Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 1

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 19818)
Trang 1

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HIỀN THỦ
THỨ MƯỜI HAI

Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói hạnh thanh-tịnh không trược loạn đại công-đức rồi, vì muốn hiển-thị công-đức của bồ-đề tâm, nên nói kệ hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát :

Nay tôi đã vì chư Bồ-Tát

Nói hạnh thanh-tịnh Phật đã tu

Ngài cũng nên ở trong hội này

Diễn đạt tu hành công-đức lớn.

Lúc đó Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp :

Lành thay xin ngài lóng nghe đây

Những công-đức đó chẳng lường được

Nay tôi tùy sức, nói ít phần

Như một giọt nước trong biển lớn.

Nếu có Bồ-Tát sơ phát tâm

Thệ cầu sẽ chứng Phật bồ-đề

Công-đức của kia không ngằn mé

Không thể cân lường, chẳng gì sánh.

Huống là vô-lượng vô-biên kiếp

Tu đủ địa, độ, các công-đức

Mười phương tất cả chư Như-Lai

Ðều cùng ngợi khen chẳng hết được.

Vô-biên công-đức lớn như vậy

Nay tôi trong đây nói ít phần

Ví như chân chim vạch không gian

Và như hạt bụi trên đại địa.

Bồ-Tát phát tâm cầu bồ-đề

Chẳng phải không nhơn, không có duyên

Với Phật, Pháp, Tăng khởi lòng tin

Do đây mà sanh tâm rộng lớn.

Chẳng cầu ngũ dục và ngôi vua

Chẳng mong giàu, vui, danh tiếng lớn

Chỉ vì dứt hẳn khổ chúng-sanh

Lợi ích thế-gian mà phát ý.

Thường muốn lợi lạc các chúng-sanh

Trang-nghiêm cõi nước, cúng-dường Phật

Thọ trì chánh-pháp, tu trí-huệ

Vì chứng bồ-đề mà phát tâm.

Thâm tâm, tin, hiểu thường thanh-tịnh

Cung kính, tôn trọng tất cả Phật

Nơi Pháp và Tăng cũng như vậy

Chí-thành cúng-dường mà phát tâm.

Thâm tín nơi Phật và phật-pháp

Cũng tin phật-tử đạo tu hành

Và tin vô-thượng đại bồ-đề

Do đây Bồ-Tát phát tâm nguyện.

Tin là đạo nguồn, mẹ công-đức

Nuôi lớn tất cả những pháp lành

Dứt trừ lưới nghi, khỏi vòng ái

Khai thị niết-bàn, đạo vô-thượng.

Tin không nhơ bợn, lòng thanh-tịnh

Là cội cung kính, trừ kiêu mạn

Cũng là pháp-tạng đệ-nhứt-tài

Là tay thanh-tịnh thọ thiện hạnh.

Tin hay ban cho, không bỏn-sẻn

Tin hay hoan-hỉ vào phật-pháp

Tin hay thêm lớn trí, công-đức

Tin quyết-định được bực Như-Lai.

Tin khiến lục-căn sạch, sáng, lẹ

Tin sức kiên-cố không bị hư

Tin hay dứt hẳn cội phiền-não

Tin hay chuyển hướng Phật công-đức.

Tin nơi cảnh-giới không chấp trước

Xa lìa các nạn, được vô-nạn

Tin hay vượt khỏi các đường ma

Thị-hiện đạo giải-thoát vô-thượng.

Tin là giống công-đức không hư

Tin hay sanh trưởng cây bồ-đề

Tin hay thêm lớn trí tối-thắng

Tin hay thị-hiện tất cả Phật.

Cứ theo công-hạnh nói thứ đệ

Tin là hơn hết, rất khó được

Ví như trong tất cả thế-gian

Mà có như ý diệu-bửu-châu.

Nếu thường tin thờ nơi chư Phật

Thời hay trì giới và tu-học;

Nếu thường trì-giới và tu học

Thời hay đầy đủ các công-đức.

Giới hay khai phát gốc bồ-đề

Học là siêng tu bực công-đức,

Nơi giới và học thường thuận làm

Thời được chư Phật luôn khen ngợi.

Nếu thường tin phụng nơi chư Phật

Thời hay trần-thiết cúng-dường lớn

Nếu hay trần-thiết cúng-dường lớn

Người này tin Phật bất-tư-nghì.

Nếu thường tin phụng nơi tôn-pháp

Thời nghe phật-pháp không nhàm đủ

Nếu nghe phật-pháp không nhàm đủ

Người này tin pháp bất-tư-nghì.

Nếu thường tin phụng thanh-tịnh tăng

Thời được tín tâm bất-thối-chuyển

Nếu được tín-tâm bất-thối-chuyển

Người này tín-lực không dao-động.

Nếu được tín-lực không dao-động

Thời được lục-căn sạch sáng-lẹ

Nếu được lục-căn sạch sáng-lẹ

Thời hay xa lìa ác-tri-thức.

Nếu hay xa lìa ác-tri-thức

Thời được gần gũi thiện-tri-thức

Nếu được gần gũi thiện-tri-thức

Thời hay tu tập quảng-đại-thiện.

Nếu hay tu tập quảng-đại-thiện

Người này được thành nhơn-lực lớn

Nếu người được thành nhơn-lực lớn

Thời được thù-thắng quyết-định giải.

Nếu được thù-thắng quyết-định giải

Thời được chư Phật thường hộ-niệm

Nếu được chư Phật thường hộ-niệm

Thời hay phát khởi bồ-đề-tâm

Nếu hay phát khởi bồ-đề-tâm

Thời hay siêng tu Phật công-đức

Nếu hay siêng tu Phật công-đức

Thời được sanh vào nhà của Phật.

Nếu được sanh ở nhà chư Phật

Thời khéo tu-hành phương-tiện lớn

Nếu khéo tu-hành phương-tiện lớn

Thời tâm tin ưa được thanh-tịnh.

Nếu được tâm tin ưa thanh-tịnh

Thời được tâm tăng-thượng tối-thắng

Nếu được tâm tăng-thượng tối-thắng

Thời thường tu tập ba-la-mật

Nếu thường tu tập ba-la-mật

Thời được trọn đủ pháp đại-thừa

Nếu được trọn đủ pháp đại-thừa

Thời hay đúng pháp cúng-dường Phật.

Nếu hay đúng pháp cúng-dường Phật

Thời được tâm niệm Phật bất-động

Nếu được tâm niệm Phật bất-động

Thời thường thấy được vô-lượng Phật.

Nếu thường thấy được vô-lượng Phật

Thời thấy Như-Lai thể thường-trụ

Nếu thấy Như-Lai thể thường-trụ

Thời biết được pháp trọn bất-diệt.

Nếu biết được pháp trọn bất-diệt

Thời được biện-tài vô-chướng-ngại

Nếu được biện-tài vô-chướng-ngại

Thời hay khai diễn vô-biên pháp.

Nếu hay khai diễn vô-biên pháp

Thời hay từ-mẫn độ chúng-sanh

Nếu hay từ-mẫn độ chúng-sanh

Thời được tâm đại-bi kiên-cố.

Nếu được tâm đại-bi kiên-cố

Thời hay mến ưa pháp thâm-diệu

Nếu hay mến ưa pháp thâm-diệu

Thời hay xa lìa lỗi hữu-vi.

Nếu hay xa lìa lỗi hữu-vi

Thời lìa kiêu-mạn và phóng-dật

Nếu lìa kiêu-mạn và phóng-dật

Thời hay kiêm-lợi tất cả chúng.

Nếu hay kiêm-lợi tất cả chúng

Thời ở sanh-tử không mỏi nhàm

Nếu ở sanh-tử không mỏi nhàm

Thời được dũng kiện không ai hơn.

Nếu được dũng kiện không ai hơn

Thời hay phát khởi đại thần-thông

Nếu hay phát khởi đại thần-thông

Thởi biết hạnh tất cả chúng-sanh.

Nếu biết hạnh tất cả chúng-sanh

Thời hay thành-tựu các quần-sanh

Nếu hay thành-tựu các quần-sanh

Thời được trí khéo nhiếp chúng-sanh.

Nếu được trí khéo nhiếp chúng-sanh

Thời hay thành tựu pháp tứ-nhiếp

Nếu hay thành tựu pháp tứ-nhiếp

Thời cho chúng-sanh lợi vô-hạn

Nếu cho chúng-sanh lợi vô-hạn

Thời đủ phương-tiện trí tối-thắng

Nếu đủ phương-tiện trí tối-thắng

Thời trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng.

Nếu trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng

Thời hay xô dẹp những ma-lực

Nếu hay xô dẹp những ma-lực

Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma.

Nếu hay vượt khỏi cảnh tứ-ma

Thời được đến nơi bực bất-thối

Nếu được đến nơi bực bất-thối

Thời được pháp-nhẫn vô-sanh lớn.

Nếu được pháp-nhẫn vô-sanh lớn

Thời được chư Phật thọ-ký cho

Nếu được chư Phật thọ-ký cho

Thời tất cả Phật hiện ra trước.

Nếu được chư Phật hiện ra trước

Thời rõ mật-dụng thần-thông lớn

Nếu rõ mật-dụng thần-thông lớn

Thời được chư Phật thường nhớ tưởng.

Nếu được chư Phật thường nhớ tưởng

Thời dùng Phật-đức tự trang-nghiêm

Nếu dùng Phật-đức tự trang-nghiêm

Thời được thân đoan-nghiêm diệu-phước.

Nếu được thân đoan-nghiêm diệu-phước

Thời thân chói sáng dường núi vàng

Nếu thân chói sáng dường núi vàng

Thời đủ ba mươi hai tướng hảo.

Nếu đủ ba mươi hai tướng hảo

Tám mươi tùy hảo đồng nghiêm-sức

Nếu đủ tùy hảo đồng nghiêm-sức

Thời thân sáng chói vô-hạn-lượng.

Nếu thân sáng chói vô-hạn-lượng

Thời được quang-minh bất-tư-nghị

Nếu được quang-minh bất-tư-nghị

Quang-minh này hiện những liên-hoa.

Những quang-minh từ liên-hoa hiện

Có vô-lượng Phật ngự trên liên-hoa

Thị-hiện mười phương đều khắp cả

Ðều hay điều-phục các chúng-sanh.

Nếu hay điều-phục các chúng-sanh

Thời hiện vô-lượng thần-thông-lực.

Nếu hiện vô-lượng thần-thông-lực

Thời trụ bất-tư-nghị cõi nước,

Thời diễn thuyết bất-tư-nghị pháp

Khiến bất-tư-nghị chúng hoan-hỉ.

Thời dùng sức trí-huệ, biện-tài

Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa.

Nếu dùng sức trí-huệ, biện tài

Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa

Thời dùng trí-huệ làm tiên-đạo

Thân, ngữ, ý, thường không lầm lỗi.

Nếu dùng trí-huệ làm tiên đạo

Thân ngữ ý thường không lầm lỗi

Thời nguyện-lực tất được tự-tại

Tùy theo các loài mà hiện thân.

Nếu nguyện-lực ấy được tự-tại

Tùy theo các loài mà hiện thân

Thời lúc tùy chúng, mà thuyết-pháp

Âm-thinh tùy loại, khó nghĩ bàn

Thời với tâm tất cả chúng-sanh

Một niệm biết cả không thừa sót.

Nếu với tâm tất cả chúng-sanh

Một niệm biết cả không thừa sót.

Thời biết phiền-não không từ đâu

Trọn không còn chìm trong sanh-tử.

Nếu biết phiền-não không từ đâu

Trọn không còn chìm trong sanh-tử

Thời được thân công-đức pháp-tánh

Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian.

Nếu được thân pháp-tánh công-đức

Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian

Thời được thập-địa, mười tự-tại

Tu-hành các độ, thắng giải-thoát

Thời được quán-đảnh đại thần-thông

Trụ nơi tối-thắng các tam-muội.

Nếu được quán-đảnh đại-thần-thông

Trụ nơi tối thắng các tam-muộI

Thời khắp mười-phương chỗ chư Phật

Ðáng thọ quán-đảnh được thắng-vị

Thời được tất cả Phật mười phương

Tay lấy cam-lộ rưới trên đảnh

Thời thân đầy khắp như hư-không

An-trụ bất-động khắp mười-phương.

Nếu thân đầy khắp như hư-không

An-trụ bất-động khắp mười-phương

Thời chỗ sở-hành không ai bằng

Chư thiên, người đời chẳng biết được.

Bồ-Tát siêng tự-tại hạnh đại-bi

Nguyện độ tất cả đều trọn vẹn

Nếu ai nghe thấy mà cúng-dường

Ðều làm cho họ được an-lạc.

Thần-lực của chư Bồ-Tát kia

Pháp-nhãn toàn vẹn không thuyết giảm

Những đạo diệu-hạnh thập thiện thảy

Thắng bửu vô-lượng đều khiến hiện.

Như báu kim-cang trong đại-hải

Do oai-lực này sanh các báu;

Không tăng, không giảm, cũng vô-tận

Công-đức của Bồ-Tát cũng vậy.

Hoặc có quốc-độ không có Phật

Bồ-Tát nơi đó hiện thành Phật,

Nếu có quốc-độ chẳng biết Pháp

Nơi đó Bồ-Tát thuyết diệu-pháp.

Không có phân-biệt, không công-dụng

Trong khoảng một niệm khắp mười-phương

Như mặt nguyệt sáng chiếu khắp nơi

Vô-lượng phương-tiện độ quần-sanh.

Ở trong mười-phương các thế-giới

Niệm niệm thị-hiện thành phật-đạo

Chuyển chánh pháp-luân vào tịch-diệt

Nhẫn đến xá-lợi phân bố rộng.

Hoặc hiện Thanh-Văn cùng Ðộc-Giác

Hoặc hiện thành Phật khắp trang-nghiêm

Như vậy khai-diễn pháp ba thừa

Rộng độ chúng-sanh vô-lượng kiếp.

Hoặc hiện thân đồng-nam đồng-nữ

Trời rồng nhẫn đến a-tu-la,

Cùng với ma-hầu-la-già thảy

Tùy chúng sở-thích đều khiến thấy.

Chúng-sanh hình tướng đều chẳng đồng

Hành-nghiệp, âm-thinh cũng vô-lượng

Tất cả như vậy đều hiện được

Hải-ấn tam-muội oai-thần lực.

Nghiêm-tịnh bất-tư-nghị quốc-độ

Cúng-dường tất cả chư Như-Lai

Phóng-đại quang-minh vô-lượng-biên

Ðộ thoát chúng-sanh cũng vô-hạn.

Trí-huệ tự-tại, bất-tư-nghị

Ngôn-từ thuyết-pháp không chướng ngại

Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền-định

Trí-huệ, phương-tiện, thần-thông thảy.

Tất cả như vậy đều tự-tại

Do Phật hoa-nghiêm tam-muội lực.

Trong một vi-trần nhập tam-muộI

Thành-tựu vi-trần tất cả định,

Mà vi-trần kia cũng không thêm

Nơi một hiện khắp vô-biên cõi.

Trong một trần kia, nhiều quốc-độ

Hoặc là có Phật, hoặc không Phật,

Hoặc là tạp nhiễm, hoặc thanh-tịnh

Hoặc cõi rộng lớn, hoặc hẹp nhỏ

Hoặc có cõi thành, hoặc là hoại

Hoặc cõi chánh-trụ, hoặc bàng-trụ,

Hoặc như ánh-nắng giữa đồng-trống

Hoặc như lưới Thiên-Ðế trên trời.

Như chỗ thị-hiện trong một trần

Tất cả vi-trần đều như vậy,

Ðây là những thánh-nhơn cao cả

Tam-muội, giải-thoát thần-thông-lực.

Nếu muốn cúng-dường tất cả Phật

Nhập nơi tam-muội khởi thần-thông

Hay dùng một tay khắp đại-thiên

Cúng khắp tất cả vô-số Phật.

Bao nhiêu hoa đẹp ở mười-phương

Hương thoa, hương bột, báu vô-giá

Ðều từ trong tay xuất hiện ra

Cúng-dường chư Phật ngự đạo-thọ.

Bửu-y vô-giá, xen hương-diệu

Bửu tràng-phan, lọng đều xinh đẹp

Vàng rồng làm hoa, ngọc làm màn

Tất cả đều từ trong tay hiện.

Bao nhiêu vật tốt ở mười-phương

Ðáng đem phụng-hiến đấng vô-thượng

Trong tay tất cả đều hiện đủ

Trước cây bồ-đề cúng chư Phật.

Tất cả kỹ-nhạc ở mười-phương

Chung, cổ, cầm, sắc đủ các loại

Ðồng tấu hòa nhã âm-thinh diệu

Ðều từ bàn tay xuất hiện ra.

Bao nhiêu tán tụng ở mười-phương

Ca ngợi thiệt-đức của chư Phật

Như vậy các thứ diệu ngôn-từ

Ðều từ bàn tay mà khai-diễn.

Bồ-Tát tay mặt phóng tịnh-quang

Trong quang rưới ra nước thơm sạch

Rưới khắp mười-phương các quốc-độ

Cúng dường tất cả Chiếu-Thế-Ðăng.

Lại phóng quang-minh diệu trang-nghiêm

Xuất-sanh vô-lượng hoa-sen báu

Hoa này hình sắc đều rất đẹp

Dùng đây cúng-dường lên chư Phật.

Lại phóng quang-minh hoa trang-nghiêm

Các thứ diệu-hoa họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh hương trang-nghiêm

Các thứ diệu-hương họp làm trướng,

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh mạt-hương tốt

Các thứ mạt-hương họp làm trướng

Rải khăp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh y trang-nghiêm

Các thứ y phục họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh bửu trang-nghiêm

Các thứ diệu-bửu họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang liên-hoa trang-nghiêm

Các thứ liên-hoa họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang anh-lạc trang-nghiêm

Các thứ chuỗi-ngọc họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh tràng trang-nghiêm

Bửu-tràng rực-rỡ đủ màu đẹp

Các loại vô-lượng đều rất tốt

Dùng dây trang-nghiêm các phật-độ.

Các thứ báu đẹp lọng trang-nghiêm

Những phan lụa đẹp treo rủ xuống

Lạc báu ma-ni, diễn phật-âm

Ðem đến kính-dâng cúng chư Phật.

Tay hiện đồ cúng bất-tư-nghị

Như vậy cúng-dường một Ðạo-Sư

Nơi tất cả Phật đều như vậy

Ðây là thần-lực của Ðại-Sĩ.

Bồ-Tát trụ trong môn tam-muội

Các thứ tự-tại nhiếp chúng-sanh

Ðều đem pháp công-đức đã làm

Vô-lượng phương-tiện để chỉ dạy.

Hoặc dùng môn cúng-dường Như-Lai

Hoặc dùng môn nhẫn-nhục bất-động

Hoặc dùng môn khổ-hạnh tinh-tấn

Hoặc dùng môn thiền-định tịch-tịnh,

Hoặc dùng môn trí-huệ quyết rõ

Hoặc dùng môn phương-tiện tu-hành

Hoặc dùng môn phạm-trụ, thần-thông

Hoặc dùng môn tứ-nhiếp lợi-ích,

Hoặc dùng môn phước-trí trang-nghiêm

Hoặc dùng môn nhơn-duyên, giải-thoát

Hoặc dùng môn căn, lực, chánh-đạo

Hoặc dùng môn Thinh-Văn giải-thoát,

Hoặc dùng môn Ðộc-Giác Thanh-tịnh

Hoặc dùng môn Ðại-Thừa tự-tại

Hoặc dùng môn Vô-Thường những khổ

Hoặc dùng môn vô-ngã vô-thọ,

Hoặc dùng môn bất-tịnh, ly-dục

Hoặc dùng môn diệt-tận tam-muội.

Tùy theo chúng-sanh bịnh chẳng đồng

Ðều dùng pháp-dược để đối-trị.

Tùy theo chúng-sanh tâm sở-thích

Ðều dùng phương-tiện khiến đầy đủ.

Tùy theo chúng-sanh hạnh sai-biệt

Ðều dùng chước khéo khiến thành tựu.

những tướng tam-muội thần-thông ấy

Tất cả trời người chẳng lường được.

Có diệu tam-muội tên tùy-lạc

Bồ-Tát trụ đây, khắp quan-sát

Tùy nghi thị-hiện độ chúng-sanh

Ðều khiến vui lòng theo chánh-pháp.

Trong thời-gian, nạn cơ-cẩn, tai

Ban cho thế-gian đồ cần thiết

Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ

Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích :

Hoặc cho những vật uống, ăn ngon

Y-phục, tư-trang, những vật tốt

Cả đến ngôi vua, đều xả được

Khiến kẻ ưa thí theo chánh-pháp.

Hoặc dùng tướng-hảo trang-nghiêm thân

Y-phục thượng-diệu, chuỗi ngọc báu

Tràng hoa nghiêm-sức, hương thoa thân

Oai-nghi đầy đủ, độ hàm thức.

Tất cả thế-gian chỗ ưa chuộng

Sắc tướng, dung-nhan, và y-phục

Tùy nghi hiện đủ, vui lòng họ

Khiến kẻ ưa sắc theo chánh-pháp.

Tiếng ca-lăng-tần-già mỹ diệu

Âm-thinh diệu Câu-chỉ-la thảy

Những thứ phạm-âm đều đầy đủ

Tùy lòng họ thích vì thuyết-pháp.

Tám vạn bốn ngàn các pháp-môn

Chư Phật dùng đây độ chúng-sanh

Bồ-Tát cũng theo pháp sai-biệt

Tùy nghi theo đời mà hóa độ.

Chúng-sanh khổ, lạc, lợi, suy thảy

Những việc thật hành của thế-gian

Ðều hay ứng hiện đồng với họ

Dùng đây phổ-độ các chúng-sanh.

Tất cả thế-gian những khổ hoạn

Sâu rộng không bờ như đại-hải

Ðồng sự với họ đều chịu được

Khiến họ lợi ích được an vui.

Có người chẳng biết pháp xuất ly

Chẳng cầu giải-thoát lìa ồn náo

Vì họ Bồ-Tát hiện thí xả

Thường ưa xuất-gia tâm tịch-tịnh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29898)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23606)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24768)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30978)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23993)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26522)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21322)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38139)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18805)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19978)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19051)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23888)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22817)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22917)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18712)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15849)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18864)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19685)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19957)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18128)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22946)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34170)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39260)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26082)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29149)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22905)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21012)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23331)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19823)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24686)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20228)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant