Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Phẩm Phổ-Hiền Tam-muội

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13218)
03. Phẩm Phổ-Hiền Tam-muội

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM PHỔ HIỀN TAM MUỘI
THỨ BA

Lúc bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát ma-ha-tát ngồi trên tòa sư-tử ở trước Phật, thừa thần-lực của Phật mà nhập tam-muội tên là Nhứt-Thiết-Chư-Phật-Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai Tạng-Thân, vào khắp tánh bình-đẳng của tất cả Phật, có thể ở nơi pháp-giới thị-hiện những ảnh-tượng rộng lớn vô-ngại đồng hư-không, pháp-giới xoay vần đều theo vào, xuất sanh tất cả tam-muội, có thể bao nạp khắp mười phương pháp-giới, trí quang-minh của tam-thế chư Phật đều từ đây mà sanh những sự an-lập trong mười phương đều có thể thị-hiện, trùm chứa tất cả lực giải-thoát của Phật và trí của chư Bồ-Tát, có thể khiến tất cả quốc-độ vi-trần, đều có thể dung-thọ vô-biên pháp-giới, thành-tựu biển công-đức của tất cả Phật, hiển-thị biển đại nguyện của Như-Lai, bao pháp-luân của tất cả chư Phật đều lưu thông hộ-trì không đoạn tuyệt.

Như trong thế-giới này, Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trước Phật nhập tam-muội đây, cũng vậy, khắp pháp-giới hư-không-giới, thập phương tam-thế vi-thế vô-ngại quang-minh rộng lớn, Phật nhãn chỗ thấy được, Phật-lực đến được, Phật-thân hiện được, tất cả quốc-độ, trong quốc-độ này có bao vi-trần, trong mỗi vi-trần có thế-giới vi-trần số Phật độ, trong mỗi độ có thế-giới vi-trần số Phật, trước mỗi đức Phật có thế-giới vi-trần Phổ-Hiền Bồ-Tát cũng đều nhập tam-muội Nhất-Thiết-Chư-Phật-Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai-Tạng-Thân này.

Lúc đó, trước mỗi Phổ-Hiền Bồ-Tát đều có thập phương tất cả chánh-pháp hiện ra. Chư Phật này đồng khen rằng : lành thay lành thay ! Này thiện-nam-tử ! Ông có thể nhập Nhất-Thiết-Chư-Phật-Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai-Tạng-Thân này.

Này Phật-tử ! Ðây là mười phương tất cả chư Phật đồng gia-hộ cho ông, do vì nguyện-lực của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, mà cũng do nguyện-lực tu tập tất cả Phật-hạnh của ông. Chính là ông có thể chuyển pháp-luân của chư Phật, chiếu khắp những biển an-lập ở mười phương không sót, khiến tất cả chúng-sanh trừ tạp-nhiễm được thanh-tịnh, nhiếp khắp tất cả quốc-độ không chấp trước, sâu vào cảnh-giới của chư Phật không chướng ngại, hiện bày công-đức của chư Phật, vào được thật tướng của các pháp-thân lớn trí-huệ, quan-sát tất cả pháp-môn, rõ biết căn của tất cả chúng-sanh, hay thọ trì giáo văn của Như-Lai.

Lúc đó thập phương tất cả chư Phật liền ban cho Phổ-Hiền Bồ-Tát trí-lực vào được nhất-thiết-trí-tánh, ban cho trí vào pháp-giới vô-biên vô-lượng, ban cho trí thành-tựu cảnh-giới chư Phật, ban cho trí biết tất cả thế-giới thành hoại, ban cho trí biết chúng-sanh giới rộng lớn, ban cho trí trụ những tam-muội giải-thoát thậm thâm vô-sai-biệt của chư Phật, ban cho trí nhập căn tánh của tất cả Bồ-Tát, ban cho trí biết ngôn ngữ của tất cả chúng-sanh và từ biện chuyển pháp-luân, ban cho trí vào khắp thân pháp-giới, ban cho trí được thinh-âm của tất cả Phật.

Như trong thế-giới này Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trước Như-Lai được chư Phật ban cho những trí như vậy, tất cả Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trong vi-trần thế-giới cũng được như vậy. Tại sao thế ? Vì chứng tam-muội đó thời được như vậy.

Lúc đó thập phương chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Tay Phật đủ tướng-hảo trang-nghiêm phóng lưới quang-minh thơm sáng, đồng thời phát ra tiếng vi-diệu và những sự thần-thông tự-tại. Tất cả Phổ-Hiền nguyện-hải của tất cả Bồ-Tát quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, những pháp-luân thanh-tịnh và ảnh-tượng của tam-thế chư Phật cũng đều hiện cả trong quang-minh ấy.

Tất cả Phổ-Hiền Bồ-Tát trong tất cả thế-giới vi-trần cũng đều được xoa đảnh như vậy.

Bấy giờ, Phổ-Hiền Bồ-Tát liền từ tam-muội ấy mà xuất, đồng thời cũng từ vi-trần-số tam-muội mà xuất : từ môn tam-muội trí biết tam thế niệm vô-sai-biệt mà xuất, từ môn tam-muội biết số vi-trần trong tam-thế tất cả pháp-giới mà xuất, từ môn tam-muội hiện tam-thế tất cả Phật-độ mà xuất, từ môn tam-muội hiện xá-trạch của tất cả chúng-sanh mà xuất, từ môn tam-muội biết danh-tự sai khác của tất cả chúng-sanh mà xuất, từ môn tam-muội biết thập phương pháp-giới chỗ nơi đều sai khác mà xuất, từ môn tam-muội biết trong tất cả vi-trần đều có vô-biên Phật-thân rộng lớn mà xuất, từ môn tam-muội diễn nói lý-thú của tất cả pháp mà xuất.

Lúc Phổ-Hiền Bồ-Tát từ những môn tam-muội như vậy mà xuất, chư Bồ-Tát đều được thế-giới vi-trần-số tam-muội, được thế-giới vi-trần-số đà-la-ni, được thế-giới vi-trần-số pháp phương-tiện, được thế-giới vi-trần-số môn biện-tài, được thế-giới vi-trần-số môn tu hành, được thế-giới vi-trần-số trí quang-minh công-đức của chư Phật khắp chiếu pháp-giới, được thế-giới vi-trần-số phương-tiện-lực trí-huệ vô-sai-biệt của chư Phật, được thế-giới vi-trần-số hải-vân trong mỗi chân lông của tất cả chư Phật đều hiện các quốc-độ, được thế-giới vi-trần-số hải-vân mỗi Bồ-Tát thị-hiện từ Ðâu-Xuất Thiên-Cung giáng sanh thành Phật chuyển pháp-luân nhập niết-bàn.

Lúc đó, tất cả thế-giới ở mười phương, do thần-lực của Phật và Ðại Bồ-Tát sức tam-muội của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nên các báu trang-nghiêm đều lay động nhẹ, đồng thời vang ra diệu-âm diễn nói các pháp. Lại nơi trong chúng hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai khắp rưới mười thứ mây đại ma-ni-vương : mây ma-ni-vương kim-tràng vi-diệu, mây ma-ni-vương quang-minh chiếu sáng, mây ma-ni-vương bửu-luân rũ xuống, mây ma-ni-vương bửu-tạng hiện tượng Bồ-Tát, mây ma-ni-vương xưng dương danh hiệu Phật, mây ma-ni-vương quang-minh chiếu sáng thất cả Phật độ đạo-tràng, mây ma-ni-vương chiếu sáng mười phương tất cả biến hóa, mây ma-ni-vương ca ngợi công-đức của tất cả Bồ-Tát, mây ma-ni-vương sáng chói như mặt nhựt, mây ma-ni-vương tiếng nhạc thích ý vang khắp mười phương.

Rưới khắp mười thứ mây ma-ni-vương như vậy rồi trong các chân lông của chư Phật đều phóng quang-minh. Trong quang-minh nói kệ rằng :

Phổ-Hiền ở khắp các quốc-độ 

Ngồi bửu-liên-hoa chúng đều thấy

Tất cả thần-thông đều hiện ra

Vô-lượng tam-muội đều hay nhập.

Phổ-Hiền thường dùng các thứ thân

Châu lưu pháp-giới đều đầy khắp

Tam-muội phương-tiện sức thần-thông 

Viên-âm rộng nói đều vô-ngại.

Trong tất cả cõi chư Phật ngự

Các môn tam-muội hiện thần-thông 

Mỗi mỗi thần-thông đều khắp cùng 

Thập phương quốc-độ không chỗ sót.

Như tất cả cõi Như-Lai ngự

Trong sát-trần kia cũng như vậy

Chỗ hiện tam-muội sự thần-thông 

Nguyện lực Tỳ-Lô-Giá-Na Phật.

Phổ-Hiền thân tướng như hư-không 

Nương chơn tánh ở chẳng phải cõi

Tùy lòng chúng-sanh chỗ thích ưa

Thị-hiện thân hình đồng tất cả.

Phổ-Hiền an-trụ các đại nguyện 

Vô-lượng thần-thông sức tự-tại 

Tất cả Phật-thân các quốc-độ 

Ðều hiện hình kia mà đến đó.

Tất cả sát-hải vô-lượng biên

Phân thân ở đó cũng vô-lượng 

Cõi nước hiện ra đều trang-nghiêm 

Trong một sát-na thấy nhiều kiếp.

Phổ-Hiền an tất cả cõi

Hiện đại thần-thông hơn tất cả

Chấn động mười phương đều khắp cùng

Khiến chúng quan-sát đều được thấy.

Tất cả công-đức Phật trí-lực

Các môn đại-pháp đều thành đủ

Dùng các tam-muội phương-tiện môn

Bày hạnh bồ-đề mình đã tập.

Tự-tại như vậy bất tư-nghì

Thập phương quốc-độ đều thị-hiện 

Vì bày tam-muội đã khắp vào

Trong mây Phật-quang khen công-đức.

Lúc đó, tất cả chúng Bồ-Tát đều hướng về phía Phổ-Hiền chấp tay chiêm ngưỡng, thừa thần-lực của Phật đồng nói kệ rằng :

Từ các Phật-pháp mà sanh ra

Cũng do Như-Lai nguyện-lực khởi

Chơn-như bình-đẳng tạng hư-không 

Pháp-thân của ngài đã nghiêm-tịnh.

Tất cả Phật độ trong chúng hội

Phổ-Hiền ở khắp nơi trong đó

Quang-minh công-đức bực trí-hải

Chiếu khắp mười phương đều được thấy.

Phổ-Hiền công-đức biển rộng lớn 

Quá khắp mười phương gần gũi Phật 

Tất cả vi-trần có các cõi

Ðều đến được kia mà hiện rõ.

Phật-tử chúng tôi thường thấy Ngài

Gần gũi tất cả chư Như-Lai 

Trụ trong tam-muội cảnh chơn thật 

Số kiếp vi-trần tất cả cõi.

Phật-tử hay dùng thân phổ-biến

Ðều đến thập phương các cõi nước

Biển cả chúng-sanh đều tế độ

Pháp-giới vi-trần đều vào cả.

Vào nơi pháp-giới tất cả trần

Thân đó vô-tận không sai khác 

Ví như hư-không đều khắp cùng 

Diễn nói Như-Lai pháp rộng lớn.

Bực tất cả công-đức sáng chói

Rộng lớn như mây sức thù thắng

Trong biển chúng-sanh đều qua đến

Nói công-hạnh Phật pháp vô-đẳng.

Vì độ chúng-sanh nơi kiếp hải

Thắng hạnh Phổ-Hiền đều tu tập

Diễn nói các pháp như mây to

Thinh âm quảng-đại đều nghe khắp.

Quốc-độ thế nào mà xuất hiện

Chư Phật thế nào mà xuất hiện

Nhẫn đến tất cả biển chúng-sanh 

Mong theo nghĩa đó nói như thật.

Trong đây vô-lượng vô-biên chúng

Ở trước đức Phật đều cung kính

Vì chuyển thanh-tịnh diệu pháp-luân 

Tất cả chư Phật đều tùy hỉ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29900)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27181)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21772)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23612)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20431)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24759)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24771)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30981)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23994)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26526)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21328)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23232)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18806)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19988)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23174)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22821)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22926)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29586)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20647)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15849)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19689)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18129)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22948)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34174)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39266)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18861)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24067)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29151)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30969)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21013)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26861)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23339)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24689)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20231)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20410)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15841)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23909)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant