Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3: Dứt Sạch Mọi Khổ Đau

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 10393)
Chương 3: Dứt Sạch Mọi Khổ Đau

HÃY ĐẾN ĐỂ THẤY
Phật Giáo, Con Đường Đưa Đến Hạnh Phúc 
Tác Giả: Ni Sư Ayya Khema 
 Việt Dịch: Chơn Minh Nguyễn Văn Phú, Tịnh Nghiêm Nghiêm Xuân Cường &
Diệu Liên Lý Thu Linh

Chương 3
Dứt Sạch Mọi Khổ Đau

Hãy kết giao với bạn lành
Những người sống trong sạch, không lười nhác.
Dầu ở đâu, giao tiếp khéo thân thiện.
Luôn cẩn trọng trong mọi hành động.
Do vậy hưởng vui nhiều
Dứt sạch mọi khổ đau.
Dhammapada stanza 376 - 
Kinh Pháp Cú câu 376 (1)

 Trong đoạn kệ trên ta có thể tìm thấy chìa khóa để tận diệt mọi đau khổ.

Hãy kết giao với bạn lành, 
Những người sống trong sạch, không lười nhác

 Lời chỉ giáo đầu tiên, về những người bạn tâm linh, là một chủ đề thường xuất hiện trong giáo lý của Phật, vì chúng ta rất dễ dàng bị ảnh hưởng từ những người bạn của mình. Một ‘thiện hữu tri thức’ (noble friend) là người không thụ động, biếng lười, và trong đời sống hằng ngày không tham đắm, vượt quá giới hạn, dầu là chút ít. Nói cách khác, họ là những người sống cuộc đời tích cựcđạo hạnh. Trừ khi ta có thể nhận xét được ở những người bạn của mình những đức tính cao đẹp như thế qua một thời gian dài, ta không thể gọi họ là thiện hữu tri thức hay bạn tâm linh với đúng nghĩa của nó. Đức Phật dạy rằng ta chỉ có thể hiểu thấu đáo một người nào đó sau khi đã sống với họ một thời gian dài; một chú giải còn xác quyết thời gian đó là mười hai năm.

 Yếu tố quan trọng giúp ta thấy được đời sống tâm linh hay hoạt động nội tâm của một người không phải ở những điều họ nói, mà ở cách hành xử của họ trong đời sống hằng ngày. Nói là một việc, làm lại là việc khác –và hai việc này thường có thể khá xung đột nhau trong một con người. Giao tiếp với thiện hữu tri thức mang đến cho ta những cái nhìn mới về con đường tâm linh vì một người bạn như thế chính họ cũng dấn thân trên con đường đạo, và sẽ có nhiều tri giác để chia sẻ vì ưu tiên của họ luôn là phát triển tâm linh hơn là cuộc sống vật chất

 Sự hiểu biết sáng suốt này sẽ tự bộc lộ dưới những hình thức đơn giản để đánh thức trong ta những cái nhìn mới và hiểu biết sâu xa. Kinh sách ghi lại là Phật đã nói những lời dạy của Ngài phải được diễn tả dưới những hình thức càng đơn giản càng tốt, để chúng có thể đến với càng nhiều người càng tốt. Không người nào phải quay lưng đi với ý nghĩ rằng họ không đủ khả năng để hiểu pháp; và cũng không người nào nên nghĩ là họ chỉ việc tin vào pháp là đủ. Cả hai thái độ này đều không mang lại ích lợi gì.

 Theo Đức Phật, ta có thể tâm sự với một người bạn tốt (thiện hữu tri thức) mà không cần do dự, e ngại vì biết là họ sẽ giữ bí mật cho ta. Tất nhiên ta chỉ có thể tin như thế nếu ta biết ta cũng sẽ hành xử như thế với bạn: lòng tin phải có ở cả hai bên. Một người bạn tốt sẽ không để người khác nói xấu bạn mình, và luôn hoan hỷ khi nghe những điều tốt lành về bạn mình.

 Sự giao tiếp mang đến cho tâm những chất liệu căn bản. Chính vì thế mà ta cần phải gần gũi với những người thường nói về các vấn đề tâm linh. Tất nhiên, ta cũng có thể nói về những công việc hàng ngày, và một người bạn tốt cũng có thể cho ta những lời khuyên về các vấn đề đời thường, nhưng không nên mất nhiều thì giờ cho việc đó. Tâm có những nhu cầu riêng của nó. Nó cần được bồi dưỡng, hoàn chỉnh, khích lệ và đó là những điều mà một thiện hữu tri thức có thể đóng góp tốt hơn, giúp ta thấy hoan hỷcủng cố niềm tin của ta. 

 Đức Phật còn dạy thêm là một thiện hữu tri thức có thể làm xoay chuyển đời sống tâm linh của ta về hướng tốt. Sự quan trọng của một người bạn như thế được nhấn mạnh ngay từ câu đầu của đoạn kinh được dẫn, như là điều kiện tiên quyết để tận diệt các khổ đau. Nếu có được một người bạn có thể giúp ta đi trên con đường đạo, khuyến khích các thiện hạnh nơi ta, là tấm gương để ta phấn đấu, thì quả thật chúng ta quá diễm phúc và ta cần phải làm mọi cách để gần gũi, bồi dưỡng tình thân với họ. 

 Người khác có nhiều ảnh hưởng đến ta hơn ta tưởng. Khi giao tiếp với người không biết tu, ta rất dễ rớt xuống cùng trình độ với họ, trừ khi ta đã huấn luyện tâm mình để kéo họ theo về hướng ta. Điều này đòi hỏi ta trong giai đoạn đầu phải rèn luyện tâm chánh niệm cao độ, và chính vì vậy Đức Phật đã nhấn mạnh đến việc ta phải gần gũi với những người có khả năng giúp chúng ta trên con đường tâm linh. Ta phải có khả năng tri thức riêng của mình, ở đây (đoạn kinh) ghi bằng chữ ‘cẩn trọng’. Hành động của ta phải luôn được dẫn dắt bởi sự tiên liệu và phán đoán chín chắn, bởi tiếng nói của lương tâm rõ ràng, rành mạch và nhắc nhở ta, thí dụ như, là ta phải có khả năng nhận ra ai là bạn tốt, ai là không. Tuy nhiên, vì sự biếng lười hoặc thiển cận, tiếng nói của nội tâm có thể bị bỏ qua, bởi trong ta còn có một tiếng nói thứ hai –đó là tiếng nói của ái dục- dễ dàng lôi cuốn và khiến ta nghe theo hơn. 

 Chúng ta có thể cố gắng bào chữa cho các hành động của mình bằng cách cho rằng tất cả mọi người đều làm như thế. Tuy nhiên, ta cần hiểu rằng con đường tâm linh hoàn toàn khác với con đường vật chất, và rằng hành động của số đông không có nghĩa là những hành động, suy nghĩ đúng. Thật ra, nếu quan sát thấu đáo và trung thực một số đông người, ta có thể kết luận rằng cuộc sống đắm chìm trong vật chất không thực sự tốt cho họ, dù ở những điều kiện thuận lợi nhất. 

 Ta sẽ đưa ra bất cứ lời bào chữa nào khi muốn bóp nghẹn tiếng nói của lương tâm đang hướng ta đến con đường đạo hạnh. Ngay cả khi nó (tiếng nói lương tâm) dõng dạc lên tiếng, ta vẫn cố nói, ‘Ừ, tại sao lại không? Làm như thế thì có hại gì? Tôi có quyền làm như thế. Người khác cũng làm vậy. Làm thế là tiện lợi nhất.’ 

 Những sự ngụy biện và tránh né đó cần được liên tục phơi bày ra. Ta phải luôn tự nhắc nhở, bằng cách này hay cách khác, những điều ta thực sự mong muốn là gì. Chẳng hạn, ta có thể quán tưởng rằng kẻ thù và bạn bè - kể cả các thiện hữu tri thức- tất cả như cùng đang có mặt trong ta. Từ đó ta có thể chọn làm người bạn tốt nhất của mình hơn là kẻ thù nguy hiểm nhất. Ta có thể làm điều đó chỉ bằng cách chăm chú lắng nghe từ nội tâm những lời khuyên thực sự mang lại hạnh phúc cho mình; chứ không phải một cách sống đầy vị kỷ, đi từ lạc thú này qua lạc thú khác- là điều, dĩ nhiên, không liên quan gì tới hạnh phúc -mà bằng những niềm vui đến từ nội tâm, đó chính là điều mà mọi người đang thực sự tìm kiếm.

 Ở đây, tuy Đức Phật quan tâm đến thái độ của ta đối với những thiện hữu tri thức, một điều quan trọng khác cũng cần đề cập đến là thái độ của chúng ta đối với bản thân: bằng cách tự quán sát, xét xem mình có phải là người bạn tốt nhất của mình không. Ta có biết đến những cuộc đối thoại đang diễn ra trong tâm mình? Nếu có, ta có nhận ra được đường hướng và sự buông lung của tư tưởng của mình và ta có biết phải làm gì với chúng không?

 Bất kể chuyện gì xảy ra quanh ta, chính tư tưởng của ta quyết định phẩm chất cuộc sống nội tâm của mình. Chính ta là người gây ra những diễn tiến trong tâm mình. Chỉ khi nào ta nhìn nhận sự thật này và sẵn sàng sống với hậu quả của nó, lúc đó ta mới có thể nói là mình đang theo đuổi con đường tâm linh. Chỉ có tôi là người chịu trách nhiệm cho sự hạnh phúcbình an của tôi -cũng như những khổ đau, và bất anNếu không hiểu được điều này, ta sẽ ruổi rong tìm kiếm hạnh phúc ở bên ngoài. Ngược lại, khi gặp phải chuyện không vừa lòng ta kiếm ngay một thứ gì để đổ lỗi và sẽ có rất nhiều thứ để ta chọn lựa. Không khó khăn gì để tìm một người hay một điều gì đó, ngay bên cạnh ta hay xa vời, để đổ lỗi. Ngày nào mà ta còn làm việc này, ngày nào ta còn mong chờ hạnh phúc đến từ những điều kiện bên ngoài hay xem chúng là nguyên nhân của khổ đau, ngày đó ta còn mắc kẹt trong đời sống vật chất, và hành xử chẳng khác gì những kẻ phàm phu.

 Sự chuyển hóa chỉ thực sự xảy ra khi ta nhận thức được rằng chính sự suy nghĩ của ta khiến ta hạnh phúc hay đau khổ, rằng chúng chính là chủ nhân ông trong đời sống nội tâm của ta. Lúc đó chắc chắn là ta phải trở thành người bạn tốt nhất của mình -hay ngay cả là thiện hữu tri thức của chính mình- bất kể hoàn cảnh chung quanh như thế nào. Là người bạn tốt của chính mình, ta sẽ hỗ trợ tất cả những gì tích cực trong ta và thuyết phục mình lánh xa những gì tiêu cực, và ta sẽ theo đuổi những gì giúp mình tiến bộDần dần ta sẽ nhận ra những khuyết điểm của mình, và thay vì tự trách ta sẽ cố gắng tự sửa mình.

 Nếu ta có thể giải quyết những khuyết điểm của mình với tâm từ, ta cũng sẽ có lòng từ tương tự với người khác và nhận ra những khó khăn của họ. Qua lòng từ ta sẽ vun trồng cho mình một tâm hồn cao thượng. Nhờ vậy, ta có thể gác lại những lo lắng đời thường, những tính toán vụn vặt, những cảm giác lo sợ, tiêu cựccố gắng nâng cao tinh thần, trạng thái tâm lý cũng như tình cảm của mình đến trình độ mà ta có thể nhận ra tất cả như là một quá trình toàn diện.

 Nếu ta có thể tránh nhìn mọi việc hoàn toàn qua quan điểm của mình thì thật là điều tốt. Khi giảm thiểu được thói quen suy nghĩ là ‘tôi’ sẽ thích cái này hơn, hay ‘tôi’ muốn thay đổi như thế này, thì lúc đó ta sẽ cảm nhận được rằng mình là một phần của một tổng thể lớn hơn. Chỉ nói về cách nhìn sự vật thôi cũng không đủ; ta cần có những suy nghĩ nghiêm túc -sự suy nghĩ đi đến cội nguồn cảm xúc và hình thành đời sống nội tâm của ta. Cũng bằng cách này, ta gầy dựng tính độc lậptự chủ của mình. Nhờ người khác giúp tuy quan trọng, nhưng ta cũng cần cố gắng tự mình theo dõi và hướng dẫn sự tiến triển của bản thân

 Một điều thật lý thú về giáo lý nhà Phật là nó chỉ gồm những lời chỉ dẫn và tóm lược. Mỗi người phải chọn con đường cho mình và cố gắng tự thực hành. Càng thực hành, ta càng bớt do dự, càng bớt ôm giữ những bất mãn, càng nhận biết sâu xa hơn rằng đây là một giáo lý thực dụng, phù hợp với lý lẽ và nó thực sự giúp ta dần dần xả bỏ hết mọi khổ đau.

 Để đạt được mục tiêu đó, ta phải thay đổi cách suy nghĩ của mình, và có một cách thật đơn giản để mô tả sự thay đổi đó: thay vì muốn các thứ này nọ, ta phải từ bỏ chúng. Ở môi trường buôn bán, khi muốn một vật gì ta phải sẵn sàng trả tiền mua vật đó, nhưng không trả hơn một xu giá bán của nó. Trên bình diện tâm linh thì lại hoàn toàn khác, chẳng có gì để mà được, và tất cả những thứ ta mang theo mình như quan điểm, ý nghĩ, hy vọng, ước muốn, sự do dựsợ hãi, tất cả đều phải được từ bỏ. Sự từ bỏ này bắt đầu bằng cách suy nghĩ khéo léo, hay quán chiếu, là điều mà Đức Phật gọi là sự ‘cân nhắc khôn ngoan’, từ đó thanh tịnh có thể phát khởi trong ta, cho phép ta nhận diện thật rõ ràng gì là bản chất cao thượng nhất trong ta. Ta phải làm được điều này vì ta chỉ có thể bộc lộ những đức tính mà tự ta đã gần gũi quen thuộc. Ta phải tìm được pháp ngay chính nơi ta.

 Chữ ‘hiền’ (noble) có một ý nghĩa đặc biệt trong Phật giáo, nhằm chỉ một người đã thành công trong việc nhập tâm hóa những lời dạy của Phật bằng cách này. Có nhiều giai đoạn trên con đường đi đến mục tiêu này. Ban đầu ta có thể nghe một bài pháp rồi quên mất đi. Sau đó ta có thể nghe, rồi lưu tâm để nhớ. Nếu nhớ được giáo lý ta có thể đem nó ra thực hành. Và sau cùng ta có thể quán sát xem có gì đã đổi thay trong quá trình thực tập đó. Đường đi đã được vạch ra khá rõ ràng -còn việc đi trên con đường đó hoàn toàn tùy thuộc ở ta.

 Việc tự soi lại mình khi ta muốn trở thành bạn hiền của chính mình đòi hỏi chúng ta phải biết điều gì là tốt nhất cho mình –mà không nhất thiết là điều thuận tiện hay dễ chịu nhất. Điều này càng khó khăn khi ta mới bắt đầu con đường tâm linh, vì bỗng nhiên ta phải đối diện với những điều mà ta không hề biết xưa nay vẫn tiềm ẩn trong ta. Ta cần có can đảm để nhận ra bản chất của ta mà không tự dối mình. Bất cứ sự giận dữ, bực tức hay nóng nẩy xảy ra trong quá trình tự kiểm này đều trái ngược với lòng từ và chẳng ích lợi gì cho ta. Việc trải lòng từ đến bản thânnhận diện được những khó khăn của bản thân giúp chúng ta dễ cảm thông với người khác cũng như vậy.

 Đoạn kệ tiếp tục mô tả một thiện hữu lý tưởng sống cuộc đời tích cựcđạo hạnh. Đôi khi ta thấy có quan niệm rằng người sống cuộc đời tâm linh đến độ phần nào đã nhập tâm ít nhiều giáo lý sẽ dành hết thì giờ của mình ngồi trên gối thiền, hoặc nhìn ra cửa sổ, hoặc mỗi ngày chỉ nói đúng mười chữ. Nghe thì kỳ quái, nhưng những quan niệm như thế không phải là không phổ biến, và thường được người ta tin chắc vào đó. Người ta thường có những tranh luận sôi nổi về việc một người sống đời tâm linh phải sống một cách đặc biệt như thế nào, các nghiên cứu về những ẩn sĩ Ky tô giáo thời Trung Cổ cho thấy họ thường là những người hết sức thực tế và hầu hết sắp xếp cuộc sống của họ rất thành công

 Sống đời tích cực có nghĩa là ta làm những việc cần làm thay vì để nó qua một bên. Tâm thụ động cũng khiến cho thân trở nên nặng nề. Lúc đó tâm nẩy sinh ra đủ mọi lời bào chữa, mà Đức Phật đã tóm tắt như sau đây: Kẻ dại khờ nói, "Còn quá sớm, chưa tu được," hoặc "Trễ quá rồi," hoặc "Trời quá nóng," rồi "Trời quá lạnh." Rồi "Tôi no quá," hay "Tôi đói quá," "Tôi còn quá trẻ" hoặc "Tôi già quá rồi." Ngày nay, chúng ta lại có nhiều lý do khác: "Bây giờ thì tôi không thể nào ngồi thiền được -ồn quá. Đợi đến khi tụi trẻ đã lớn, hay khi chồng tôi về hưu ....”

 Tâm biếng lười không những không muốn làm gì, nó cũng không thể tập trung vào bất cứ việc gì. Nó có vẻ rất tích cực, chạy lung tung mọi hướng, nghĩ ngợi miên man, thế nhưng chẳng đem lại ích lợi gì. Khi tâm lang thang và không thể tự chủ, sự suy nghĩ tản mạn làm ngăn trở bất cứ trạng thái thiền nào . Nó có thể dựng lên những câu chuyện đẹp tuyệt vời, những mộng mơ lý tưởng nhưng chúng chẳng có ích lợi thiết thực gì cho sự thực tập. Tâm lăng xăng như thế thì cũng chẳng khác gì tâm biếng lười, trong khi sự nhất tâm giúp ta rất nhiều trong đời sống hằng ngày, và giúp tâm tránh có cảm tưởng là nó phải can dự vào bất cứ những gì nó gặp, giúp nó chú tâm vào những gì mà một người thông minh, khỏe mạnh coi là thực sự quan trọng. Do vậy, ở một giai đoạn nào đó, ta cần làm rõ điều gì thực sự quan trọng trong cuộc đời ta. Đối với chúng ta, cuộc sống thực sự có ý nghĩa gì? Ta nên thường xuyên nghĩ đến điều này và thỉnh thoảng cũng nên viết nó xuống. Có thể ta sẽ khám phá ra là việc tra cứu này có thể cho nhiều kết quả khác nhau trong chỉ vài ngày hay vài tuần, và chính vì thế việc tiếp tục xem xét trở lại những ưu tiên căn bản của chúng ta càng quan trọng hơn. Nếu biếng lười thường khiến cho các công việc hằng ngày làm gián đoạn sự tiến bộ của ta, những sự nhắc nhở như thế về mục tiêu của ta có thể vực dậy trong ta một sinh lực mới để theo đuổi sự tu tập.

 Ta thích tự nhủ là mình quá bận rộn, tuy nhiên ta thường thấy là người lúc nào cũng làm quá sức, thì chẳng thành tựu được bao nhiêu. Những người có đầu óc nhanh nhẹn và nhất tâm có thể cáng đáng thêm một ít việc nếu cần. Tâm nhanh nhẹn cũng giúp cho thân thể luôn khoẻ mạnh để tâm và thân có thể hỗ trợ lẫn nhau.

 Chúng ta phải làm rất nhiều việc chỉ để mưu sinh và nhiều người bận rộn với những công việc thường nhật này từ sáng đến tối. Những sự khổ nhọc ấy có bõ công không khi chúng ta biết là mình sẽ không sống mãi? Tất cả chúng ta đều nhìn nhận rằng có một cái gì đó quý giá hơn là việc mưu sinh hằng ngày, thế nhưng ta đã làm gì từ lúc mở mắt thức dậy mỗi sáng đến khi đi ngủ mỗi tối? Ta có giúp ích được gì cho người khác trong ngày? Có giây phút nào ta đã cố gắng tách tâm ra khỏi những lo toan vật chất không? Giáo lý của Đức Phật gồm những nguyên tắc và chỉ dẫn mà bất cứ ai có quyết tâm đều có thể hiểu và thực hànhĐức Phật không bao giờ lôi kéo hay khuyến dụ người ta theo đạo của Ngài. Trái lại, Ngài dùng lời đơn giản để thuyết pháp, với lòng kiên nhẫn vô biên và khuyến khích mọi người tu tập. Lại nữa, Ngài đã giảng dạy cho những người có cùng những khó khăn, ham muốn và bất mãnh như chúng ta ngày nay. Thế giới có thể đã thay đổi ở bên ngoài - kỹ thuật, kiến trúc và thời trang có thể đem đến cho chúng ta những điều mới mẻ mỗi ngày- nhưng thật ra thì nhiều thứ cũng chẳng mấy thay đổi và giáo lý của Ngài vẫn phù hợp như từ thuở nào. Và mục đích muốn đạt được tuệ giác sâu xa về sự thật tối thượng, để mở ra cho ta một cái nhìn mới về thế giới chung quanh cũng như về bản thân ta, để sau cùng đưa ta đến sự tận diệt các đớn đau và khổ ách, cũng vẫn còn thích hợp.

 Dầu ở đâu, hãy giao tiếp thân thiện

 Trong cuộc sống hằng ngày, điều này xem như là một việc không thể làm nổi, vì có quá nhiều người không được thân thiện cho lắm. Nhưng trên con đường tâm linh, ta không có chọn lựa nào hơn là phải thân thiện, vui vẻ với mọi người. Nếu ta quạu quọ thì ngay trong lúc đó ta đang tạo ác nghiệp và rồi ta sẽ không thể tránh cảm thấy buồn bực - có nghĩa là ta đang bị dằn vặt bởi một lương tâm bất an. Có một quan niệm phổ biến nhưng rất sai lầm là nghiệp chỉ đến từ các đời trước của ta, và tích lũy nghiệp được dồn lại đời sau, song thật sự là ta đang tạo nghiệp trong mỗi giây phút mình đang sống và luôn phải gánh chịu những hậu quả của nó. Quá trình tạo nghiệp ở hiện tại quan trọng hơn là bất cứ nghiệp gì từ quá khứ hay trong tương lai. Quá khứ thì đã qua còn tương lai chẳng có gì hơn là một ý niệm của tâm thức; khi tương lai đến thì nó được gọi là hiện tại. Ta đang tạo nghiệp, ngay trong giây phút này, chẳng trước mà cũng không sau. Quả thật là nghiệp có liên hệ đến quá khứ và tương lai, nhưng điều đó ta thực sự chẳng nên quan tâm đến.

 Hằng ngày, ta có thể lãnh quả của nghiệp ngay tức thì. Khi ta thấy vui sướng, bình an, thoải mái thì hẳn là ta đã cố hết sức cư xử theo lẽ phải, tức là đúng theo với lương tâm của mình. Ngược lại, nếu cảm thấy bực dọc, ta có thể suy ra là các hành vi của mình đã không được tốt, không đúng theo lẽ phải: có thể là ta đã không được hòa nhã, tư tưởng của ta chưa được tốt lành hoặc ta muốn chiếm đoạt hay vất bỏ cái gì đó. Có nhiều cách để bào chữa cũng như giải thích cho những hành động thiếu khôn ngoan của ta, song tất cả cũng chẳng có ích gì, bởi chúng chẳng giúp ta mất đi cảm giác khó chịu trong lòng. 

 Vì lẽ đó ta phải tự nhắc nhở mình không nên khiếm nhã dù người khác đã đối xử với mình như thế. Chính vì biết là họ đang tạo nghiệp xấu trong giây phút đó, ta phải cảm thấy thương họ thay vì có ác cảm với họ. Ta phải nhớ là nếu bất nhã trở lại với họ, chính ta cũng đang tạo ác nghiệp. Hầu hết mọi người cư xử theo lẽ sống đời thường là người xấu với ta thì ta xấu lại, vì họ nghĩ là không còn giải pháp thỏa đáng nào khác. Tuy nhiên, là Phật tử, chúng ta phải đi theo con đườngĐức Phật đã dạy: không ăn miếng trả miếng với người mà qua cách hành xử của mình cho họ thấy là có con đường cao đẹp hơn. Như thế không những lợi lạc cho ta mà còn lợi lạc cho kẻ ấy nữa.

 Luôn cẩn trọng trong mọi hành động

 Ở đây ý nói ta nên cẩn thận xem xét các hành động của mình để tránh phản ứng một cách hấp tấp. Chúng ta thường vội lên án người khác khi ta nhìn thấy cái xấu của họ, và ta cũng phải nghiêm khắcthận trọng như thế với những hành động của chính mình. Tuy nhiên, nếu tuân theo các thói hư tật xấu của mình là dại dột, thì ngược lại ta cũng chẳng khôn ngoan gì nếu ta buồn bã u sầu vì chúng. 

 Tuy vậy, ta không nên ngần ngại để cho bạn bè biết con người thật của mình và họ chỉ có thể thực sự hiểu ta nếu họ biết cách cư xử của ta trong đời sống hằng ngày chứ không phải chỉ trong những dịp đặc biệt. Ngay cả khi ta duy trì sự tỉnh thức, cũng không nên áp dụng vào cách cư xử thường ngày của ta một cách giả tạo, hoặc dựa trên sự đồng hóa với một nhân vật nào. Nó phải đến từ trái tim ta. 

 Ngoài việc phải cẩn trọng trong lúc giao dịch với bạn hữu, ta cũng cần cư xử như thế với tất cả mọi người để tránh gây thù chuốc oán một cách vô íchTuy nhiên, không thể nào tránh việc không tạo ra kẻ thù. Ngay cả Đức Phật cũng có kẻ thù –cũng như Chúa Giê Su của Nazareth. Vì thế không phải lúc nào cũng có thể giao lưu, kết bạn, nhưng không nên vì lý do đó mà không thử, không cố gắng kết giao với những người bạn thực sự, dựa trên những tình cảm trong lòng ta. 

 Điều đáng tiếc là chúng ta thường giao tiếp với người khác dựa trên tri thức. Trong khi nếu mọi người đều thật lòng với nhau, thì sẽ dễ dàng hòa hợp với nhau nhiều hơn, nhưng điều này có vẻ hiếm trong những mối liên hệ hằng ngày. Nhưng ta luôn có thể học những điều mới, và ta càng phát triển những đặc tính của trái tim, như lòng nhân ái, bi mẫn, chúng càng chuyển tải nhiều hơn thông điệp của ta. Tình cảm của ta càng sâu sắc, ta càng dễ diễn tả chúng bằng lời nói, và càng dễ kết bạn hơn.

 Bạn bè không có mặt để ta tự khẳng định mình, mà là để ta có cơ hội được làm một thiện hữu. Do đó, con đường tu tập của chúng ta, là để hỗ trợ người khác, và đây là điều quan trọng luôn được nhắc đến nhiều lần trong các kinh điểnTuy nhiên ta chỉ có thể giúp được người khác sau khi đã tự giúp mình, và nếu những khó khăn của bản thân còn quá nhiều, ta phải khắc phục chúng trước khi ta có thể giúp người. 

 Nếu ta chỉ kết thân với những người bạn sống đạo hạnh, không biếng lười, và nếu ta thân thiện, cẩn trọng, đời ta sẽ tràn đầy hạnh phúc. Câu ‘tràn đầy hạnh phúc,’ nghe có vẻ lạ tai. Nói một cách đơn giản nhất là nó cho ta cảm giác tự tại, phát khởi từ nhận thức rằng ta đã làm hết sức mình, và đó là một khởi điểm quan trọng cho việc hành thiền. Nếu ta tự biết mình đã cố hết sức thì ta sẽ tìm được tâm bình an dễ dàng hơn vì biết là mình sẽ được hưởng quả lành từ những thiện nghiệp mình đã gieo trồng; ta có thể vững tin là các thiện nghiệp đang giúp đỡ, hỗ trợ ta. Đức Phật dạy rằng ta là chủ nghiệp của mình, rằng nếu ta gieo trồng thiện nghiệp thì chúng sẽ trưởng dưỡng ta và chính sự hiểu biết này góp phần mang lại hạnh phúc cho ta.

 Bằng cách đó ta cũng dễ dàng đạt đến tầng thiền thứ nhất, cho ta cảm giác an lạc. Đây là tầng định thứ nhất mà Đức Phật thường nhắc đến trong hầu hết những lời dạy của Ngài về thiền. Không những đem đến cho ta niềm an lạc nó còn là một liều thuốc trị những cảm thọ tiêu cực, lòng sân hậnghen ghét. Trong lúc hưởng thụ cảm giác an lạc chúng ta không thể đồng thời cảm thấy sân hận hay ghen ghét. Thêm nữa, một cảm giác an lạc như thế thườngtác dụng lâu dài.

 Trong đoạn kệ này chúng ta được chỉ dẫn về những điều cần thiết để giữ được định và sự bình tâm ở ngoài thiền định. Ở những kinh khác Đức Phật dạy rằng muốn hành thiền cho đúng, tâm và thân đều phải thoải mái và tâm phải đầy an lạc. Chỉ khi đó việc hành thiền mới khả thi, đưa đến định. Khi chứng nghiệm những điều này lần đầu tiên ta sẽ có câu trả lời cho nhiều nghi vấn của ta. Đây là điểm khởi đầu của con đường đưa đến sự đoạn diệt các đau khổ.

 Đức Phật dạy rằng tất cả mọi hiện hữu đều mang đặc tính đau khổ vì họ chẳng bao giờ có thể thỏa mãn hay hoàn toàn như ý, nhưng Ngài cũng chỉ cho ta cách để bỏ mọi khổ đau lại phía sau. Đôi khi Phật giáo bị cho là bi quan bởi Đức Phật đã dùng từ ‘đau khổ’. Thật ra, xét cho cùng thì giáo lý của Ngài hết sức thực tếĐức Phật nhận diện các vấn nạn của chúng ta, sự liên hệ mật thiết của chúng với vô thường. Ngài còn chỉ cho ta cách vượt thắng các vấn nạn với sự trợ giúp của tuệ giác sâu xa, tuệ giác đạt được khi ta từ bỏ các quan điểm cá nhân. Ta phải bắt đầu bằng nhận thức rằng các quan điểm của ta chưa bao giờ đem đến cho ta an vui, mà chỉ tạo ảo tưởng rằng ta là một ai đó.

 Do vậy hưởng vui nhiều
 Dứt sạch mọi khổ đau

 Ở đây, Đức Phật xác tín thêm lần nữa rằng ta đang bước trên con đường dẫn đến sự tận diệt các đau khổ bằng bước chân đầu tiên của mình. Đạo khởi đầu từ cuộc sống hằng ngày; nó ảnh hưởng đến bạn bè ta, đến cách cư xử, tình cảm hay năng lực, sự trong sạch của tâm cũng như thiền tập của ta. Nếu ta bước theo đó, hãy tự nhắc nhở mình luôn tránh để tâm biếng lười, phải là bạn tốt của bản thân, và nếu chúng ta tiếp tục bước tới để chứng nghiệm hạnh phúc, niềm vui trong sơ thiền, thì chúng ta đang đi trên đạo lộ. 

 Dứt sạch mọi đau khổ không có nghĩa là tất cả khổ đau trên đời này đã chấm dứt nhưng là niềm tin của ta vào một cái ngã đã chấm dứt. Lúc ấy, không còn ai ở đó để cảm nhận khổ đau. Thật vậy, khổ đau của ta bắt đầu giảm thiểu khi ta đang trên đường đến chứng nghiệm, khi niềm tin vào cái ngã đã lung lay. Dứt sạch mọi đau khổ trong cuộc đời phải khởi đầu bằng chính khổ đau của ta bởi ta chỉ có thể truyền đạt cho người khác những gì bản thân mình đã cảm nhận và chứng đắc.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 44)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 176)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 208)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 229)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 296)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 212)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 261)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 367)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 335)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 314)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 400)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 627)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 491)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 495)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 594)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 761)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 855)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 867)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 852)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 743)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 717)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 722)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 819)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 841)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 946)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 730)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 623)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 719)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 833)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 723)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 715)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 830)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 860)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 830)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 880)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 911)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 898)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1105)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 963)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1687)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1074)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1214)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 960)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1220)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1125)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1134)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1290)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1574)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2045)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1109)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1361)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1103)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 958)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1070)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1105)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1541)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1297)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1303)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1033)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant