Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Lời Ðầu Sách

21 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8354)
01. Lời Ðầu Sách

PHÁP NGỮ LỤC
Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

LỜI ÐẦU SÁCH

Ðức Phật trước giờ vào Niết Bàn, ngài nói với chúng đệ tử rằng: "Suốt 49 năm giáo hóa, thật ra ta chưa từng nói một lời nào". Ðủ thấy cái chân lý cao siêu tuyệt đối không thể dùng lời diễn tả được.

Suốt bốn mươi chín năm ròng rã thuyết pháp của Ðức Phật đấy như là ngón tay chỉ mặt trăng, còn cái chân lý thuyết vời mà Ngài muốn trao gửi cho người đời thì như mặt trăng. Muốn thấy chân tướng mặt trăng, cần phải nương ngón tay. Nhưng nếu lại chấp chặc vào ngón tay thì muôn đời không thể nào thấy được mặt trăng. Vì thế kinh nói: "Nhứt thiết tu ta la giáo như tiêu nguyệt chỉ". Nghĩa là tất cả kinh điển Phật dạy như ngón tay chỉ mặt trăng là vậy.

Cái chân lý tuyệt diệu thì không thể dùng ngôn ngữ văn tự để diễn bày, cũng như người muốn đạt đạo thì không thể đơn phương dùng ngôn ngữ văn tựthể đạt được. Lão Tử cũng đồng quan điểm này, khi ông nói" "Ðạo khả đạo phi thường đạo". Cái đạo mà dùng lời nói ra được thì đó chưa phải là cái đạo chơn thường. Thế nên kinh Phật nói "ngôn ngữ đạo đoạn" là ý nghĩa này đây.

Lời nói không thể diễn tả trọn vẹn chân lý đạo. Thảo nào Ðạt Ma Thiền Tổ chín năm im lặng xoay mặt vào vách để quán tâm. Tâm quán triệt thì tuệ giác mới có cơ ngời sáng, thấu đạt lý đạo vi diệu. Muốn diệu tâm chơn tánh hiển bày, không gì hơn là ngày ngày phải chuyên tâm niệm Phật tham thiền để tâm được yên, từ đó tâm tự quán chiếu.

Vậy muốn đạt đạo, không cách nào ngoài vận dụng tâm. Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch. Người muốn được tiến bộ trên đường giác ngộ giải thoát trước hết phải nương vào kinh điển của Phật, theo đó hành trì tu tâm sửa tánh mới mong thân tâm thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh thì huệ nhựt phát sanh, Phật tánh hiển lộ. Có thiết tha hành trì, thường hằng dốc chí cầu tiến thánh thiện thân tâm, thì lo gì không thể nhập chân lý, trực chỉ đạt thành đạo quả giác ngộ.

Bởi ý nghĩa này, nên nhà Phật thường gọi người gọi phát tâm hành đạo hướng thượng trên đường giác ngộ giải thoáthành giả. Hành giả chứ không phải thuyết giả. Thuyết giả là kẻ chỉ biết nói suông. Kẻ miệng thích nói ba hoa, khua chuông, gióng trống, vọng ngôn, trồng cội tội ác. Nói hay mà không thực hành hay thì chỉ là cái máy phát thanh, giống như anh chàng suốt ngày đếm tiền cho chủ, kẻ chăn cừu cho ông trưởng giả, đó cũng là hình ảnh con vẹt nói tiếng người. Trên đời này không thiếu chi kẻ thích nói suông mà không thích thực hành. Hạng người như thế có khác nào người đói ngồi nói thức ăn này này ngon, thức ăn kia dở. Kẻ khát ngồi phân tích rành rẽ nước nọ bổ, nước kia ngọt mà không chịu uống ăn!

Cũng vậy, kẻ hiểu chút ít giáo lý nhà Phật, mang ảo tưởng mình tu cao, thấu hiểu Phật pháp, đến đâu cũng nói khoác ra ta đây thông bác, làm thầy đời, trong lúc đó chính mình lại quên thực hành lời Phật dạy, đời sống hằng ngày không có chút ít gì Phật pháp. Núi tham sân si mạn nghi còn đầy ấp cả người. Những kẻ như thế chỉ là trò cười thiên hạ, tự làm hạ phẩm giá của mình, nên có lời kệ khuyên:

Hãy nhớ sâu những lời Phật dạy,

Ðể soi mình phản chiếu tự tâm,

Hầu tránh xa muôn kiếp lỗi lầm,

Miền Cực Lạc thay trầm luân khổ hải.

Hơn mười năm hành đạo ở Hoa Kỳ, tôi thường đi hoằng pháp đó dây, những lời giảng pháp của tôi tưởng chừng đã hòa tan trong không gian như mây khói. Nào ngờ hôm nay cơ duyên hội tụ, lời giảng pháp năm xưa kết thành trang sách "Pháp Ngữ Lục" này. Những lời đó có đáng giá gì đâu! Vì đấy chỉ là lập lại những lời di giáo của Ðức Phật ngàn xưa. Nhưng những gì thuộc về dĩ vãng không còn nghĩ nhớ đến, dĩ vãng đã quên mà nay còn tồn tại, ấy là bóng hình của văn hóa. Như nhà ngoại giao Pháp Edouard Herriot nói: "Văn hóa là cái gì còn lại khi người ta đã quên hết tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta vẫn học hết tất cả". (La culturre, c'est ce qui reste quand on a toute oublée, c'est ce qui manque quand on a tout appris). Bản chất của văn hóa không rời đạo đức.

Tôi mang tâm nguyên đem lời dạy của Ðức Phật trong kinh điển trình thưa với mọi người, những mong cho ai nấy kết thiện duyên Bồ đề cố gắng thực hành để có được đời sống an lạc, thăng tiến trên quang lộ thánh thiện giác ngộ. Luận Dị Ðộ Tôn Luân nói: "Tất cả những kết quả tốt đẹp đều thực hiện bởi con người". Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: "Con người là hơn cả, có khả năng làm nên các pháp lành". Thánh thiện hay phàm phu, trầm luân hay giải thoát , vô minh hay giac ngộ đều chính con người chủ động. Ðiều đáng lưu ý cho hành giả là văn hay chữ tốt không làm cho chơn tâm hiển lộ. Danh vọng chức tước dù đạo hay đời cũng không thực tế giúp ích gì trên đường giác ngộ giải thoát.

Chân lý duyên sanh tuyệt vời qua lời Phật dạy trong kinh Thủ Lăng Nghiêm: "Nhơn duyên hòa hợp hư vọng hữu sanh. Nhơn duyên biệt ly hư vọng hữu diệt". Các pháp thế gian hiện thành là do lớp lớp duyên sanh duyên diệt nối tiếp nhau. Mọi hiện tượng đều do tương duyên tương sanh mà hình thành vạn pháp. Nên bản chất của thế gian là tương duyên sanh diệt. Nếu khôngsanh diệt thì không gọi là thế gian. Nên kinh Lăng Già nói: "Thế gian ly sanh diệt, du như hư không hoa". Nghĩa là thế gian này lìa hiện tượng sanh diệt ra thì chẳng khác hoa đốm giữa hư không. Hoa đốm có là đối với người nhặm mắt. Vạn vật thế gianhiện tượng tồn tại là đối với chúng sanh vô minh, tham vọng, tuệ giác còn trong vòng chướng ngại. Bản chất vạn hữu thế gianhuyễn ảo thế dó. Nên kinh Kim Cang nói: "Tất cả các pháp thế gian đều như mộng huyễn, như bóng bọt". (Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh).

Thân ta cũng là một pháp trong vô lượng pháp thế gian, tán tụ vô thường, tan hoại còn mất, tùy thuộc nhân duyên của tứ đại thuận nghịch mà hình thành tướng trạng hợp tan. Có lẽ tôn giả Mục Kiền LiênXá Lợi Phất khi nghe tỳ kheo Át Bệ, một trong năm người đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật trả lời "Thầy tôi là bậc đại sa môn thường dạy rằng: Các pháp do nhân duyên sanh và diệt cũng do nhân duyên diệt" mà liễu ngộ chân tướng vạn pháp, nên hai Ngài bỏ tà đạo, hồi đầu cầu Phật xin được xuất gia làm đệ tử, dốc chí tu hành chẳng bao lâu chứng Thánh, trở thành đệ tử hàng đầu trong tăng đoàn của Phật.

Quyển Pháp Ngữ Lục này sẽ làm thất vọng cho những ai có ý mong tìm những áng văn hay, những tư tưỏng kỳ lạ, mớ triết lý cao siêu. Vì sách đây vốn là văn nói từ những bài giảng pháp kết thành, và nó cũng không có kỳ vọng cống hiến cho đời cái triết lý viễn vông để thỏa mãn trí óc tò mò, xa lìa lý tưởng xây dựng đời sống an lạc thực tế. Nhưng nó có thể đáp ứng cho những hành giảtâm chí cầu thoát ly quỷ đạo luân hồi. Nó sẽ là phương tiện, là môi trường thuận lợi trên bước đường hành đạo xây dựng đời sống thánh thiện, an lạc trong ánh sáng giác ngộ giải thoát của Ðức Phật. Ấy chính là tâm nguyện của tỳ kheo quê mùa tôi đây vậy.

Hoa Kỳ, Phật Ðản Tân Mùi 1991

THÍCH ÐỨC NIỆM


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33544)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6645)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11459)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30504)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30527)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8083)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12331)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12351)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11701)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12986)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34984)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9935)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52370)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10866)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10625)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10820)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10608)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13172)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16398)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21991)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9718)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7218)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10478)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12903)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12881)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16343)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16630)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13958)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16694)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12236)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13961)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14411)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9303)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11840)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11362)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16474)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14456)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16282)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12784)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12176)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11881)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15787)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11605)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14114)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12110)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12764)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15081)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12059)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13221)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14639)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20854)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13337)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11051)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20815)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14479)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20531)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17775)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14127)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31968)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12104)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant