Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13905)
14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM TU DI SƠN ÐẢNH KỆ TÁN
THỨ MƯỜI BỐN

Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, từ ngoài trăm phật-sát vi-trần-số quốc-độ, mười-phương đều có một đại Bồ-Tát, mỗi vị đều cùng một phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng vân tập đến. Mười đại Bồ-Tát là : Pháp-Huệ Bồ-Tát, Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, Thắng-Huệ Bồ-Tát, Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát, Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát, Trí-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát, Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát, Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát. Cõi nước của các ngài theo thứ-tự là : Nhơn-Ðà-La-Hoa thế-giới, Ba-Ðầu-Ma-Hoa thế-giới, Bửu-Hoa thế-giới, Ưu-Bát-La-Hoa thế-giới, Kim-Cang-Hoa thế-giới, Diệu-Hương-Hoa thế-giới, Duyệt-Ý-Hoa thế-giới, A-Lô-Hoa thế-giới, Na-La-Ðà-Hoa thế-giới, Hư-Không-Hoa thế-giới. Chư Phật ngự trị nơi đó theo thứ tự là : Thù-Ðặc-Nguyệt-Phật, Vô-Tận-Nguyệt Phật, Bất-Ðộng-Nguyệt Phật, Phong-Nguyệt Phật, Thủy-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Nguyệt Phật, Tinh-Tú-Nguyệt Phật, Thanh-Tịnh-Nguyệt Phật, Minh-Liễu-Nguyệt Phật.

Chư Bồ-Tát này đến đảnh-lễ chơn Phật, rồi tùy phương đến, đều riêng hóa hiện tòa sư-tử Tỳ-lô-giá-na-tạng mà ngồi kiết-già trên đó.

Như chư Bồ-Tát vân tập đến đảnh núi Tu-Di nơi thế-giới này, thập-phương thế-giới cũng đều như thế cả, đến danh hiệu, quốc-độ và chư Phật cũng đồng.

Lúc đó đức Thế-Tôn, từ nơi các ngón của hai chưn phóng trăm ngàn ức quang-minh màu đẹp chiếu khắp trong cung của Ðế-Thích ở mười phương thế-giới, Phật và đại-chúng đều hiển hiện cả.

Pháp Huệ Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Phật phóng tịnh quang-minh

Thấy khắp tất cả Phật

Ðảnh núi Tu-Di-Vương

Ở trong điện Diệu-Thắng.

Tất cả Thiên-Ðế-Thích

Thỉnh Phật vào cung-điện

Ðều nói mười kệ hay

Ca ngợi chư Như-Lai.

Trong các đại hội ấy

Bao nhiêu chúng Bồ-Tát

Ðều từ mười-phương đến

Hóa tòa mà an-tọa.

Bồ-Tát trong hội đó

Danh hiệu đồng chúng tôi,

Những cõi từ đó đến

Danh-tự cũng vẫn đồng;

Bổn-quốc chư Như-Lai

Hồng-danh đều cũng đồng,

Bồ-Tát nơi bổn Phật

Tịnh tu hạnh vô-thượng.

Ðại chúng nên quan-sát

Như-Lai tự-tại-lực

Tất cả Diêm-Phù-Ðề

Ðều nói Phật tại đấy.

Chúng tinh-tấn nay thấy Phật

Trụ nơi đảnh Tu-Di

Thập-phương cũng như vậy

Như-Lai tự-tại-lực.

Trong mỗi mỗi thế-giới

Phát tâm cầu phật-đạo

Nương nơi nguyện như vậy

Tu tập hạnh bồ-đề.

Phật dùng nhiều thân hình

Du hành khắp thế-gian

Pháp-giới không chướng ngại

Không ai trắc lượng được.

Huệ-quang hằng chiếu khắp

Ðời tối đều trừ diệt,

Tất cả không sánh bằng

Thế nào lường biết được !

Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của đức Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Giả-sử trăm ngàn kiếp

Thường thấy đức Như-Lai

Chẳng y chơn-thật nghĩa

Mà quán đấng Cùu-Thế,

Người này chấp lấy tướng

Thêm lớn lưới mê lầm

Giam trói ngục sanh tử

Ðui mù, chẳng thấy Phật.

Quan-sát nơi các pháp

Ðều không có tự-tánh

Tướng nó, vốn sanh-diệt

Chỉ là danh thuyết giả.

Tất cả pháp vô-sanh

Tất cả pháp vô-diệt

Nếu hiểu được như vậy

Chư Phật thường hiện tiền.

Pháp-tánh vốn không tịch

Vô-thủ, cũng vô-kiến

Tánh không, tức là Phật

Chẳng thể nghĩ lường được.

Nếu biết tất cả pháp

Thể tánh đều như vậy

Người này thời chẳng bị

Phiền-não làm nhiễm trước.

Phàm phu thấy các pháp

Chỉ chuyển theo tướng giả

Chẳng rõ pháp vô-tướng

Do đây chẳng thấy Phật.

Ðức Phật lìa ba thời

Các tướng đều đầy đủ

Trụ nơi vô-sở-trụ

Cùng khắp mà bất-động.

Tôi quán tất cả pháp

Thảy đều được rõ ràng

Nay thấy đức Như-Lai

Quyết-định không nghi ngờ.

Pháp-Huệ trước đã nói

Như-Lai chơn-thiệt tánh,

Tôi từ đó rõ biết

Bồ-đề khó nghĩ bàn.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Như-Lai đại trí-huệ

Hi-hữu không sánh bằng

Tất cả những thế-gian

Tư-duy chẳng đến được.

Phàm-phu vọng quan-sát

Chấp tướng chẳng đúng lý

Phật lìa tất cả tướng

Chẳng phải họ biết được.

Kẻ vô-tri mê lầm

Vọng chấp tướng ngũ-uẩn

Chẳng biết chơn-tánh kia

Người này chẳng thấy Phật.

Rõ biết tất cả pháp

Ðều không có tự-tánh

Hiểu pháp-tánh như vậy

Thời thấy Lô-Xá-Na.

Vì do tiền-ngũ-uẩn

Có hậu-uẩn tương-tục

Rõ biết nơi tánh này

Thấy Phật khó nghĩ bàn.

Ví như báu trong tối

Không đèn thời chẳng thấy

Phật-pháp không người nói

Dầu huệ chẳng biết được.

Cũng như mắt bị lòa

Chẳng thấy màu xinh đẹp

Như vậy tâm bất-tịnh

Chẳng thấy các phật-pháp.

Lại như mặt trời sáng

Kẻ mù không thấy được

Tâm không có trí-huệ

Trọn chẳng thấy chư Phật.

Nếu chữa hết bịnh lòa

Bỏ lìa lòng tưởng sắc

Chẳng thấy nơi các pháp

Thời thấy được Như-Lai.

Nhứt-Thiết-Huệ đã nói

Chư Phật Bồ-Ðề pháp

Tôi nghe lời ngài nói

Ðược thấy Lô-Xá-Na.

Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Các pháp không chơn-thật

Vọng chấp là chơn-thật

Cho nên các phàm-phu

Luân-hồi ngục sanh-tử.

Nơi ngôn từ thuyết pháp

Tiểu trí vọng phân-biệt

Vì thế sanh chướng-ngại

Chẳng rõ được tự-tâm.

Chẳng rõ được tự-tâm

Ðâu biết được chánh-đạo

Họ do huệ điên-đảo

Thêm lớn mọi điều ác.

Chẳng thấy các pháp không

Hằng thọ khổ sanh-tử

Người này chưa có được

Pháp-nhãn thanh-tịnh vậy.

Xưa kia tôi thọ khổ

Vì tôi chẳng thấy Phật,

Nên phải tịnh pháp-nhãn

Xem kia chỗ đáng thấy.

Nếu được thấy nơi Phật

Thời tâm không chấp lấy

Người này thời thấy được

Pháp của Phật đã biết.

Nếu thấy Phật chơn-pháp

Thời gọi bực đại-trí

Người này có tịnh-nhãn

Hay quan-sát thế-gian.

Không thấy chính là thấy

Hay thấy tất cả pháp

Nơi pháp nếu có thấy

Ðây thời là không thấy.

Tất cả các pháp-tánh

Không sanh cũng không diệt

Lạ thay đấng Ðạo-Sư

Tự-giác hay giác-tha.

Ngài Thắng-Huệ đã nói

Pháp của Như-Lai ngộ

Chúng tôi nghe Ngài nói

Biết được Phật chơn-tánh.

Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu trụ nơi phân-biệt

Thời hư thanh-tịnh nhãn

Thêm ngu-si, tà-kiến

Trọn chẳng thấy được Phật.

Nếu rõ được tà-pháp

Như thiệt chẳng điên-đảo,

Biết vọng vốn tự chơn

Thấy Phật thời thanh-tịnh.

Có thấy, thời là nhơ

Ðây thời chưa phải thấy

Xa lìa các kiến chấp

Như vậy mới thấy Phật.

Pháp ngôn-ngữ thế-gian

Chúng-sanh vọng phân-biệt

Biết thế đều vô-sanh

Mới là thấy thế-gian.

Nếu thấy 'thấy thế-gian'

'Thấy' là tướng thế-gian

Như thiệt đồng không khác

Ðây gọi người chơn-kiến.

Nếu thấy đồng không khác

Nơi vật chẳng phân-biệt

Thấy này lìa phiền-não

Vô-lậu được tự-tại.

Chỗ chư Phật khai thị

Tất cả pháp phân-biệt

Ðây đều chẳng thể được

Vì pháp-tánh thanh-tịnh.

Pháp-tánh vốn thanh-tịnh

Vô-tướng như hư-không

Tất cả không năng thuyết

Người trí quán như vậy.

Xa lìa nơi pháp-tưởng

Chẳng thích tất cả pháp

Ðây cũng không chỗ tu

Thấy được Ðại-Mâu-Ni.

Như ngài Ðức-Huệ nói

Ðây gọi là thấy Phật;

Chỗ có tất cả hạnh

Thể-tánh đều tịch-diệt.

Lúc đó Thiện-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Hi-hữu đại dũng-kiện

Vô-lượng chư Như-Lai

Ly-cấu tâm giải-thoát

Tự độ hay độ người.

Tôi thấy Thế-gian-Ðăng

Như thật chẳng điên-đảo

Như trong vô-lượng kiếp

Bực đủ trí chỗ thấy.

Tất cả hạnh phàm-phu

Ðều mau về diệt tận

Tánh nó như hư-không

Nên nói là vô-tận.

Người trí nói vô-tận

Ðây cũng không chỗ nói.

Vì tự-tánh vô-tận

Ðược có nan-tư tận.

Trong chỗ nói vô-tận

Không chúng-sanh được có

Biết chúng-tánh như vậy

Thời thấy Ðại-Danh-Xưng.

Không thấy nói là thấy

Vô-sanh nói chúng-sanh

Hoặc thấy, hoặc chúng-sanh

Rõ biết không thể-tánh.

Năng-kiến cùng sở-kiến

Kiến-giả đều khiển trừ,

Chẳng hoại nơi chơn-pháp

Người này rõ biết Phật.

Nếu người rõ biết Phật

Và pháp của Phật nói

Thời hay chiếu thế-gian

Như Phật Lô-Giá-Na.

Chánh-giác khéo khai thị

Ðạo một pháp thanh-tịnh,

Ðại-Sĩ tinh-tấn huệ

Diễn nói vô-lượng pháp.

Hoặc có hoặc không có

Tưởng niệm này đều trừ

Như thế thấy được Phật

An-trụ nơi thiệt-tế.

Lúc đó Trí-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Tôi nghe pháp tối-thắng

Liền sanh trí-huệ quang

Chiếu khắp mười-phương cõi

Ðều thấy tất cả Phật.

Trong đây không chút vật

Chỉ có danh-tự giả

Nếu chấp có ngã nhơn

Thời là vào đường hiểm.

Những phàm-phu chấp trước

Chấp thân là thiệt có

Phật chẳng phải sở-thủ

Họ trọn chẳng thấy được.

Người này không huệ-nhãn

Chẳng thể thấy được Phật

Ở trong vô-lượng kiếp

Lưu chuyển biển sanh-tử.

Hữu-tránh nói sanh-tử

Vô-tránh là niết-bàn

Sanh-tử và niết-bàn

Cả hai chẳng nói được.

Nếu theo danh-tự giả

Chấp lấy hai pháp này

Người này không đúng thật

Chẳng biết Phật diệu-đạo.

Nếu móng tưởng như vầy :

'Ðây Phật, đây tối-thắng'

Ðiên-đảo chẳng phải thật

Chẳng thấy được Chánh-giác.

Biết được thật thể này

Tướng chơn-như tịch-diệt

Thời thấy đấng Chánh-Giác

Vượt khỏi đường ngữ-ngôn.

Ngôn ngữ nói các pháp

Chẳng hiển được thiệt-tướng

Bình-đẳng mới thấy được

Như pháp, Phật cũng vậy.

Thời quá-khứ chư Phật

Vị-lai và hiện-tại

Dứt hẳn gốc phân-biệt

Thế nên gọi là Phật.

Chơn-Thật-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Thà thọ khổ địa-ngục

Ðược nghe hồng-danh Phật

Chẳng thích vô-lượng vui

Mà chẳng nghe danh Phật.

Sở-dĩ nơi thời xưa

Chịu khổ vô-số kiếp

Lưu chuyển trong sanh-tử

Vì chẳng nghe danh Phật.

Với pháp chẳng điên-đảo

hiện chứng như thật

Lìa các tướng hòa hiệp

Gọi là Vô-Thượng-Giác.

Hiện chẳng phải hòa hiệp

Khứ, lai cũng như vậy

Tất cả pháp vô-tướng

Ðây là chơn-thể Phật.

Nếu quán được như vậy

Các pháp nghĩa thậm-thâm

Thời thấy tướng chơn thật

Pháp-thân của chư Phật.

Nơi thật thấy chơn-thật

Chẳng thật thấy chẳng thật

Hiểu rốt ráo như vậy

Cho nên gọi là Phật.

Phật-pháp chẳng giác được

Rõ đây gọi 'giác pháp'

Chư Phật tu như vậy

Một pháp bất-khả-đắc.

Biết do một nên nhiều

Biết do nhiều nên một

Các pháp không chỗ tựa

Chỉ do hòa hiệp khởi.

Không năng-tác, sở-tác

Chỉ từ nghiệp tưởng sanh

Tại sao biết như vậy

Vì khác đây không có.

Tất cả pháp vô-trụ

Ðịnh-xứ bất-khả-đắc

Chư Phật trụ nơi đây

Rốt ráo không dao động.

Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Ðấng đại-thừa vô-thượng

Xa lìa tưởng chúng-sanh

Không có ai hơn được

Nên hiệu là Vô-Thượng.

Chỗ chư Phật đã được

Vô-tác, vô-phân-biệt

Thô-thần-thông vô-sở-hữu

Vi-tế cũng như vậy.

Cảnh chư Phật sở-hành

Trong đó không có số

Là chơn-pháp của Phật.

Như-Lai quang chiếu khắp

Diệt trừ những tối-tăm

Quang này chẳng có chiếu

Cũng chẳng phải không chiếu.

Nơi pháp không chỗ chấp

Không niệm cũng không nhiễm

Không trụ không xứ sở

Chẳng hoại nơi pháp-tánh.

Trong đây không có hai

Cũng lại không có một

Bực đại-trí thấy đúng

Kheó an-trụ thật lý.

Trong không, không có hai

Không hai cũng như vậy

Tam-giới tất cả không

Là chỗ thấy chư Phật.

Phàm-phu không hay biết

Phật khiến trụ chánh-pháp

Các pháp vô-sở-trụ

Ngộ đây thấy tự thân.

Chẳng thân mà nói thân

Chẳng khởi mà hiện khởi

Không thân cũng không thấy

Là Phật-thân vô-thượng.

Như ngài Thật-Huệ nói

Chư Phật diệu pháp-tánh

Nếu người nghe pháp này

Sẽ được thanh-tịnh-nhãn.

Lúc đó Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Vĩ-đại ! quang-minh lớn

Bực vô-thượng dũng kiện

Vì lợi ích quần-sanh

xuất hiện thế-gian.

Phật dùng tâm đại-bi

Quan-sát khắp chúng-sanh

Thấy ở trong ba cõi

Luân-hồi thọ nhiều khổ.

Chỉ trừ đấng Chánh-Giác

Ðấng Ðạo-Sư đủ sức

Tất cả các Trời Người

Không ai cứu hộ được.

Nếu chư Phật Bồ-Tát

Chẳng xuất hiện thế-gian

Thời không một chúng-sanh

Có thể được an-lạc.

Như-Lai đẳng-chánh-giác

Và các chúng Thánh Hiền

Xuất hiện ở thế-gian

Cho chúng-sanh được vui.

Nếu ai thấy Như-Lai

Vì được lợi hành lớn

Nghe hiệu Phật sanh tin

Thời là tháp thế-gian.

Chúng tôi thấy Như-Lai

Vì được lợi ích lớn

Nghe diệu-pháp như vậy

Ðều sẽ thành Phật-đạo.

Chư Bồ-Tát quá-khứ

Do thần-lực của Phật

Ðược huệ-nhãn thanh-tịnh

Rõ cảnh-giới chư Phật.

Nay thấy Lô-Xá-Na

Càng thêm thanh-tịnh-tính

Phật-trí không ngằn mé

Diễn thuyết chẳng thể hết.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thảy

Và tôi Kiên-Cố-Huệ

Trong vô-số ức kiếp

Cũng nói chẳng thể hết.

 

************************

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29911)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27205)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21794)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22261)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23642)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20467)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20072)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21960)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24780)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24795)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24014)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27792)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26558)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21380)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38181)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18817)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18450)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20010)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19066)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23207)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23918)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22845)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22956)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29619)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20656)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18737)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15865)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19708)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20186)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19973)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18146)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34205)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16444)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16946)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39299)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26119)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20131)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18880)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24099)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29176)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22926)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30992)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21044)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26885)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20702)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26288)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23356)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19840)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24703)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30056)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20247)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20437)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15165)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15849)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23931)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant