Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Là Phật Tử Chân Chánh

21 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8384)
05. Là Phật Tử Chân Chánh

PHÁP NGỮ LỤC
Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

5. LÀ PHẬT TỬ CHÂN CHÁNH

Thưa qúy vị,

Hôm nay tôi xin được trình bày về ý nghĩa thế nào "là một Phật tử chân chánh".

Nhiều người tự xưng là Phật tử, nhưng khi có người hỏi thế nào là Phật tử thì giật nẩy người ra, trả lời quanh quẩn không nhằm vào đâu. Nhiều khi vô tình còn làm cho người ngoài hoài nghi chê cười. Ðể thành một người Phật tử chơn chánh thì cần phải để tâm công phu tu học. Tu học có nghĩa là học để thực hành. Trên đời này không có việc gì thành công tiến bộ mà không thực hành theo chỗ sở học? Huống nữa Phật tử là người tiêu biểu cho lành thiện tiến bộ?

Nói đến Phật tử chơn chánh tức là ngoài chơn chánh có hạng Phật tử tà ngụy. Phật tử tà ngụy là hạng người cũng đi chùa lạy Phật, cũng quy y Phật, nhưng lại ngấm ngầm với cái tâm lợi dụng để được quen biết nhiều người, hầu để buôn bán, vay mượn tiền bạc, để có chức phận, để được người khen, để làm áp phe, để có dịp khoe khoang con cháu tiền của danh phận, để tỏ ra đây tu lâu năm hiểu đạo nhiều, hộ cúng chùa làm việc phước thiện, quen biết nhiều thầy v.v... Họ quy y Phật mà cũng quy y ngoại đạo tà nhơn tà giáo, thờ cúng ta ma thần quỷ. Ấy là hạng tà ngụy Phật tử.

Còn Phật tử chơn chánh thì căn bản trước nhất là phải có quan niệm khách quan, nhận định đâu là chánh, đâu là tà. Chánh để theo và tà để tránh, với tâm thành cầu đạo và rõ biết người Phật tử sống với tâm hạnh nào, phải làm bổn phận gì. 

Người sống ở đời ai cũng có bổn phận: Bổn phận cha con, bổn phận vợ chồng, bổn phận vua tôi, bổn thầy trò, bổn phận công dân. Người có tín ngưỡng tôn giáo thì có bổn phận của người tín đồ, đệ tử. Nói tóm lại, ở trên đời này hễ đã sống trong cương vị nào thì có bổn phận ở cương vị đó. Nếu khôngý thức về bổn phận của mình thì chẳng khác nào ký sinh trùng hay loài ruồi muỗi cỏ cây. Vậy người Phật tử có những bổn phận nào để trở thành là người Phật tử chơn chánh? Và từ đó mới mong thánh thiện hóa đời mình trên đường giác ngộ.

Ðể hoàn thành bổn phận của một người Phật tử chơn chánh, căn bản trước mắt nhất phải thực hiện những điều sau đây:

1. - Thái độ chơn chánh khách quan.

Ðạo Phật là đạo chánh tín. Người theo đạo Phật phải đặt niềm tin nơi sự thật, tin đúng chân lý, tin đúng chánh pháp. Do đó để khỏi rơi vào tà nhơn tà thuyết ma đạo, người tìm tôn giáo phải hết sức khách quan với tâm vô tư không một bợn nhơ thành kiến, để từ đó có thể phân biệt đâu là chánh để theo, đâu là tà để tránh. Ta phải phân biệt xét xem tôn giáo nào siêu việt tuyệt luân làm cho con người khai trí phát tuệ giác ngộ giải thoát. Phải biết nhận định tôn giáo nào mê tín dị đoan, đưa con người đến cuồng si ích kỷ hẹp hòi, vong bản quôc gia giống nòi, coi nhẹ hiếu đạo, lơ là thờ cha kính mẹ. Ta còn phải khách quan nhận định tư cách vị giáo chủ của tôn giáo đó có phải là bậc đầy đủ trí đức của bực siêu nhân cứu thế, hay chỉ là kẻ phàm tình khéo gây thanh thế rồi thần thánh hóa hoặc chỉ là ngẩu tượng thần linh huyền hoặc mơ hồ.

Người Phật tử chơn chánh còn phải dùng trí sáng suốt vô tư để phân định nền giáo lý, những lời dạy của vị giáo chủ đó có chân chánh không, có khả năng nâng cao giá trị con người trên đường thánh thiện không, có làm cho nhân loại hòa bình và có thật sự đưa nhơn loại đến cứu cánh chơn thiện mỹ an vui tịnh lạc không. Muốn đạt đến sự chân chánh khách quan của niềm tin, ta phải có trí sáng suốtnghị lực mới mong vượt qua mọi thứ cám dỗ của cảm tình bè bạn. Phải có trí tuệnghị lực để soi đường cho lý tưởng, giữ vững lập trường ngõ hầu thoát khỏi sự ràng buộc của ái tình bắt buộc, của bà con lôi kéo, của bạn bè dụ dỗ, của quyền chức danh lợi cuốn lôi.

Ðức Phật nói: "Tin ta mà không hiểu ta thì sẽ hủy báng ta". Một ngày nọ, có người đệ tử đến thưa với Phật: "Bạch Ðức Thế Tôn, con đến nghe Ngài thuyết pháp thật hay chí lý. Nhưng khi các Thầy bà La Môn họ cũng nói với con, đạo của họ hay lắm, cao tột lắm. vậy con không biết phải tin vào ai?". Ðức Phật mỉm cười từ hòa đáp: "Con đừng vội tin vào ai hết. Con hãy dùng trí sáng suốt vô tư của con, đem những lời giảng dạy của ta và những lời giảng dạy của các thầy Bà La Môn áp dụng vào đời sống của con, và so sánh kết quả thấy lời giảng dạy nào làm cho con an lạc tiến bộ lợi ích thiết thực thì con theo vị đó".

Thật ra, chọn lấy một tín ngưỡng làm lý tưởng cho đời sống của mình không thể vì tình cảm, danh lợi hoặc phó mặc cho bà con dòng tộc đặt định, hay nhắm mắt đưa chân theo phong tục tập truyền. Nếu như thế chẳng khác nào kẻ nô lệ mặc tình để cho người đem mình ném vào ngọn lửa thiêng tế thần. Người tin tôn giáo không dùng trí tuệ xét đoán, không dùng nghị lực tự chủ, họ thường hay nói một cách vô ý thức biểu trưng cho sự nông cạn ngu dốt bằng câu: "Ðạo nào cũng tốt". Thật là tai hại lắm vậy.

2. - Thành tâm cầu học.

Sau khi khách quan nhận định về giáo lý, về những chứng tích sinh hoạtthành quả quá trình của các tôn giáo, truyền bá phục vụ nhân loại, nhận thấy tôn giáo nào thật sự làm an lạc cho đời, phụng sự hòa bình thế giới không gây đau khổ cho người, thì ta quyết định tin theo. Một khi theo tôn giáo nào đó rồi, ta phải vận dụng khả năng, lợi dụng thời gian để nghiên tầm học hỏi giáo lý. Bằng không ta mắc phải lỗi lầm tin ù ù cạt cạt, tin thiếu sáng suốt nhận định, hoặc tin theo thời thế, tin để được lợi lộc, đây không phải là niềm tin chơn chánh.

Ðặc biệt, người Phật tử cần phải học hỏi giáo lý của Ðức Phật để đi cho đúng đường, để hiện đời được hạnh phúc tiến bộ, để tu hành đạt thành đạo quả. Nếu không học hỏi giáo lý thì chỉ là tu mù. Tu mù chẳng những không đi đến đâu mà sẽ còn rơi sâu vào hố thẳm của tà nhơn ma đạo mê hoặc. Bởi ma thường hóa hiện giả trang làm Phật. Người Phật tử nếu khong hiểu giaó lý thì dễ bị lung lạc trước những tà thuyết, ma thuật ngụy thánh. Không học hiểu giáo lý thì dễ bị tà sư bạn ác đánh lừa dẫn dắt. Không học hiểu giáo lý thì không thể nào phân định được đâu là lời Phật nói, đâu là lời chư tổ dạy, đâu là lời ma nói, và sẽ đưa đến nhận định tà kiến Phật ma lẫn lộn. Không hiểu giáo lý, không thầy chân tu thật học kinh nghiệm hướng dẫn thì không biết phương pháp tu nào để đạt được an lạc hạnh phúc, mau thành đạo quả. Không học hiểu giáo lý thì chỉ là cái vỏ danh xưng Phật tử, là kẻ tu lấy lệ, và sẽ không thể nào đạt đến đạo quả cứu cánh như Ðức Phật mong muốn chúng sanh đạt thành đạo quả giác ngộ, thoát ra vòng sanh tử luân hồi.

Thế nên, người Phật tử phải khéo biết lợi dụng thời gian, hoàn cảnh và khả năng của mình để cầu học hỏi giáo lý, để thấu hiểu lời chỉ dạy của Phật, để thực hành đạo nghiệphiệu quả hơn. Không thể viện lý do vì bận rộn nhà quá, vì bận rộn công ăn việc làm quá. Biết bao giờ mới hết bận rộn? Còn hơi thở là còn bận rộn. Chúng ta bận rộn vì chúng ta đắm nhiễm vào ái ân tham vọng, vì thù tạc cảm tình và như thế mãi mãi trôi lăn trong vòng lẩn quẩn ngày qua ngày, để rồi già nua oan uổng một đời.

Nhiều người nói tôi có tham vọng ái ân gì đâu! Xin thưa cứ mãi lo sắp xếp chuyện này, lo cho đứa con kia, lo cho đứa cháu nọ, phải đi tham dự vì người ta mời, lo mua thêm cái nhà v.v... đủ thứ lý do, đó không phải là một hình thức tham vọng ái ân ích kỷ chứ là gì? Chính những thứ này nó tiêu phí thời gian, giết chết một đời hành đạo của ta. Tại sao ta không khôn ngoan hơn để phân định thời gian ra, là khi nào lo việc nhà, việc con cái, lúc nào lo học đạo, tu dưỡng thân tâm, vun bồi phước đức để tự cứu lấy ta và giúp đời? Cứ mãi miết bận lo phần vật chất ái ân giả tạm, mà quên đi phần tinh thần trường tồn thánh thiện của tâm linh, điều đó không đáng tội nghiệp cho kẻ ngu muội lấy giả làm chơn, chấp phụ làm chánh, nhận phàm làm thánh sao?

3. - Quy y Tam Bảo.

Sau khi chọn lấy đạo Phật làm niềm tin của mình rồi, thì tiếp đến là tìm thầy học đạo, chọn thầy quy y. Nghĩa là để hoàn thành xứng danh là một Phật thì ta phải quy y Tam Bảo. Tại sao ta lại phải quy y Tam Bảo? Xin thưa, quy y Tam Bảo có nghĩa là đem đời mình nương tựa Phật, Pháp, Tăng với ý chí hướng thượng trên đường giác ngộ giải thoát, để dứt khoát xa lìa phiền lụy của sanh tử luân hồi.

Thế nào gọi là quy y Tam Bảo?

Quy y Tam Bảo bao hàm ý nghĩa trở về nương tựa. Như con nương tựa với cha mẹ mà được no cơm ấm áo lớn khôn. Như học trò nương tựa với thầy để học hỏi điều hay lẽ tốt, trở thành người trí thức học rộng hiểu nhiều. Còn chúng sanh si mê lầm lạc nay hồi đầu trở về nương tựa với Tam Bảo Phật-Pháp-Tăng để trở thành hiền lương quân tử thánh thiện. Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng là nơi hiền hòa thanh tịnh, giác ngộ giải thoát các căn cội phiền não sanh tử luân hồi.

 Nhưng tại sao gọi Phật-Pháp-Tăng là Tam Bảo?

- Xin thưa, Tam Bảo có nghĩa là ba ngôi quý báu. Nên Phật-Pháp-Tăng còn được gọi là ba ngôi qúy báu. Người đời cho vàng bạc ngọc ngà kim cương hột xoàn là quý báu. Nhưng xét cho kỹ, những thứ này chỉ là đồ trang sức thân thể. Nó chẳng qua là phương tiện cho cuộc sống vật chất, mua cơm ăn áo mặc nhà ở xe cộ v.v... chứ thật sự không đem lại hạnh phúc chơn thật cho con người. Mà quan niệm nghiêm chỉnh chơn chánh về hạnh phúc là, cái gì làm cho con người được chân thật an lạc hạnh phúc vĩnh viễn thì cái đó mới gọi là quý báu.

Biết bao người vì muốn có được nhiều kim cương hột xoàn vàng bạc mà phải lập mưu tìm kế lừa dối phỉnh gạt. Biết bao người lo âu vì có nhiều kim cương hột xoàn vàng bạc. Lo âu vì sợ trộm cướp, lo âu vì sợ con cháu dâu rể biết được sẽ sanh tâm tranh giành tìm cách soán đoạt. Biết bao người vì nhiều kim cương hột xoàn vàng bạc của cải mà phải tan nhà mất mạng, hạnh phúc gia đình ly tán, tình thân quyến thuộc nhạt phai. Và cũng biết bao người không dám ăn dám mặc dám ngủ, trằn trọc suốt đêm vì sợ mất, vì muốn được nhiều thêm.

Tóm lại, kim cương hột xoàn vàng bạc của cải không phải chơn thật quý báu. Nó chỉ là phương tiện cho đời sống vật chất giúp con người bớt đi đói rách mà thôi. Nếu ai biết xử dụng nó thì cuộc sống trở nên thoải mái đạo đứcý nghĩa. Nhưng lòng người như túi tham không đáy, có bao giờ thấy đủ đâu? Lúc có dư mười đồng thấy không đủ. Khi có dư một trăm, một ngàn, mười ngàn, mười vạn cũng thấy không đủ? Cho nên càng có tiền mà không biết học hiểu và thực hành lời Phật dạy thì càng trở nên thấy thiếu, càng thêm keo kiết và càng xa dần điều ân nghĩa phước thiện. Thế thì kim cương hột xoàn vàng bạc có phải là chân thật quý báu không, thưa quý vị? Phàm ở đời, cái gì mang lại hạnh phúc thật sự và vĩnh viễn cho đời sống không lo âu mới là quý báu. Cái gì làm cho con người lo âu, thúc dục, lòng người tham lam đuổi bắt là đau khổ, là không phải quý báu.

- Tại sao Phật Pháp Tăng gọi là quý báu?

- Phật là con người như bao nhiêu con người, là một thái tử như bao nhiêu thái tử. Ngài nhận thấy cuộc đời mộng huyễn dãy đầy khổ đau, nên ngài xả bỏ tất cả sự đời, quyết tâm tu hành và đã thành Phật. Người thành Phật là người thấu rõ cội nguồn nhân sanh vũ trũ, thể nhập chân lý, sống như chân lý. Người thành Phật là người tâm thanh tịnh sánh suốt, dứt sạch phiền não, không còn sanh tử luân hồi khổ đau. Thế nên Phật nói cho đủ là Phật Ðà, có nghĩa là con người đại giác ngộ, hoàn toàn giải thoát mọi thăng trầm phiền lụy của nhân thế.

Phật có ba nghĩa căn bản là: Tự giác, giác tha, và giác hạnh viên mãn.

Tự giác, nghĩa là tự mình tu hành đoạn sạch vô minh phiền não, phước huệ tròn đầy, thấu đạt chơn lý của vạn hữu, không còn sanh tử luân hồi.

Giác tha, nghĩa là đem sự giác ngộ của mình đã chứng đạt giáo hóa người đời, để cho chúng sanh biết phản tỉnh tu hành, hồi tâm hướng thiện.

Giác hạnh viên mãn, nghĩa là Phật đem sự giác ngộ của mình ra dạy dỗ chúng sanh, khiến cho chúng sanh theo đó tu hành chứng thành đạo quả, thoát khỏi vô minh phiền não sanh tử luân hồi. Như thế, Phật đã giác ngộchúng sanh nghe theo Phật dạy phát tâm tu hành cũng giác ngộ, cả Phật và chúng sanh đồng giác ngộ, nên gọi là giác hạnh viên mãn.

Phật là người đã đạt đức tánh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, đại giác ngộ. Ðem suốt trọn đời mình lo cứu tế nhân loại chúng sanh đang trầm luân khổ hải, thương chúng sanh như mẹ hiền thương con nhỏ, nhất tâm quyết chí xây dựng hạnh phúc chân thật cho muôn loài chúng sanh. Như thế há không xứng đáng gọi là quý báu hay sao? Phật đã thật sự đem hạnh phúc chân thật cho con người, nếu người biết sống theo lời Phật dạy. Vì thế nên người đời gọi là Phật bảo. Như thế Phật không đáng cho người đời tôn kính nương tựa quy ư ?

Pháp là giáo pháp, là lời dạy của Ðức Phật. Ðức Phật là bậc đại giác ngộ, nên lời dạy của Ngài là những lời giác ngộ, đúng với chân lý, thích hợp với căn tánh chúng sanh. Cũng như vị thầy thuốc giỏi bắt mạch cho toa thì trúng bệnh của mỗi bệnh nhân. Như bậc đạo sư kinh nghiệm dẫn đường thì không lạc lối. Ðức Phật ra đời vì mục đích cứu độ chúng sanh. Kinh Pháp Hoa Phật nói: "Ta ra đời vì một đại sự nhân duyên lớn là khai thị chúng sanh, để chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật". Tức là làm cho mỗi chúng sanh liễu ngộ Phật tánh của mình. Cho nên giáo pháp của Ngài nói ra đều nhằm mục đích trị bệnh chúng sanh hết mê lầm phiền não, được thanh tịnh an vui. Chẳng hạn thuốc Bố thí thì trị bịnh tham lam bỏn xẻn; thuốc Nhẫn nhục thì trị bịnh nóng giận; thuốc Hỷ xả trị bịnh cố chấp; thuốc Tinh tấn thì trị bịnh lười biếng; thuốc Trì giới thì trị bịnh buông lung; thuốc Ái ngữ thì trị bịnh ác khẩu; thuốc Quán bất tịnh thì trị bịnh tham dục; thuốc niệm Phật thiền định thì trị bịnh tâm loạn động. Người biết dùng thuốc giáo pháp của Phật thì sẽ có đời sống từ bi, hỷ xả, lợi tha, thanh tịnh an lạcđạt được hạnh phúc giải thoát ngay trong hiện đời chớ chẳng phải tìm đâu xa. Chúng sanh căn tánh không đồng, nên giáo pháp của Ðức Phật có muôn vạn pháp môn. Quý vị thử áp dụng một trong những pháp môn Phật dạy thì sẽ thấy đời của quý vị an vui tiến bộ ngay.

Những lời Phật dạy làm cho ta hạnh phúc thánh thiện tiến hóa trên đường giác ngộ, từ phàm đến thánh, há không đáng được gọi là quý báu ư? Do ý nghĩa này mà người đời tôn kính những lời dạy của Ðức Phật xưng là Pháp bảo, là nơi để nương tựa quy y.

Tăng là người thoát ly sự ràng buộc gia đình, xuất gia tu theo hạnh Phật, sống đời sống từ bi hỷ xả lợi tha với ý chí cầu đạo vô thượng Bồ đề. Tăng là người tu hành quyết đoạn trừ phiền não tham sân si, mang tâm nguyện hiến dâng đời mình cho sự nghiệp giác ngộ giải thoát, cho lợi tha hạnh phúc nhân loại. Tăng nói cho đủ là Tăng già, có nghĩa là một đoàn thể người xuất gia sống hòa hợp chuyên tâm tập sống đời sống thanh tịnh như Ðức Phật với tâm nguyện cầu giác ngộ, độ mình và độ người, sống bằng sáu pháp lục hòa. Thế nào là sống lục hòa? Ấy là nếp sống: 1/ Thân hòa cùng chung ở; 2/ Miệng nói lời hòa dịu không tranh cải; 3/ Ý hòa cùng vui vẻ; 4/ Vật thọ dụng cùng hòa chia sẻ cho nhau; 5/ Ý hay lời đẹp cùng hòa giải thích trao đổi; 6/ Cùng chung thọ trì giới luật của Phật hòa vui tinh tấn tu hành.

Người xuất gia làm Tăng là người quyết tâm dứt khoát bước ra khỏi nhà thế tục, nhà phiền não và nhà tam giới (dục giới, sắc giớivô sắc giới) sanh tử luân hồi. Hành trang của người xuất giatrì giới thanh tịnh. Có trì giới thanh tịnh thì trí huệ phước đức mới phát sanh, mới có cơ hội thành đạo chứng quả, mới có khả năng cứu độ chúng sanh. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: "Sanh tử căn bổn dục vi đệ nhất". Nghĩa là ái dục là nguồn gốc của sanh tử luân hồi khổ đau. Muốn thoát khỏi sanh tử luân hồi phải trừ ái dục. Muốn đoạn trừ ái dục tham sân si thì cần phải giữ giới thanh tịnh

giữ giới thanh tịnh, có trang trải tình thương bình đẳng cho mọi người, có sống cuộc đời vị tha thuận hợp với luân thường đạo lý, nghĩ như chánh pháp, nói như chánh pháp và làm như chánh pháp thì mới gọi là Tăng.

Người bỏ xả hết tất cả, nguyện sống đời sống thanh tịnh đạo đức, mang đại nguyện lợi tha độ đời, đem trọn hiến dâng cho đạo pháp làm lợi ích chúng sanh, như thế không xứng đáng là quý báu ư? Vì đặc tính vị tha cao thượng hướng mình và người trên đường giải thoát, nên gọi là Tăng bảo. Như thế thì Tăng bảo không xứng đáng là nơi để cho chúng sanh quy y nương tựa học hỏi ư?

Tuy nhiên trong hàng Tăng có chơn tăng và ngụy tăng. Người Phật tử phải sáng suốt chọn chơn tăng mà quy y để cầu học. Không quy y Tăng là không đủ Tam Bảo. Không quy y Tăng thì không thể nào thông hiểu Phật lý, không thể nào đi đúng đường tu hành, không thể nào tránh được tội ngã mạn cống cao, và không thể nào tránh xúc phạm vào một trong ba ngôi Tam Bảo.

Không thể ỷ vào thế trí biện thông kinh sách nằm lòng mà không cần Tam Bảo. Hiểu giáo lý của Phật bằng sự thể hiện thực hành chứ không thể nói suông. Nếu chỉ nói suông giáo lý Phật một cách làu làu vanh vách mà trong lúc đó lại kém khuyết sự hành trì thì chẳng khác nào băng cassette, muổng múc canh, người điếc đánh đờn hay, kẻ ngày ngày đếm bạc giỏi cho người triệu phú. Cũng không thể lấy cớ vào một số ngụy tăng tà hạnhhành vi làm tổn thương đạo Pháp mà bảo rằng Tam Bảo không xứng đáng để quy y. Như thế là phạm tội quơ đủ cả nắm. Nên biết rằng mía sâu có đốt, nhà dột có nơi, cuộc đời vốn là tương đối vàng thau lẫn lộn. Chúng ta phải khôn ngoan sáng suốt chọn đốt mía tốt không sâu thưởng thức, phải khéo lựa nhà không dột để ấm thân, phải thận trọng chọn vàng ròng để làm của. Không quy y Tăng thì trước nhất chính mình mất nhiều lợi lạc, lại phạm tội tăng thượng mạn, phản bội lời Phật dạy. Là Phật tử chân chánh nên tránh quan niệm sai lầm không quy y Tăng này.

Tam Bảođại lộ quang minh dẫn người ra khỏi rừng đêm chông gai tăm tối. Tam Bảothuyền Bát Nhã đưa người qua biển khổ trầm luân. Nên Cổ đức có kệ:

Mang mang trường dạ trung

Tam Bảo vi minh đăng

Thao thao khổ hải nội

Tam Bảo vi từ thuyền.

Dịch:

Hoang mang giữa quãng đêm dài

Này nơi Tam bảo là đài quang minh

Ngập trời biển khổ lênh đênh

Này nơi Tam Bảo sinh linh thuyền từ.

4. - Chọn pháp môn tu.

Sau khi đã phát tâm quy y Tam Bảo, đã trở thành chánh thức là một Phật tử, thì người Phật tử phải chọn pháp môn để tu hành. Có tu hành mới tìm được nguồn an lạc, mới có thể thành đạt đạo Bồ đề. Vì chúng sanh căn tánh bất đồng, nên Ðức Phật cũng tùy theo đó chỉ bày nhiều pháp môn tu khác nhau, để thích ứng căn cơ trình độ của mỗi chúng sanh. Người Phật tử phải nên hết sức khách quan để chọn thầy, chọn bạn, chọn pháp môn tu. Sau khi chọn pháp môn tu rồi, phải thường xuyên chuyên cần thực hành, đồng thời thường đem chỗ sở học, sở tu, sở hành và những hiện tưọng cảm nhận mình đã thu hoạch để thưa hỏi với bậc thầy mà mình quy y, hay bậc minh sư thiền đức mà mình thấy có thiện duyên

Trên đưòng tu tập rất dễ bị tà ma giả hiện làm Phậtdụ dẫn người tu vào đường "tẩu hỏa nhập ma", tức là dễ lạc rơi vào đường tà nhơn cám dỗ, tà ma ngoại đạo (xin xem Triết Lý Thủ Lăng Nghiêm, phần ngũ ấm ma). Cổ đức thường nói: "Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng". Nếu không có thể bậc minh sư chỉ đạo thì mình cứ lầm tưởng ma là Phật, cứ ngỡ là mình đã chứng đạo, rồi vui mừng tự đắc chấp chặt vào đó để rồi vào làm quyến thuộc của ma mà không tự biết. Từ đó, đến đâu, ngồi đâu cũng nói chuyện chứng thánh, chuyện tiếp nhận ân điển viễn vông, nói những điều tưởng tượng nào là đi vân du thiên giới, tiên cảnh v.v... chứng đắc, xuất hồn xuất viá, thấy Phật này Bồ Tát nọ. Những điều đó không đúng lời Phật dạy, không đúng chánh pháp chút nào. Như thế, từ cuộc sống không tưởng này đưa đến tâm trí không còn bình thường, niềm tin mù quáng, tạo thành tâm trí băng hoại, hạnh phúc gia đình dần dần tan rã, bà con quyến thuộc lạnh nhạt xa lìa. Ðó không phải là lối tu sống của người Phật tử chân chánh.

Suốt tam tạng kinh điển diễn thuật trọn cuộc đời Ðức Phật hoằng pháp độ sanh, Ngài chưa từng nói những điều kỳ hoặc đó. Suốt tam tạng kinh điển cũng không có một câu văn một bài kệ nào nói việc kỳ dị để khiêu gọi thị hiếu nhằm huyễn hoặc lòng người như vậy.

Tổ Quy Sơn dạy:" Như sư thật bất minh, đương biệt cầu lương đạo". Nghĩa là, nếu như Thầy mình không phải là bậc minh sư sáng suốt, có đủ khả năng hướng dẫn mình tiến tu trên đường giác ngộ giải thoát, thì mình nên sớm đi tìm bậc minh sư khác để học đạo. Rủi gặp phải tà sư bạn ác thì mình phải dứt khoát thái độ, sớm xa lánh để khỏi rơi vào quyến thuộc của ma. Hoặc bậc Thầy mà mình quy y đã qua đời hay ở xa không liên lạc học hỏi đạo lý được, thì nên tìm xin y chỉ vị Thầy đạo đức sáng suốt khác, để cầu học hỏi Phật Pháp tu hành. Không nên có thái độ cố chấp, viện lẽ là mình đã quy y rồi, nên không cần quy y nữa. Cũng không nên có quan niệm sai lầm cố chấp, Thầy tôi dù sao đi nữa cũng là Thầy tôi, rồi mù quáng chấp chặt mãi vào đó để cho có lệ, không biết cầu học tiến tu.

Người Phật tử chân chánh cũng không nên có thái độ cực đoan là, khi thấy vị Thầy mà mình đã quy y hoặc vị khác thôi tu hoàn tục, rồi sanh tâm thất vọng uất ức buông ra những lời nguyền rủa tệ bạc. Như thế là tự mình cao ngạo gây tội tội lỗi nặng nề. Vì sao? Bởi vì, khi người hết duyên hành đạo sống đời xuất gia, thì đường đường chánh chánh hoàn tục ra đời kết thê lập nghiệp, tu hạnh cư sĩ đâu có gì lạ? Bởi duyên xuất gia đến đó là kết thúc. Ðìều đáng sợ nhất và tội lỗi nhất là, kẻ mặc chiếc áo tu, mà tâm hành thế tục, mưu cầu lợi dưỡng, trọng danh lợi cá nhân hơn đoàn thể, lo ích kỷ phần mình hơn là việc lợi tha, đó mới là loại mối mọt đục khoét ngôi nhà Phật Pháp. Ðấy mới là mối lo âu lớn lao cho tiền đồ Phật giáo, là tai họa của đạo pháp. Ðáng lo ngại nhất, kẻ mang hình thức Tăng ở chùa mà tâm địa thế gian, làm cho đạo pháp tan hoang. Kinh Phật nói loại người này là: "Sư tử trùng thực sư tử nhục".

Phật tử chơn chánh phải hết sức cẩn trọng trong việc tìm thầy chọn bạn để học đạo; phải biết sống đời sống kiên nhẫn, dũng cảm trong việc hộ trì đạo pháp, dù gặp phải nguy khó. Là Phật tử chân chánh phải có tâm chí cầu tiến bộ hướng thượng không ngừng; phải thận trọng sáng suốt không để tình cảm dẫn dụ kéo lôi, không để trò huyễn thuật mê hoặc. Là Phật tử chơn chánh nên thực hành theo lời Phật dạy. Nên theo gót bậc chân Tăng thì nhất định sẽ gặp được Phật.

Phật tử chân chánh, muốn có được đời sống an lành hạnh phúc tiến bộ, chóng thành đạo quả giác ngộ thì phải hết sức cẩn trọng trong việc chọn thầy, chọn bạn, chọn pháp môn tu, chớ để tánh hiếu kỳ dẫn dắt, thì mới khỏi oan uổng công phu tu tập suốt cả một đời.

5. - Phụng sự đạo pháp.

Sau khi đã quy y Tam Bảo, đã tìm minh sư bạn tốt học đạo, đã chọn pháp môn tu hành, thì người Phật tử chân chánh nhất định không quy y thiên thần qủy vật, ngoại đạo tà giáo, quyết không tin theo lời khuyến dụ của bạn tà, ác đảng ngụy trang thân thiện nhơn nghĩa, tự xưng Phật này nhập về mình, Thánh kia đã chứng cho, Bồ Tát nọ đã nói chuyện. Tất cả đều là huyễn thuật hoang đường, đều là ý đồ tà tâm mê hoặc.

Cuộc đời dưới con mắt của người thường, thì vàng thau lẫn lộn, thánh phàm khó phân. Thế gian này cũng lắm tổ chức, chùa viện với nhãn hiệu từ thiện tu hành, và cũng đã có biết bao kẻ hiếu kỳ nhẹ dạ, cả Phật tử nữa đã nhiệt tâm muốn làm việc hữu ích, vội vã tin theo, tổn công phí sức, tiêu hao tiền của, mà không đạt được như ý nguyện, rồi đâm ra thất vọng oán thán. Lại có những Phật tử nghe lời ngọt bùi của bạn bè, hoặc nghe những lời than vãn của kẻ mang lớp áo nhà tu, những người mang danh nghĩa hộ đạo giúp chùa làm từ thiện, hay nông nổi vội tin ông kia bà nọ tu đắc đạo chứng quả rồi hấp tấp chạy theo, tốn hao tiền của, tâm thần không còn bình thường, gia đình mất hạnh phúc. Ðó là hậu quả của những kẻ thiếu sáng suốt để chọn thầy tốt, bạn hiền, những kẻ hiếu kỳ vội tin lời bùi ngọt, để phục vụ cho tà đạo tà pháp tà sư.

Người Phật tử chân chánh phải bình tĩnh nhận định, phải học hỏi bậc minh sư. Người học Phật không thể để tình cảm phủ che lý trí.

Ðiều hết sức lưu ý là đừng nghe lời rỉ tai dụ hoặc về chuyện kỳ lạ bà kia ông nọ chứng thánh chứng thần. Ðó là chứng đạo tà ma chứ không phải là chân chánh Phật. (Xin xem Triết Lý Thủ Lăng Nghiêm, phần Ðại thừa Tâm giới).

Phật tử chân chánh điều tối quan trọng là phải biết chọn thầy để quy y, phải biết chọn pháp môn để tu hành, phải biết bình tâm thanh tịnh hóa đời mình mỗi lúc một thêm tiến bộ, và phải ngày đêm tận tâm phục vụ chánh pháp đúng chỗ, để cho vườn phước đức trổ hoa, để cho tâm Bồ đề tỏa ngát hương giải thoát, để cho đời mình mát tươi và để cho tâm mình mở rộng biển trí tuệ thênh thang. Thế mới là Phật tử chân chánh.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33545)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6645)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11459)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30504)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30529)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8083)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12331)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12351)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11701)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12986)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34985)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9935)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52370)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10866)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10626)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10820)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10609)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13172)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16398)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21992)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9718)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7219)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10478)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12903)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12881)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16343)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16630)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13958)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16694)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12236)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13961)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14411)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9303)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11840)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11362)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16474)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14456)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16282)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12785)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12177)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11881)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15787)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11605)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14114)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12110)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12765)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15081)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12059)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13221)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14639)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20854)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13337)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11051)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20815)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14479)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20531)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17775)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14127)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31968)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12104)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant