân cận thiện sĩ” cũng trắng hoàn toàn, chỉ giữ truyền thống hằng đêm có Phật tử vân tập về chùa tụng niệm nhưng lời kinh Phật nói gì thì như cảnh trong sương, khi mờ khi tỏ.

Trong lịch sử, ở Trung Quốc giới luật Thanh văn từng bị coi thường, mãi đến thế kỷ thứ XVI, Vân Thê và Đức Thanh mới chỉnh đốn lại giới luật Thanh văn. Giống như tại Việt Nam, trước thời Pháp Chuyên và Nguyên Biểu, giới luật Phật giáo chỉ lấy Bồ-đề tâm giới hay Bồ-tát tâm tức giới thập thiện làm chính.

Nguyện đem công đức này hồi hướng đến sự thanh tịnh cho Tăng-già, cho tứ chúng đồng tu trong mùa an cư Phật lịch 2567 thành tựu viên mãn.

Tâm Nhãn



Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 68)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 107)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 172)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 177)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 226)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngục là thiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngục là địa ngục.
(View: 276)
Lý Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo pháp mà Đức Phật thuyết giảng.
(View: 236)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 256)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 339)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 444)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 307)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 399)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 524)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 500)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 590)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 493)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 774)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 588)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 596)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 548)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 694)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 625)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 989)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 645)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 667)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 756)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 903)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 796)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 695)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 734)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 734)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 839)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1003)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1022)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 757)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 838)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 919)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1110)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 899)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 998)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1197)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1056)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1072)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1213)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 1378)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 1567)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 1526)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 1394)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(View: 1272)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(View: 1268)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(View: 1270)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(View: 1418)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(View: 1368)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(View: 1598)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(View: 1255)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(View: 1171)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(View: 1293)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(View: 1492)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant