Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Phẩm Thế-giới thành-tựu

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 20877)
04. Phẩm Thế-giới thành-tựu

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM THẾ GIỚI THÀNH TỰU
THỨ TƯ

Lúc bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát ma-ha-tát, do thần-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả thế-giới-hải, tất cả chúng-sanh-hải, tất cả chư Phật-hải, tất cả pháp-giới-hải, tất cả chúng-sanh-nghiệp-hải, tất cả chúng-sanh-căn-dục-hải, tất cả chư Phật-pháp-luân-hải, tất cả tam-thế-hải, tất cả Như-Lai nguyện-lực-hải, tất cả Như-Lai thần-biến-hải.

Quan-sát xong, Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo khắp tất cả chư Bồ-Tát trong chúng hội đạo-tràng rằng : 'Chư Phật-tử ! Chư Phật Thế-Tôn có trí-huệ thanh-tịnh bất-tư-nghì biết tất cả thế-giới-hải thành-hoại, biết tất cả chúng-sanh nghiệp-hải, biết tất cả pháp-giới an-lập-hải, nói tất cả vô-biên Phật-hải, vào tất cả căn-dục-hải, một niệm biết khắp tất cả tam-thế, hiển-thị tất cả Như-Lai vô-lượng-nguyện-hải, thị-hiện tất cả Phật thần-biến-hải, chuyển pháp-luân, kiến-lập diễn-thuyết-hải, thanh-tịnh Phật-thân, vô-biên sắc tướng-hải Phổ-chiếu-minh, tướng-hảo và tùy hình-hảo đều thanh-tịnh, vô-biên sắc-tướng quang-minh luân-hải, cụ-túc thanh-tịnh, các thứ sắc-tướng quang-minh vân-hải, thù-thắng bửu-diệm-hải, thành-tựu ngôn âm-hải, thị hiện ba thứ tự-tại điều-phục thành thục tất cả chúng-sanh, dũng mãnh điều-phục chúng-sanh hải không luống qua, an-trụ Phật-địa, vào cảnh-giới Như-Lai, oai-lực hộ-trì, quan-sát tất cả chỗ làm của Phật-trí, trí-lực-viên-mãn không ai điều-phục được, công-đức-vô-úy không ai hơn, trụ nơi tam-muội vô-sai-biệt, thần-thông biến-hóa, trí-thanh-tịnh-tự-tại, tất cả Phật-pháp không ai hủy hoại được.

Tất cả pháp bất-tư-nghì như vậy, tôi sẽ thừa thần-lực của Phật và oai-thần của tất cả Như-Lai mà tuyên-thuyết đầy đủ. Vì muốn khiến chúng-sanh vào trí-huệ-hải của Phật, vì muốn khiến tất cả Bồ-Tát được an-trụ trong biển công-đức của Phật, vì muốn khiến tất cả thế-giới-hải, tất cả Phật tự-tại được trang-nghiêm, vì muốn khiến trong tất cả kiếp-hải chủng-tánh Phật thường chẳng dứt, vì muốn khiến trong tất cả thế-giới-hải hiển thị tánh chơn thật của các pháp, vì muốn khiến tùy vô-lượng sự hiểu biết của chúng-sanh mà diễn-thuyết, vì muốn khiến tùy căn-hải của tất cả chúng-sanh mà phương-tiện làm cho sanh Phật-pháp, vì muốn tùy chỗ ưa thích của tất cả chúng-sanh mà dẹp phá tất cả núi chướng ngại, vì muốn khiến tùy tâm-hành tất cả chúng-sanh khiến tu-tập thanh-tịnh đạo xuất-yếu, vì muốn khiến tất cả Bồ-Tát an-trụ trong nguyện-hải Phổ-Hiền.

Lúc đó, Phổ-Hiền Bồ-Tát lại muốn khiến chúng hội đạo-tràng sanh lòng hoan-hỷ, thêm lớn sự ưa thích đối với tất cả pháp, sanh lòng tin rộng lớn chơn-thật thanh-tịnh pháp-giới-thân, an-lập nguyện-hải Phổ-Hiền tu tập vào trí nhãn tam thế bình-đẳng, thêm lớn trí-huệ chiếu khắp tất cả thế-gian, sanh đức đà-la-ni trì tất cả pháp-luận, và cũng muốn trong tất cả đạo-tràng tất cả Phật cảnh-giới đều khai-thị, mở bày tất cả pháp-môn của Như-Lai, thêm lớn tất cả trí-tánh pháp-giới rộng lớn rất sâu, liền nói kệ rằng :

Trí-huệ công-đức biển rất sâu

Hiện khắp mười phương vô-lượng cõi

Tùy các chúng-sanh chỗ nên thấy

Quang-minh soi khắp chuyển pháp-luân.

Thập phương quốc-độ bất-tư-nghì 

Phật vô-lượng kiếp đều nghiêm tịnh

Vì độ chúng-sanh khiến thành thục

Xuất hiện tất cả các quốc-độ.

Phật cảnh rất sâu khó nghĩ được

Khắp dạy chúng-sanh khiến được vào

Lòng họ thích nhỏ chấp hữu-lậu

Chẳng thông đạt được cảnh-giới Phật.

Nếu có lòng tin trong sạch chắc

Thường được gần gũi thiện-tri-thức

Tất cả chư Phật hộ niệm cho

Ðây mới được vào Như-Lai trí.

Lìa các dua dối lòng thanh-tịnh 

Thường thích từ-bi tánh hoan-hỷ 

Chí nguyện rộng lớn tin hiểu sâu

Kia nghe pháp này lòng vui đẹp.

An-trụ Phổ-Hiền những hạnh nguyện

Tu hành Bồ-tát đạo thanh-tịnh 

Quan-sát pháp-giới như hư-không 

Bèn biết được chỗ làm của Phật.

Chư Bồ-Tát đây được lợi lành

Thấy Phật tất cả thần-thông-lực

Tu những đạo khác không biết được

Học hạnh Phổ-Hiền mới tỏ ngộ.

Chúng-sanh rộng lớn vốn vô-biên

Như-Lai tất cả đều hộ-niệm

Chuyển chánh-pháp-luân khắp mọi nơi

Cảnh-giới Tỳ-Lô-Gía-Na Phật.

Tất cả cõi nước vào thân tôi

Chỗ chư Phật ngự cũng như vậy

Chúng nên xem các chân lông tôi

Nay tôi hiện bày cảnh-giới Phật.

Phổ-Hiền hạnh nguyện không ngằn mé

Tôi đã tu hành được đầy đủ

Cảnh-giới phổ-nhãn thân rộng lớn 

Là Phật chỗ làm phải nghe kỹ.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có mười việc mà chư Phật trong ba đời quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đã nói, hiện nói và sẽ nói.

Những gì là mười ?

Chính là nhơn-duyên khởi thế-giới-hải, chỗ trụ-nương của thế-giới-hải, hình-trạng của thế-giới-hải, thể-tánh của thế-giới-hải, sự trang-nghiêm của thế-giới-hải, sự thanh-tịnh của thế-giới-hải, Phật xuất hiện nơi thế-giới-hải, kiếp trụ của thế-giới-hải, kiếp chuyển biến sai biệt của thế-giới-hải, môn vô-sai-biệt của thế-giới-hải.

Chư Phật-tử ! Lược nói thế-giới-hải có mười việc này. Nếu nói rộng ra thời đồng với thế-giới-hải vi-trần-số mà tam-thế chư Phật đã nói, hiện nói và sẽ nói.

Chư Phật-tử ! Lược nói do mười thứ nhơn-duyên mà tất cả thế-giới-hải đã thành, hiện thành và sẽ thành. Chính là do vì thần-lực của Như-Lai, vì pháp phải như vậy, vì hạnh nghiệp của tất cả chúng-sanh, vì chỗ sở đắc của tất cả Bồ-Tát thành nhứt-thiết-trí, vì các chúng-sanh và chư Bồ-Tát đồng chứa nhóm thiện-căn, vì nguyện-lực nghiêm-tịnh Phật-độ của chư Bồ-Tát, vì hạnh-nguyện thành-tựu bất-thối của chư Bồ-Tát, vì thắng-giải tự-tại thanh-tịnh của chư Bồ-Tát, vì chỗ lưu-xuất do thiện-căn của chư Như-Lai và thế-lực tự-tại lúc chư Phật thành đạo, vì nguyện-lực tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Chư Phật-tử ! Ðó là lược nói mười thứ nhơn-duyên. Nếu rộng nói thời có thế-giới-hải vi-trần-số.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương mà nói kệ rằng :

Ðã nói vô-biên sát-độ-hải

Tỳ-Lô-Gía-Na đều nghiêm-tịnh

Thế-Tôn cảnh-giới bất-tư-nghì 

Trí-huệ thần-thông-lực như vậy.

Bồ-Tát tu hành những nguyện-hải

Khắp tùy chúng-sanh tâm chỗ muốn

Chúng-sanh tâm hạnh rộng vô-biên 

Bồ-Tát quốc-độ khắp mười phương 

Bồ-Tát thẳng đến nhứt-thiết-trí

Siêng tu các môn tự-tại-lực

Vô-lượng nguyện-hải khắp xuất sanh

Sát-độ rộng lớn đều thành-tựu.

Tu những hạnh-hải vô-lượng-biên

Vào cảnh-giới Phật cũng vô-lượng 

Thanh-tịnh thập phương các cõi nước

Mỗi mỗi cõi trải vô-lượng kiếp.

Chúng-sanh phiền-não làm loạn đục

Phân biệt ưa thích chẳng phải một

Tùy tâm tạo nghiệp bất-tư-nghì 

Tất cả sát-hải đầy thành lập.

Phật tử sát-hải tạng trang-nghiêm 

Ly-cấu quang-minh báu làm thành

Ðây do rộng lớn tâm tín hải

Chỗ ở mười phương đều như vậy.

Bồ-Tát hay tu hạnh Phổ-Hiền 

Du hành pháp-giới vi-trần đạo

Trong trần đều hiện vô-lượng cõi

Rộng lớn thanh-tịnh như hư-không.

Khắp cõi hư-không hiện thần-thông 

Ðều đến đạo-tràng chỗ chư Phật 

Trên tòa liên-hoa hiện các tướng

Mỗi thân bao trùm tất cả cõi.

Một niệm hiện khắp nơi tam-thế

Tất cả sát-hải đều thành lập

Phật dùng phương-tiện đều vào trong

Là Phật Tỳ-Lô chỗ nghiêm-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! mỗi mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần-số chỗ nương trụ. Hoặc nương tất cả trang-nghiêm mà trụ. Hoặc nương hư-không mà trụ. Hoặc nương bửu-quang-minh mà trụ. Hoặc nương bửu-sắc quang-minh mà trụ. Hoặc nương thinh-âm chư Phật mà trụ. Hoặc nương Kim-Cang hình đại-lực a-tu-la chúng-sanh như huyễn mà trụ. Hoặc nương thân các Thế-Chủ mà trụ. Hoặc nương thân chư Bồ-Tát mà trụ. Hoặc nương tất cả biển trang-nghiêm sai khác hạnh-nguyện Phổ-Hiền mà trụ.

Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có thế-giới vi-trần-số chỗ nương trụ như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng : 

Khắp cả mười phương cõi hư-không 

Chỗ có tất cả những quốc-độ 

Như-Lai thần-lực thường gia-trì

Khắp nơi hiện tiền đều thấy được.

Hoặc có các thứ những quốc-độ 

Ðều do ly-cấu-bửu làm thành

Ma-ni thanh-tịnh rất tốt xinh

Quang-minh sáng rỡ khắp hiển hiện.

Hoặc có cõi nước sáng thanh-tịnh 

Nương hư-không giới mà an-trụ 

Hoặc ở trong biển ma-ni bửu

Lại có an-trụ tạng quang-minh.

Như-Lai ở trong chúng hội này

Diễn thuyết pháp-luân đều xảo diệu

Cảnh-giới chư Phật rộng vô-biên 

Chúng-sanh được thấy lòng hoan hỷ.

Có cõi nghiêm-sức bằng ma-ni

Hình như đèn sáng giăng cùng khắp

Lửa thơm mây sáng màu chói rực

Lưới báu sáng chói dùng phủ che.

Hoặc có quốc-độ không ngằn mé

An-trụ liên-hoa biển lớn sâu

Rộng rãi thanh-tịnh khác thế-gian 

Chư Phật diệu-thiện trang-nghiêm đó.

Hoặc có quốc-độ theo luân chuyển

Do Phật oai-thần được an-trụ 

Ðại-chúng Bồ-Tát đều ở trong

Thường thấy vô-lượng báu rộng lớn.

Có cõi nước ở tay kim-cang

Hoặc cõi nước ở thân Thiên-Chúa

Tỳ-Lô-Gía-Na đấng vô-thượng

Thường ở cõi này chuyển pháp-luân.

Hoặc nương cây báu trụ bằng thẳng

Trong mây sáng thơm cũng như vậy

Có cõi nương trong những biển lớn

Hoặc trụ kim-cang rất bền chắc.

Có cõi nương-trụ kim-cang tràng

Có cõi trụ trong biển Hoa-Tạng

Thần biến rộng lớn khắp các nơi

Tỳ-Lô-Giá-Na Phật hay hiện.

Hoặc dài hoặc vắn vô-lượng thứ

Tướng đó xoay vần cũng chẳng đồng

Hoa-tạng trang-nghiêm khác thế-gian 

Tu hành thanh-tịnh mới thấy được.

Các cõi như vậy đều sai khác

Tất cả đều nương nguyện-hải trụ

Hoặc có cõi thường ở hư-không 

Chư Phật như mây đều đầy khắp.

Có ở hư-không lưới che trùm

Hoặc lúc hiện ra hoặc không hiện

Hoặc có cõi nước rất thanh-tịnh 

Trụ trong bửu-quan của Bồ-Tát.

Thập phương chư Phật thần-thông lớn

Tất cả đều hiện thấy trong đây

Chư Phật thinh âm đều cùng khắp

Ðây do nghiệp-lực mà hóa hiện.

Hoặc có cõi nước khắp pháp-giới 

Ly-cấu thanh-tịnh tùng tâm khởi

Như-ảnh như-huyễn rộng vô-biên 

Như lưới thiên-đế đều sai khác.

Hoặc hiện các thứ tạng trang-nghiêm 

Hoặc ở hư-không mà kiến-lập

Nghiệp-chơn cảnh-giới chẳng nghĩ bàn

Phật-lực hiển-thị đều khiến thấy.

Trong mỗi cõi nước số vi-trần 

Niệm niệm thị hiện những Phật-độ

Số đều vô-lượng khắp chúng-sanh 

Phổ-Hiền chỗ làm thường như vậy.

Vì muốn thành-thục các chúng-sanh 

Trong đây tu hành trải kiếp-hải

Thần-thông rộng lớn hiện khắp nơi

Trong các pháp-giới đều cùng khắp.

Pháp-giới quốc-độ mỗi vi-trần 

Những cõi nước lớn ở trong đó

Phật-vân bình-đẳng đều giăng che

Tất cả mọi nơi đều đầy đủ.

Lực dụng tự-tại trong mỗi trần

Tất cả vi-trần cũng như vậy

Chư Phật Bồ-Tát đại thần-thông 

Tỳ-Lô-Giá-Na đều hay hiện.

Tất cả quốc-độ rộng vô-biên 

Như ảnh, như huyễn như dương-diệm

Mười phương chẳng thấy từ đâu sanh

Cũng không có chỗ đi và đến.

Diệt hoại sanh thành xoay vần mãi

Trong cõi hư-không chẳng tạm dừng

Tất cả đều do nguyện thanh-tịnh 

Cũng do nghiệp lực chỗ giữ-gìn.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn, hoặc vuông, hoặc chẳng phải tròn vuông, hoặc hình như nước xoáy, hoặc hình như núi, hoặc hình như cây, hình như bông, hoặc hình như cung điện, như hình chúng-sanh, như hình Phật, có thế-giới vi-trần-số hình sai khác như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương, rồi nói kệ rằng : 

Vô-lượng quốc-độ sai khác nhau

Vô-lượng trang-nghiêm vô-lượng trụ

Hình trạng sai khác khắp mười phương 

Các ngài đều nên đồng quan-sát.

Hình kia hoặc tròn hoặc vuông vức

Hoặc có ba góc và tám cạnh

Hình châu ma-ni hình liên-hoa

Tất cả đều do nghiệp mà khác.

Có cõi thanh-tịnh sáng trang-nghiêm 

Vàng ròng xen lẫn nhiều tốt đẹp

Cửa nẻo mở trống không bít lấp

Ðây do nghiệp rộng ý tinh thuần.

Sát-hải vô-biên tạng sai khác

Ví như mây bủa giữa không gian

Bửu-châu trải đất trang-nghiêm tốt

Ở trong quang-minh sáng của Phật.

Tất cả quốc-độ tâm phân biệt

Quang-minh soi đến mà hiện ra 

Chư Phật ở trong những cõi ấy

Nơi nơi thị-hiện thần-thông-lực.

Có cõi tạp-nhiễm hoặc thanh-tịnh 

Chịu khổ hưởng vui đều sai khác

Ðây do biển nghiệp chẳng nghĩ bàn

Các pháp lưu-chuyển thường như vậy.

Trong một chân lông vô-lượng cõi

Như số-vi-trần mà an-trụ 

Mỗi cõi đều có đấng Thế-Tôn 

Ở trong chúng-hội tuyên diệu pháp.

Trong mỗi vi-trần cõi lớn nhỏ

Nhiều loại sai khác số vi-trần 

Bằng phẳng cao thấp đều chẳng đồng

Phật đều qua đến mà thuyết pháp.

Tất cả vi-trần hiện quốc-độ 

Ðều là bổn nguyện thần-thông-lực

Tùy lòng ưa thích sai khác nhau

Trong khoảng hư-không đều làm được.

Tất cả quốc-độ những vi-trần 

Trong mỗi vi-trần Phật đều nhập

Khắp vì chúng-sanh hiện thần-thông

Tỳ-Lô-Giá-Na pháp như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có các loại thể. Hoặc dùng tất cả bửu trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng một bửu-trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng tất cả bửu quang-minh làm thể. Hoặc dùng các thứ sắc quang-minh làm thể. Hoặc dùng tất cả quang-minh trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng kim-cang làm thể. Hoặc dùng Phật-lực nhiếp-trì làm thể. Hoặc dùng tướng diệu-bửu làm thể. Hoặc dùng Phật biến-hóa làm thể. Hoặc dùng nhựt ma-ni làm thể. Hoặc dùng cực-vi-trần bửu làm thể. Hoặc dùng tất cả bửu-diệm làm thể. Hoặc dùng các thứ hương làm thể. Hoặc dùng bửu-hoa-quan làm thể. Hoặc dùng bửu ảnh-ượng làm thể. Hoặc dùng trang-nghiêm thị-hiện làm thể. Hoặc dùng nhứt âm thị-hiện cảnh-giới làm thể. Hoặc dùng bửu hình Bồ-Tát làm thể. Hoặc dùng bửu-hoa-nhụy làm thể. Hoặc dùng ngôn-âm của Phật làm thể. Có thế-giới vi-trần số thể như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng : 

Hoặc có những quốc-độ 

Diệu-bửu hiệp lại thành

Bền chắc không hư-hoại

Ðều ở bửu-liên-hoa.

Hoặc là bửu-quang-minh 

Xuất-sanh chẳng biết được

Tất cả quang trang-nghiêm 

Nương hư-không mà ở.

Hoặc tịnh-quang làm thể

Lại nương quang-minh ở

Mây sáng làm trang-nghiêm 

Chỗ Bồ-Tát đi đến.

Hoặc có những quốc-độ 

Từ nơi nguyện-lực sanh

An-trụ như ảnh tượng

Ðem nói chẳng thể được.

Hoặc ma-ni hiệp-thành

Chói sáng như mặt trời

Bảo châu dùng trang-nghiêm 

Bồ-Tát đều đầy khắp.

Bửu-diệm thành quốc-độ 

Mây sáng trùm trên đó

Bửu-quang rất xinh đẹp

Ðều do nghiệp cảm nên.

Hoặc từ tướng tốt sanh

Các tướng trang-nghiêm đẹp

Như mão tốt đội đầu

Ðây do Phật hóa hiện.

Hoặc từ tâm niệm sanh

Tùy tâm chỗ hiểu biết 

Như huyễn không chỗ nơi

Tất cả là phân biệt.

Hoặc do Phật quang-minh 

Ma-ni-quang làm thể

Chư Phật hiện trong đó

Ðều thị-hiện thần-thông.

Hoặc Phổ-Hiền Bồ-Tát 

Hóa hiện các quốc-độ 

Dùng nguyện-lực trang-nghiêm 

Tất cả đều tốt đẹp.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! nên biết thế-giới-hải có nhiều loại trang-nghiêm. Hoặc dùng trong những đồ trang-nghiêm hiện ra mây đẹp nhứt để trang-nghiêm. Hoặc dùng thuyết-minh công-đức của chư Bồ-Tát để trang-nghiêm. Hoặc dùng thuyết minh nghiệp báo của tất cả chúng-sanh để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện nguyện-lực của chư Bồ-Tát để trang-nghiêm. Hoặc dùng biểu-thị ảnh-tượng của tam thế chư Phật để trang-nghiêm. Hoặc dùng trong một khoảng một niệm thị-hiện cảnh-giới thần-thông trải vô-biên kiếp để trang-nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện thân của chư Phật để trang-nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện tất cả mây hương báu để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện những vật trân diệu quang-minh chiếu sáng trong tất cả đạo-tràng để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện tất cả Phổ-Hiền hạnh nguyện để trang-nghiêm.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng : 

Sát-hải rộng lớn vô-lượng-biên

Thành nên đều do nghiệp thanh-tịnh 

Nhiều thứ trang-nghiêm nhiều nơi ở

Tất cả mười phương đều đầy khắp.

Vô-biên sắc tướng mây báu sáng 

Rộng lớn trang-nghiêm chẳng phải một

Mười phương sát-hải thường xuất hiện

Khắp dùng diệu-âm mà thuyết pháp.

Bồ-Tát vô-biên biển công-đức 

Những nguyện rộng lớn để trang-nghiêm 

Khắp cõi đồng thời vang diệu-âm

Chấn động mười phương các quốc-độ.

Chúng-sanh biển nghiệp rộng vô-lượng 

Tùy kia cảm báo đều chẳng đồng

Trong tất cả chỗ được trang-nghiêm 

Ðều do chư Phật hay diễn thuyết.

Tất cả Như-Lai trong ba thuở

Thần-thông hiện khắp thế-giới-hải

Trong mỗi sự có tất cả Phật 

Các ngài xem sự trang-nghiêm đó.

Quá-khứ, vị-lai, kiếp hiện-tại

Mười phương tất cả những quốc-độ 

Những sự trang-nghiêm ở nơi kia

Ðều thấy ở trong một cõi nước.

vô-lượng Phật trong tất cả sự

Số đồng chúng-sanh khắp thế-gian 

Vì khiến điều-phục hiện thần-thông 

Dùng đây trang-nghiêm thế-giới-hải.

Tất cả trang-nghiêm tuôn mây đẹp

Nhiều thứ mây hoa mây hương sáng

Mây báu ma-ni thường xuất hiện

Sát-hải dùng đây để trang-nghiêm.

Mười phương những nơi Phật thành-đạo

Các thứ trang-nghiêm đều đầy đủ

Phóng-quang chiếu xa như mây sáng

Trong thế-giới-hải đều khiến thấy.

Phổ-Hiền hạnh-nguyện chư Bồ-Tát 

Vô-biên kiếp hải siêng tu tập 

Vô-biên quốc-độ đều trang-nghiêm 

Trong tất cả chỗ đều hiển hiện.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số môn phương-tiện thanh-tịnh. Chính là do thiện-căn của chư Bồ-Tát gần gũi thiện-trí-thức. Do thêm lớn những công-đức khắp pháp-giới. Do tu-tập những thắng-giải rộng lớn. Do quan-sát cảnh-giới của tất cả Bồ-Tát mà an-trụ. Do tu-tập những môn ba-la-mật đều viên-mãn. Do quán-sát những địa-vị của chư Bồ-Tát mà nhập trụ. Do xuất sanh tất cả thệ nguyện thanh-tịnh. Do tu-tập những hạnh xuất-yếu. Do nhập tất cả biển trang-nghiêm. Do thành-tựu sức phương-tiện thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng : 

Tất cả cõi nước những trang-nghiêm 

Do nguyện lực phương-tiện sanh ra

Tất cả quốc-độ thường chói sáng

Vô-lượng nghiệp thanh-tịnh hiện thành.

Bồ-Tát lâu xa gần trí-thức

Ðồng tu nghiệp lành đều thanh-tịnh

Từ-bi rộng lớn khắp chúng-sanh 

Dùng dây trang-nghiêm các quốc-độ.

Tất cả pháp-môn những tam-muội 

Thiền-định giải-thoát môn phương-tiện 

Nơi chỗ chư Phật đều tu hành

Do đây sanh ra những quốc-độ.

Phát sanh vô-lượng trí thắng-giải

Hiểu được Như-Lai đồng không khác

Phương-tiện nhẫn nhục đã tu hành

Nên nghiêm-tịnh được vô-biên cõi.

Vì lợi chúng-sanh tu thắng hạnh

Phước-đức rộng lớn thường tăng-trưởng

Ví như mây bủa khắp hư-không 

Tất cả quốc-độ đều thành-tựu.

Môn ba-la-mật nhiều vô-lượng 

Ðều đã tu hành khiến đầy đủ

Nguyện ba-la-mật vô-cùng tận

Quốc-độ thanh-tịnh từ đây sanh.

Những pháp vô-thượng đều tu hành 

Sanh ra vô-biên hạnh xuất-yếu

Nhiều môn phương-tiện độ chúng-sanh 

Như vậy trang-nghiêm các quốc-độ.

Tu-tập trang-nghiêm môn phương-tiện 

Chứng Phật công-đức biển pháp-môn 

Khiến khắp chúng-sanh cạn nguồn khổ

Cõi nước rộng lớn đều thành tựu.

Nguyện lực rộng lớn không gì sánh

Khiến khắp chúng-sanh gieo thiện căn

Cúng-dường tất cả chư Như-Lai 

Vô-biên quốc-độ đều thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết mỗi mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số Phật xuất hiện sai khác : hoặc hiện thân nhỏ, hoặc hiện thân lớn, hoặc hiện đoản-thọ, hoặc hiện trường-thọ, hoặc chỉ nghiêm-tịnh một quốc-độ, hoặc hiện nghiêm-tịnh vô-lượng quốc-độ, hoặc chỉ hiển thị pháp nhứt-thừa, hoặc hiển thị vô-lượng thừa, hoặc hiện điều-phục thiểu số chúng-sanh, hoặc hiện điều-phục vô-biên chúng-sanh, có vi-trần số sai khác như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-lực của Phật quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng : 

Chư Phật có các môn phương-tiện 

Xuất hiện tất cả những quốc-độ 

Ðều tùy sở thích của chúng-sanh 

Ðây là Như-Lai quyền-lực khéo.

Pháp-thân chư Phật bất-tư-nghì 

Không sắc, không hình, không ảnh tượng

Vì chúng-sanh hiện tướng sai khác

Theo lòng họ ưa khiến họ thấy.

Hoặc vì chúng-sanh hiện đoản-thọ

Hoặc hiện trường-thọ vô-lượng kiếp

Pháp thân mười phương khắp hiện-tiền

Trong thế-gian tùy nghi xuất hiện.

Hoặc hiện nghiêm-tịnh bất-tư-nghì 

Mười phương vô-biên các quốc-độ 

Hoặc chỉ nghiêm-tịnh một cõi nước

Nơi một thị-hiện đủ không sót.

Hoặc tùy sở thích của chúng-sanh 

Thị-hiện vô-lượng vô-biên thừa 

Hoặc chỉ tuyên-thuyết pháp nhứt thừa

Trong một thừa hiện vô-lượng pháp.

Hoặc hiện tự nhiên thành chánh-giác

Ðộ thiểu số người vào chánh-pháp

Hoặc lại thị-hiện trong một niệm

Khai ngộ quần-sanh vô-lượng số.

Hoặc nơi chưn lông tuôn mây sáng

Thị-hiện vô-lượng vô-biên Phật 

Tất cả thế-gian đều hiện thấy

Các môn phương-tiện độ quần-sanh.

Hoặc hiện thinh âm khắp mọi nơi

Tùy lòng họ ưa mà thuyết pháp

Vô-lượng vô-biên những đại kiếp

Ðiều-phục vô-lượng các chúng-sanh.

Phật có vô-lượng cõi trang-nghiêm 

Chúng-hội thanh-tịnh ngồi nghiêm chỉnh

Phật như vầng mây che trong đó

Thập phương quốc-độ đều đầy khắp.

Chư Phật phương-tiện bất-tư-nghì 

Tùy tâm chúng-sanh hiện ra trước

Ngự trong các cõi rất trang-nghiêm 

Tất cả quốc-độ đều cùng khắp.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần-số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp-trụ, hoặc có vô-biên kiếp-trụ, hoặc có vô-đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ-kiếp trụ, hoặc có bất-khả-xung-kiếp trụ, hoặc có bất-khả-tư kiếp trụ, hoặc có bất-khả-lượng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp trụ, có vi-trần số kiếp trụ như vậy. 

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng : 

Trong thế-giới-hải nhiều kiếp trụ

Phương-tiện rộng lớn để trang-nghiêm 

Mười phương cõi nước đều xem thấy

Số lượng sai khác đều rành rẽ.

Tôi thấy mười phương thế-giới-hải

Kiếp số vô-lượng đồng chúng-sanh 

Hoặc dài hoặc vắn hoặc vô-biên 

Dùng Phật thinh âm nay diễn nói.

Hoặc thấy mười phương những quốc-độ 

Hoặc trụ quốc-độ vi-trần kiếp

Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số

Bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng.

Hoặc có thuần tịnh hoặc thuần nhiễm

Hoặc lại nhiễm tịnh chung lộn lạo

Nguyện-lực an lập nhiều sai khác

Trong tâm chúng-sanh mà an-trụ.

Thuở xưa tu hành vi-trần kiếp

Ðược thế-giới-hải thanh-tịnh lớn

Cảnh-giới chư Phật đều trang-nghiêm 

Trụ mãi vô-biên kiếp rộng lớn

Dùng bửu quang-minh để đặt tên

Hoặc tên Ðẳng-Âm-Diệm-Nhãn-Tạng

Tên Ly-Quang-Minh và Hiền-Kiếp

Kiếp thanh-tịnh này nhiếp tất cả.

Có kiếp thanh-tịnh một Phật hiện

Hoặc trong một kiếp nhiều Phật hiện

Vô-tận phương-tiện đại-nguyện-lực

Vào trong tất cả thời gian kiếp.

Hoặc vô-lượng kiếp và một kiếp

Hoặc lại một kiếp vào nhiều kiếp

Tất cả kiếp hải phương-tiện môn

Thập phương quốc-độ đều hiện rõ.

Hoặc tất cả kiếp sự trang-nghiêm 

Ở trong một kiếp đều hiện thấy

Hoặc sự trang-nghiêm trong một kiếp

Vào khắp tất cả vô-biên kiếp.

Trước từ một niệm sau thành kiếp

Sanh ra đều do tâm chúng-sanh 

Tất cả quốc-độ kiếp vô-biên 

Dùng một phương-tiện đều thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số kiếp chuyển biến sai khác. Như là vì pháp như vậy nên thế-giới-hải có vô-lượng kiếp thành, kiếp hoại chuyển biến. Vì chúng-sanh nhiễm-ô ở nên thế-giới-hải thành kiếp nhiễm-ô chuyển biến. Vì chúng-sanh tu phước rộng lớn ở, nên thế-giới-hải thành kiếp nhiễm-tịnh chuyển biến. Vì tín-giải Bồ-Tát ở, nên thế-giới-hải thành-kiếp nhiễm-tịnh chuyển-biến. Vì vô-lượng chúng-sanh phát bồ-đề-tâm nên thế-giới-hải thuần kiếp thanh-tịnh chuyển biến. Vì thập phương tất cả chư Bồ-Tát vân tập nên thế-giới-hải vô-lượng kiếp đại trang-nghiêm chuyển biến. Vì chư Phật Thế-Tôn nhập Niết-bàn nên thế-giới-hải kiếp trang-nghiêm diệt chuyển biến. Vì chư Phật xuất hiện ra đời nên tất cả thế-giới-hải kiếp rộng lớn trang-nghiêm thanh-tịnh chuyển biến. Vì Như-Lai thần-thông biến hóa nên thế-giới-hải kiếp thanh-tịnh chuyển biến. Có vi-trần số kiếp chuyển biến như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười-phương mà nói kệ rằng : 

Tất cả những quốc-độ 

Ðều tùy nghiệp-lực sanh

Các ngài nên quan-sát 

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng-sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền-não đáng sợ

Tâm họ khiến quốc-độ 

Tất cả thành nhiễm ô.

Nếu có tâm thanh-tịnh 

Tu những hạnh phước-đức 

Tâm họ khiến quốc-độ 

Tạp nhiễm và thanh-tịnh.

Chư Bồ-Tát tín-giải

Sanh vào trong kiếp kia

Tùy tâm Bồ-Tát này

Quốc-độ đủ tịnh nhiễm.

Vô-lượng số chúng-sanh 

Ðều phát bồ-đề tâm 

Tâm họ khiến quốc-độ 

Trụ kiếp thường thanh-tịnh.

Vô-lượng ức Bồ-Tát 

Qua đến mười phương cõi

Trang-nghiêm không có khác

Trong kiếp thấy sai khác.

Trong mỗi mỗi vi-trần 

Bồ-Tát đồng vân tập

Quốc-độ đều thanh-tịnh.

Thế-Tôn nhập Niết-bàn 

Cõi đó dứt trang-nghiêm 

Chúng-sanh không pháp-khí

Thế-giới thành tạp-nhiễm.

Nếu có Phật ra đời

Cõi nước đều tốt đẹp

Tùy theo tâm thanh-tịnh 

Ðầy đủ sự trang-nghiêm.

Thần-thông của chư Phật 

Thị-hiện bất-tư-nghì 

Lúc đó những quốc-độ 

Tất cả đều thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số sai biệt. Như là trong mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số thế-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chư Phật xuất hiện oai-đức thần-lực vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải tất cả đạo-tràng khắp thập phương pháp-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải quang-minh của chư Phật khắp pháp-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chúng hội đạo-tràng của chư Phật vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chư Phật biến hóa danh-hiệu vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải thinh-âm của chư Phật khắp thế-giới-hải vô-biên kiếp trụ vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải pháp-luân phương-tiện vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải tất cả thế-giới-hải vào khắp một vi-trần vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải mỗi vi-trần cảnh-giới rộng lớn của tất cả tam thế chư Phật đều hiện trong đó vô-sai-biệt. Có vi-trần số vô-sai-biệt như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng : 

Trong một vi-trần nhiều sát-hải

Chỗ nơi riêng khác đều nghiêm-tịnh

Vô-lượng như vậy và một cõi

Mỗi mỗi chia khác không xen tạp.

Trong mỗi vi-trần vô-lượng Phật 

Tùy tâm chúng-sanh khắp hiện-tiền

Tất cả quốc-độ đều cùng khắp

Phương-tiện như vậy vô-sai-biệt.

Trong mỗi vi-trần những thọ vương

Nhiều thứ trang-nghiêm đều thòng rủ

Thập phương quốc-độ đều đồng hiện

Tất cả như vậy vô-sai-biệt.

Trong mỗi trần có vị-trần chúng

Cùng nhau bao quanh đức Thế-Tôn 

Siêu-việt tất cả khắp thế-gian 

Cũng chẳng chật hẹp tạp loạn nhau.

Trong mỗi trần có vô-lượng quang

Chiếu khắp mười phương các cõi nước

Ðều hiện chư Phật hạnh bồ-đề 

Tất cả sát-độ vô-sai-biệt.

Trong mỗi trần có vô-lượng thân

Biến hóa như mây đều cùng khắp

Phật dùng thần-thông độ chúng-sanh 

Thập phương quốc-độ vô-sai-biệt.

Trong mỗi trần diễn nói các pháp

Pháp đó thanh-tịnh như luân chuyển

Các môn phương-tiện đều tự-tại 

Tất cả diễn thuyết vô-sai-biệt.

Một trần diễn khắp tiếng chư Phật 

Ðầy khắp pháp-khí các chúng-sanh 

Trụ khắp sát-hải vô-biên kiếp

Thinh-âm như vậy cũng không khác.

Sát-hải vô-lượng trang-nghiêm đẹp

Trong mỗi vi-trần tam-thế Phật 

Tùy chỗ sở-thích đều khiến thấy

Thể-tánh không đến cũng không đi

Do nơi nguyện-lực khắp thế-gian.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27190)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21780)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22247)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23622)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20437)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20060)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21954)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19015)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24789)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31004)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27783)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26548)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21361)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23243)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38165)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18811)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19999)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19059)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23189)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23903)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22834)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22942)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29603)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20653)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18729)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15856)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18871)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19701)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20174)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19965)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22980)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34201)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16440)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16941)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39281)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26113)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20120)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18868)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24089)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29163)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22915)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30982)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21027)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26874)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20691)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26276)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23349)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24699)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30054)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20421)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23923)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant