Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trưởng giả tử Thiện Đức

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8536)
Trưởng giả tử Thiện Đức

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Tư
 Phẩm BỒ TÁT
(The Reluctance of the Bodhisattvas)

4) Trưởng giả tử Thiện Đức:
Hội Đại Thí.

Bấy giờ Phật gọi trưởng giả Thiện Đức bảo:

- Thiện Đức! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Thiện Đức thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Vì trước đây, lúc ở tại nhà của thân phụ, con có thiết lập một hội đại thí, kỳ hạn bảy ngày cúng dường các sa môn, Bà la môn, ngoại đạobố thí cho tất cả những người nghèo khó, cho những kẻ ăn xin. Khi bấy giờ, ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng:

- Thưa trưởng giả tử! Hội đại thí lập như vậy chưa đúng. Ngài lập hội tài thí trong bảy ngày, những người được thọ thí đở khổ trong bảy ngày. Sau bảy ngày họ không còn gì nương cậy. Ngài nên lập hội pháp thí mới đem lại lợi ích lâu dài cho người thọ thí.

Con hỏi:

- Hội pháp thí là thế nào?

Ông Duy Ma Cật nói:

- Hội pháp thí không phải chỉ có lợi cho thời gian trước hay thời gian sau, trong một thời cúng dường cho tất cả chúng sinh.

- Thế nghĩa là sao? Thưa cư sĩ, con hỏi.

- Nghĩa là vì Vô thượng Bồ-đề, khởi từ tâm. Vì cứu độ chúng sinh, khởi bi tâm. Vì hộ trì chánh pháp , khởi hỉ tâm. Vì sự nghiệp trí tuệ, khởi xả tâm. Vì hóa độ tâm tham, khởi bố thí Ba la mật. Vì hóa độ phạm giới, khởi trì giới Ba la mật. Vì biết rõ tánh vô ngã của các pháp, khởi nhẫn nhục Ba la mật. Vì biết rõ thân tâm như huyễn, khởi tinh tấn Ba la mật. Vì Bồ-đề, khởi thiền định Ba la mật. Vì nhất thiết chủng trí, khởi bát nhã Ba la mật. Vì giáo hóa chúng sinh, khởi quán vạn pháp giai không. Nhằm trực diện với các pháp hữu vi, khởi quán chư tướng vô tướng. Thị hiện thọ sanh, mà khởi quán không, vô tác. Nhằm truyền bá chánh pháp, khởi nhiều phương tiện. Nhằm hóa độ chúng sinh, thực hành pháp tứ nhiếp. Vì cung kính tất cả, khởi trừ tâm ngã mạn. Vì biết rõ thân mệnh tài như huyễn, khởi ái mộ pháp thân, bát nhãgiải thoát. Đối với lục niệm, thường khởi tưởng niệm. Đối với pháp lục hòa, khởi tâm chất trực. Dùng tâm hoan hỉ, khởi ý gần gủi thánh hiền. Khởi tâm điều phục, không ghét người ác. Với pháp xuất gia, khởi tâm kính mộ. Vì tri hành không lệch lạc, khởi ý chí đa văn. Nhằm tránh mọi ràng buộc, khởi ý đặt mình như ở chỗ cô tịch. Nhằm đạt đến Phật tuệ, khởi chí tọa thiền. Ví ái mộ cõi Phật thanh tịnh, khởi làm việc phước đức.

Thế đấy! Thiện nam tử! Nếu Bồ-tát lập hội pháp thí như thế, thì vừa là đại thí chủ vừa là phước điền cho tất cả chúng sinh.

Trong phẩm Bồ-tát này thì ba vị đầu là Bồ-tát Di lặc, Quang Nghiêm Đồng tử và Bồ-tát Trì Thế là Bồ-tát xuất gia. Còn vị thứ tư là Trưởng giả tử Thiện Đức là Bồ-tát tại gia nên có rất nhiều tiến bạc của cảilập hội đại thí để bố thí cúng dường cho bá tánh. Thiện Đức là người chuyên làm nhiều việc lành việc thiện để vun bồi nhiều phước báo công đức. Trong Lục độ Ba la mật thì bố thí cúng dường là hạnh thứ nhất với mục đích là để đoạn diệt lòng tham mà phát triển tâm từ để tiến về giải thoát giác ngộ. Bố thí thì có tài thí, pháp thívô úy thí.

1)Tài thí: Nếu bố thí ngoại tài là đem của cải, tiền bạc, áo quần, thuốc men, nhà cửa, xe cộ…ra cúng dường kẻ tu hành và cứu giúp người nghèo khó. Người càng thực hành nhiều tài thí thì sẽ càng hưởng nhiều phước báu và những quả tốt lành ở đời nầy và mãi mãi về sau. Còn bố thí nội tài là ra tay giúp đỡ người già cả, chăm sóc người bệnh hoạn, tàn tật hoặc chăm sóc các em trong viện mồ côi. Đôi khi bố thí nội tài là hy sinh cúng dường một phần thân thể như cho máu, cho xương tủy, cho thận hay cả tánh mạng của mình cho kẻ khác. Đây là cơ hội để thử thách lòng tham sống sợ chết và trau dồi đức tính lợi tha.

2)Pháp thí: là đem những giáo lý huyền diệu của Như Lai mà giúp cho chúng sinh thấu hiểu để tu tâm dưỡng tánh và hướng về giải thoát giác ngộ. Biếu tặng kinh sách và cúng dường để in kinh đều là pháp thí cả.

3)Vô úy thí: Con người đời sống hàng ngày đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ cho nên nếu làm cho họ hết sợ thì chúng ta đã cứu cho họ bớt đi quá nửa nỗi khổ đau trong kiếp sống nầy. Khi đã biết vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn thì còn cái gì để sợ. Bởi vì nếu chúng ta không tham lam tiền của thì không sợ mất, không màn danh lợi thì không sợ thất vọng, thân nầy là giả huyễn thì không sợ mất. Thật ra bố thí vô úy là một phần của pháp thí vì có thấu hiểu Phật pháp thì con người sẽ dùng trí tuệ sáng suốt để cứu giúp đời. Do đó an ủi người đau khổ, cảnh tỉnh người tham đắm nóng giận, khuyên can kẻ mê mờ độc ác cũng đều là pháp thí cả. Có người lo sợ vì ngày xưa lỡ tạo ra tội nghiệp hay làm tổn thương người khác…Đối với đạo Phật thì nghiệp tánh bổn không tức là con người có thể chuyển nghiệp của mình được vì nghiệp tự tánh là không nên không cứng ngắt cố định. Thí dụ nghiệp ác như nước màu đen đựng trong ly. Nếu bây giờ chúng ta đem ly nước màu đen nầy pha với vài thùng nước tốt khác thì nước bây giờ đâu còn thấy màu đen. Nghiệp con người thì cũng thế. Nếu trong quá khứ chúng ta lỡ tạo ra vài nghiệp bất thiện nhưng bây giờ thấu hiểu Phật pháp nên tránh xa ác nghiệptiếp tục vun bồi thiện nghiệp thì nghiệp ác biến đi đâu còn nữa. Biết như vậy thì hết lo sợ.

Phần lớn tài thí giúp cho người “đở ngặt” chớ không giúp được “đở nghèo”. Thí dụ khi chúng ta cho một người ăn xin số tiền nào đó thì với số tiền nầy họ có thể mua thức ăn được vài ngày. Vài ngày sau thì họ vẫn đói như thường. Có vài trường hợp đặc biệt thì tài thí chẳng những vừa giúp đở ngặt mà còn giúp đở nghèo nhưng vẫn không thể nào giúp cho đở khổ được. Thí dụ nếu ở Hoa kỳ chúng ta làm ăn thành công phát tài thì có thể cho bà con bên Việt Nam một số tiền để làm ăn buôn bán. Nhờ sự giúp đở tài chánh nầy mà người bà con có cuộc sống thịnh vượng tức là hết nghèo. Nhưng ngày xưa nghèo thì khổ vì đói cơm thiếu áo, còn bây giờ có nhiều tiền thì khổ vì phải làm, phải giữ gia sản của mình. Cho nên bất cứ một ai trên đời nầy không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội, nam nữ, da trắng, da vàng hay da đen đều cưu mang nỗi khổ như thường. Mà đạo Phật là đạo diệt khổPháp thíphương tiện tốt nhất để giúp chúng sinh thoát khổ. Khi con người biết thức tỉnh, không còn sống trong mê mờ điên đảo thì cuộc sống chắc chắn sẽ an vui tự tại. Cái an vui nầy chẳng những họ có được trong đời nầy mà còn ảnh hưởng tốt cho những đời mai sau.

Có sự khác biệt sâu xa giữa bác ái của những tôn giáo khác và từ bi của đạo Phật. Bác áitình thương phát xuất từ con tim để cứu giúp con người trong nhất thời. Mà tình thương từ con tim tức là cảm tình thì có lúc đúng, có lúc sai, có lúc mê có lúc tỉnh. Nay thương mai ghét không nhất định vì con tim có những lý lẽ mà lý trí không thể hiểu được. Khi thấy có nạn nhân bảo lụt thì đem áo quần tiền của đến giúp đở. Giúp đở người mà còn bắt người lệ thuộc vào đoàn thể nầy, tôn giáo nọ thì làm sao gọi là từ thiện tức là thi ơn mà cầu báo vậy. Ngược lại từ bi của Phật giáotình thương phát xuất từ trí tuệ. Trí tuệ thì lúc nào cũng sáng suốt, không mê muội. Giúp người theo tôn chỉ thi ân bất cầu báo tức là bố thí vô tướngđộ sanh vô ngã thì làm gì có sự ràng buộc. Thêm nữa, từ bi chẳng những giúp người diệt trừ mọi nỗi khổ mà còn mang lại niềm an vui tự tại trong tâm của tất cả mọi loài. Vì tầm quan trọng của Pháp thí nên Kinh Phật có dạy rằng:” Cho dù bạn có đem của báu chất đầy ba ngàn đại thiên thế giới ra bố thí cúng dường cũng không bằng Pháp cúng dường”. Tại sao? Của báu thế gian như kim cương, vàng bạc, tiền của, nhà cửa, xe cộ…cho dù có nhiều đến đâu cũng là vô thường, là giả huyễn, là pháp hữu vi sinh diệt. Có nhiều thì phải lo phải giữ có nghĩa là càng chuốc thêm nhiều hệ lụy khổ đau. Ngược lại Pháp thí đem lại sự an vui tự tại, tâm thanh tịnh Niết bàn tức là pháp vô lậu. Lợi người, lợi mình vì cả hai cùng tiến về giải thoát giác ngộ.

Trưởng giả tử Thiện Đức lập hội bố thí cúng dường bảy ngày cho Sa môn, Bà la môn và những người nghèo khổ, ăn xin…thì sự bố thí nầy có phân biệt, có giới hạn. Còn phân biệt, còn sống trong biên giới của nhị nguyên là chưa giải thoát, chưa tự tại. Như thế theo Bồ-tát Thiện Đức thì người nghèo mới khổ còn người giàu có, quyền uy thế lực không khổ sao? Ai dám bảo nhà tỷ phú Bill Gate hay tổng thống Bush không khổ? Hiện tại thống kê mới nhất tại Hoa kỳ có tới 60% bác sĩ và 30% luật sư giải nghệ. Nếu làm bác sĩ, luật sư được nhiều tiền, lắm của, danh vọng cao sang thì tại sao lại bỏ nghề? Thật là:

Rằng hay thì thật là hay

Nghe qua ngậm đắng nuốt cay thế nào.

Ngược lại ông Duy Ma Cật chủ trương nên hội pháp thí thì mới cứu khổ cho tất cả mọi người và mọi giai cấp trong xả hội. Lợi ích của pháp thí thì không có phân biệt, không có biên giới bởi vì từ thiên tử đến chí dân ai ai cũng đều có khổ. Hoàn cảnh và môi trường tuy có khác nhưng cái khổ đâu có tha cho một ai vì khổ khôngranh giới quá khứ, hiện tạivị lai. Khi đem những chân lý như tứ vô lượng tâm là Từ, Bi, Hỷ, Xả; lục độ Ba la mậtBố thí, Trì Giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ; luật Vô thường; lý Nhân duyên, thuyết Vô sinh, Vô tác, Không tướng, Thật tướng…giúp cho chúng sinh thấu hiểu mà thực hành để cải thiện cuộc đời của họ là cách Pháp thí hữu hiệu nhất.

Quý vị có biết tại sao hằng ngày chúng ta làm việc gì cũng thấy khổ còn Bồ-tát thì làm bất cứ việc gì họ cũng vui? Họ có những bí quyết gì mà chúng ta không có? Bồ-tát thì họ làm việc mà tâm rất bình đẳng, không phân biệt thân sơ. Họ cũng làm việc như chúng sinh nhưng không chấp việc mình làm. Làm xong thì quên không ghi nhớ trong lòng nên tâm lúc nào cũng thanh tịnh, không dính mắc. Còn chúng taphàm phu thì làm việc vì mình, vì lợi ích cho mình và cho gia đình của mình trước. Làm xong việc thì chẳng những không quên mà còn nhắc đi nhắc lại làm tăng tập khí ngã mạn và lòng luôn mong cầu đền đáp cho nên phiền não khổ đau cũng vì thế mà phát sinh. Nếu muốn thực hành Bồ-tát đạo viên mãn thì con người cũng nên bắt đầu thực tập con đường vi diệu của Bồ-tát để tâm được thanh tịnh và thoát ra khỏi mọi phiền não khổ đau.

Bạch Thế Tôn! Trưởng giả tử Thiện Đức thưa. Ông Duy Ma Cật thuyết thời pháp ấy, có hai trăm Bà la môn phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Riêng con cảm thấy tâm mình được cởi mở nhẹ nhàng thanh thoát. Con đảnh lễ dưới chân Ông và cởi xâu chuổi anh lạc giá trị trăm ngàn vàng dâng cúng; nhưng Ông Duy Ma Cật không nhận.

Sau lời thỉnh cầu hiến dâng thành khẩn của con, Ông Duy Ma Cật nhận lấy và liền chia làm hai phần. Một phần, bố thí cho người hành khất tối hạ cơ cực nhất. Một phần ông dâng cúng Đức Nan Thắng Như Lai. Khi bấy giờ cả chúng hội đều thấy cõi nước trang nghiêm của Đức Nan Thắng. Đồng thời thấy chuỗi anh lạc biến thành bốn trụ cột của một bảo đài. Bốn mặt dài đẹp đẽ trang nghiêmtrong suốt không chướng ngại nhau.

Ông Duy Ma Cật nói với đại chúng rằng:

- Một thí chủ bố thí cho người hành khất tối hạ bằng tấm lòng bình đẳng y như cúng dường Đấng Như Lai phước điền tối thượng. Cúng dườngbố thí phát xuất từ một bi tâm. Không hy vọng trả ơn và không mong cầu phước báu.

Đó là mô hình của hội pháp thí viên mãn nhất.

Bạch Thế Tôn! trưởng giả tử Thiện Đức thưa:

- Những người hành khất tối hạ thấy thần lực của Ông Duy Ma Cật và nghe thuyết những pháp thậm thâm như thế, họ đều phát tâm hướng về Vô thượng Bồ-đề. Vì duyên cớ đó, con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Nhiều vị Bồ-tát ở trước Phật cùng trình bày những trường hợp bị khiển trách của mình. Tất cả đều từ khước không dám đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Nan Thắng là khó thắng. Sống trong thế gian, con ngườithói quen chạy theo ý thức vọng niệm nên tâm có sự phân biệt cao thấp, nghèo giàu, sang hèn, tốt xấu…mà đạo Phật dạy con người muốn có tâm thanh tịnh thì phải bỏ tâm phân biệt và sống với tinh thần vị tha bình đẳng. Ngày xưa chưa học đạo thì thấy có ông bác sĩ bà kỹ sư, ông tỷ phú người ăn mày, ông đại tướng người lính quèn nên mới khinh bần trọng phú, chuộng cao bỏ thấp. Bây giờ giáo lý liễu nghĩa thượng thừa dạy con người bỏ hình Tướng bên ngoài mà nhập Thể Tánh thanh tịnh bên trong thì ai ai cũng thế. Con người còn theo Tướng thì còn theo sự thay đổi sinh diệt vô thường tức là còn đeo mang cái khổ. Người Việt Nam thì có ai quên được cuộc đổi đời năm 1975, biết bao người có tiền rừng bạc biển, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, danh vọng cao sang quyền quý mà bây giờ cũng chạy cơm ngày hai bữa mà thôi. Còn nói về đơn vị nhỏ là gia đình. Ở Việt Nam rất nhiều gia đình có năm, sáu đứa con. Thử hỏi có cha mẹ nào thương tất cả các con của mình đồng nhau chưa? Có nhà thì thương con trai út nhiều, có gia đình thì thương con trai đầu lòng hơn. Cha thì thương con gái còn mẹ thì lo cho con trai…Con thì như thế đến phần cháu thì cháu nội mới là cháu của dòng họ mình còn cháu ngoại là cháu của người ta. Tư tưởng Khổng Mạnh quân sư phụ, tam cương ngũ thường đã gieo vào trong tâm thức của con người biết bao sự phân biệt kỳ thị từ trong gia đình cho đến xã hội, trọng nam khinh nữ, trên đội dưới đạp. Con người vì có tâm phân biệt như thế nên khổ cả cuộc đời và đến chết cũng chưa hết khổ. Trong khi Phật và Bồ-tát với tâm đại bi bình đẳng cho nên họ thương tất cả chúng sinh không phân biệt nam nữ, da vàng, da trắng, da đen hay da đỏ, nghèo hay giàu, ông tướng hay phó thường dân cũng như con một của họ nên tâm họ hằng thanh tịnh và thường trụ Niết bàn. Vì thế khi cố gắng để dần dần bỏ hết tâm phân biệt là việc khó làm, nhưng khó mà làm được mới là quý, là cao cả. Người không làm mà ta làm được mới là hay, là giỏi. Thí dụ như thấy một đóa hoa. Nếu chúng ta khởi niệm phân biệt hoa đẹp xấu…thì đây là Thức. Còn không khởi niệm phân biệt hoa đẹp xấu là Trí. Do đó Thức cạn mà Trí mới sâu. Bây giờ nếu biết chuyển ý thức thành trí tuệ sáng suốt vô phân biệt để tâm được thanh tịnh thì chúng ta đã chiến thắng chính mình rồi. Chiến thắng chính mình là con người phải biết làm chủ sáu căn của mình. Không cho sáu căn chạy theo sáu trần thì sáu thức không sanh nghĩa là không có những ý niệm phân biệt, chạy theo ngũ dục, lục tình khiến tâm bị ô nhiễm. Khó thắng mà thắng được mới là quý và đây chính là ẩn nghĩa của chữ Nan Thắng vậy. Vì thế chiến thắng được mình tức là điều phục được tâm mình là làm chủ tất cả và là chiến thắng cao thượng nhất.

Ông Duy Ma Cật đem chuỗi anh lạc, một phần cúng dường cho Phật và phần còn lại bố thí cho người ăn xin chứng tỏ tâm đại bi bình đẳng, không phân biệt vì Phật và người ăn xin cũng đều có Phật tánh, Bản Thể thanh tịnh như nhau. Ngược lại phàm phu thì kính trọng chư Phật mà lại khinh thường người nghèo khổ cũng tại vì còn tâm phân biệt. Vì thế một trong mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát có câu:”Lễ kính chư Phật” nghĩa là trong tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tánh như nhau tức là sẽ thành Phật cho nên chư Phật ở đây là muốn ám chỉ cho tất cả chúng sinh vậy. Ngài Phổ Hiền muốn khuyên con người bỏ chấp tướng hình thức bên ngoài mà cung kính tất cả chúng sinh như cung kính chư Phật thì tâm sẽ hoàn toàn thanh tịnhchúng sinh bổn nguyên là Phật. Cúng dường, bố thí với tâm vô cầu, vô đắc, phá bỏ mọi chấp trước thì đây mới là chân Pháp thí vậy. Cho dù chúng ta cúng dường ít nhưng với bản tâm thanh tịnh thì trong cái quả phước báo đã có sự an lạc rồi. Ngược lại nếu tiền của có được bằng cách làm ăn bất chánh cho dù có cúng dường nhiều đi chăng nửa với cái tâm mong cầu, phân biệt thì cũng không có kết quả gì. Kinh Phật dạy rằng:”Bố thí cho chúng sinh cũng như cúng dường mười phương chư Phật” bởi vì trong tất cả chúng sinh ai ai cũng đều có Phật tánh và ai ai cũng sẽ thành Phật. Do đó tâm vô phân biệt là người ăn xin và Phật đồng một Thể. Bởi vì Phật với chúng sinh chỉ có một cái tâm và cái tâm nầy vốn không sai biệt. Cái tâm ấy từ đời vô thỉ đến nay vẫn không hình không tướng, chẳng sanh chẳng diệt, ví như hư không, không bờ không bến. Cái tâm nầy chính là Phật tánh vậy. Thêm nữa, Phật với chúng sinh vốn không sai khác nhưng chúng sinhchấp sự Tướng nên cầu ở ngoài. Mà càng cầu thì càng mất nên mãi mãi lặn hụp trong biển sinh tử luân hồi.

Dựa theo giáo lý phương tiện tức là giáo lý tiểu thừa thì bố thí là cốt để tạo phước nhưng giáo lý liễu nghĩa thượng thừa thì bố thí là nhằm phát triển trí tuệ, tăng trưởng lòng từ bi và phát huy chánh pháp để cùng hướng về đạo quả Bồ-đề. Bởi vì nếu người xin gì, mong gì mình cho nấy mà không giúp họ phát triển trí tuệ thì chỉ làm tăng thêm lòng tham dục của họ mà thôi. Mà lòng tham vô đáy thì biết chừng nào cho vừa cho đủ.. Bố thí như vậy là không đúng với chánh pháp. Ngược lại nếu chúng tatrí tuệ sáng suốt, thông hiểu Phật pháp thì đem những ánh sáng huyền diệu nầy ra bố thí cho chúng sinhPháp thí giúp họ phát triển trí tuệ sáng suốt mà lìa xa tham mê ngũ dục và sau cùng tiến về chỗ giải thoát giác ngộ. Con đường duy nhất để có trí tuệ là phải xóa bỏ chấp ngã chấp pháp, không còn tâm phân biệt thân sơ, tốt xấu, giàu nghèo, trên dưới và tâm hằng thanh tịnh bình đẳng như ánh sáng mặt trời rọi chiếu khắp mọi nơi không phân biệt là cây cao hay ngọn cỏ. Cũng như ánh sáng của mặt trăng chiếu sáng cùng khắp đâu có phân biệt là cung vua phủ chúa hay mái tranh nghèo của người nông dân. Vì thế cổ nhân mới có câu:”Nhựt nguyệt tri minh nan chiếu phúc bồn chi hạ” nghĩa là tuy mặt trời mặt trăng lúc nào cũng chiếu sáng nhưng cái chậu bị úp thì bên trong vẫn tối như thường. Do đó chỉ cần lật ngửa cái chậu thì sẽ có ánh sáng ngay. Như thế Pháp thí vừa lợi cho mình và lợi cho người vì cả hai cùng hướng về Vô thượng Bồ-đề. Ông Duy Ma Cật cúng dường Phật và người ăn xin với tâm hoan hỷ bình đẳng, vô cầu, vô đắc, thi ân bất cầu báo và dập tắt mọi chấp trước thì mới thực hành bố thí đúng với ý nghĩa vậy. Đây là điểm đặc thù của Phật giáo vì dưới ánh mắt sáng suốt trí tuệ của ông Duy Ma Cật thì Đức Nan Thắng Như Lai đã thành Phật còn vị ăn mày sẽ thành Phật vì tuy hình Tướng sinh diệt họ không giống nhau nhưng Bản Thể Chân Như tức là Phật Tánh thì Phật và kẻ ăn mày có khác gì nhau.

Ngày nay có người cúng dường xây cất chùa chiền mà nếu không được mời đặt viên đá đầu tiên, cắt băng khánh thành hay không làm hội trưởng là lòng không vui. Nhiều Phật tử có lòng muốn cúng dường tượng Phật, hay tượng các Bồ-tát mà đòi hỏi chùa phải khắc tên của gia đình mình phía dưới bức tượng. Một ông bác sĩ đến chùa mà không được vị trụ trì nhiệt tình chào đón thì cũng không hài lòng. Một Phật tử có công giúp xây dựng ngôi chùa muốn di ảnh của thân phụ mình lớn hơn những di ảnh khác. Nếu vị trụ trì không chìu theo thì không bao giờ đến chùa đó nữa. Bố thí, cúng dường như vậy là vì bản ngã chớ đâu phải là cho Tam Bảo, cho Phật pháp nên không có kết quả vì thi ân mà mong cầu quá nhiều quả báo.

Chuỗi anh lạc trên tay Đức Nan Thắng Như Lai biến thành bốn trụ cột của một bảo đài. Cũng như một khi chúng sinh có thể lìa Tướng nhập Thể để thấy được Pháp Thân thanh tịnh của mình thì có được bốn tính thanh tịnh của Niết Bàn là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh và đây chính là bốn cột trụ vững chắc để bảo vệ tòa Pháp bảo đài. Thường là không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng vậy, không lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ, sống chết đổi thay. Lạc là không còn khổ não, lo buồn, lúc nào cũng an vui tự tại. Ngã là được hoàn toàn tự chủ và không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi phối. Tịnh là không còn ô nhiễm, luôn luôn thanh tịnh trong sáng. Nói về Tướng thì chấp có tu, có pháp môn để tu và có chứng đắc. Nhưng đứng về Thể Tánh thì chẳng có khổ vui, không còn chấp ngã chấp pháp nên chẳng có pháp môn để tu. Ta cũng không mà người cũng không nên không có gì ngăn ngại và có trí tuệ sáng suốt cũng như bốn mặt đều đẹp đẻ trang nghiêmtrong suốt không chướng ngại nhau.

Tăng sĩ dựa theo tinh thần Phật giáo là người Khất sĩ. Vì trên thì họ xin giáo Pháp của chư Phật, còn dưới thì xin vật thực của đàn na thí chủ. Chính Đức Phật cũng là một khất sĩ và tất cả đại đệ tử của Ngài đều là khất sĩ cả. Bởi vì khất sĩmục đích tối thượng là phá trừ tánh ngã mạn hay tăng thượng mạn của mình. Khi đã đi xin cơm người thì tìm đâu ra tiền củatài thí cho chúng sinh? Trong những năm gần đây có những thiên tai rất lớn xảy ra khắp thế giới. Thấy chúng sinh bị tai trời ách nước thì ai lại không thương xót. Nhưng việc cứu tế xã hội là do hội từ thiện, chính quyền, hay những người thiện tâm đảm trách. Nếu chúng ta quyên tiền cho các vị Tăng sĩ Phật giáo để lo cứu trợ thì lợi ít mà hại nhiều. Tại sao? Tu hành là nên tránh xa ái dục, nay nếu cầm trong tay quá nhiều tiền lòng tham nổi dậy thì dễ dàng làm việc bất chánh. Họ có tiền là do chúng ta cúng dường cho nên họ tạo nghiệp thì chúng ta cũng gánh theo. Vì chúng ta thiếu sáng suốt tạo phương tiện để lòng tham của họ nổi dậy mà hoang phí cả đời tu thì lổi tại ai? Người tu hành mà còn chú tâm đến tài thí là đi ngược lại với chánh phápPháp thí mới là điều họ đáng quan tâm.

Ngày nay nhiều vị Hòa thượng tu theo Bắc tông đại thừaquan niệm sai lầm là chỉ có những người tu theo Nam tông tức là Phật giáo nguyên thủy mới là khất sĩ bởi vì họ nghĩ rằng hằng ngày họ không cầm bình bát đi khất thực. Thật ra ở Hoa kỳ ngày nay tu theo Nam Tông hay Bắc tông đâu có vị Tăng nào đi khất thực đâu? Không nhất thiết là tay cầm bình bát đến tận nhà thí chủ để nhận vật thực thì mới gọi là khất sĩ. Nếu vị Tăng không đi làm mà nhận tiền hay vật thực cúng dường của thí chủ đem đến chùa nếu khôngkhất sĩ thì là gì? Nếu cho rằng khất sĩ là xấu thì tại sao chính Đức Phậtkhất sĩ mà được mọi người tôn xưng? Vì Ngài không còn tánh ngã mạn và trong Ngài không còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh và tướng thọ giả. Phải chăng Đức Phật là người nghèo nhất thế gian? Tuy chỉ có tam y nhất bát và có lẻ là người nghèo nhất nhưng lại là người an lạc nhất trên trần thế nầy vì tâm Phật lúc nào cũng thường trụ Niết bàn. Nếu cho rằng xin ăn không phải là phương cách để diệt bản ngã thì con đường giải thoát vẫn còn xa vô tận.

Đức Thế Tôn dùng giáo phápbố thí tức là pháp thí bởi vì bên trong thì Ngài diệt trừ hết mọi chấp trước còn bên ngoài thì lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Còn Bồ-tát thì bố thítâm không trụ bởi vì các Ngài không thấy có “ta” là người bố thí, không thấy có “người” là kẻ thọ thí và cũng chẳng thấy có “vật” là của tín thí. Đối với bồ-tát thì đây chính là thanh tịnh bố thí vì bồ-tát khi bố thí chẳng sợ mình nghèo, chẳng mong trả ơn và không cần phước báo.

Ngược lại phàm phu khi bố thí thì quá mong cầu phước lợi mà nhà Phật gọi là bố thí trụ tướng. Cho nên cổ nhân mới có câu:

Cầu phước nhơn, thiên mà bố thí

Như tên bắn bổng giữa hư không.

Muốn tâm không trụ thì Kinh Kim Cang khuyên con người nên lìa bốn chấp tướng. Đó là:

1)Ngã tướng: là ỷ mình có danh vị, quyền thế, giàu cótài năng nên thích cầu thân cùng bậc cao sang mà khinh bỉ những người hèn dốt. Nói một cách khác là làm việc vì lợi ích riêng cho mình tức là chỉ nhìn vào bên trong làm tăng trưởng tánh tham mà tạo nghiệp.

2)Nhơn tướng: là chấp lòng năng sở và tri giải tức là chưa chứng ngộ mà nói chứng ngộ, ý mình giữ giới mà khinh kẻ phá giới. Hiểu như thế là chấp theo bề ngoài vì còn tâm phân biệt có người và ta nên tâm sân phát khởi để tạo ra nghiệp.

3)Chúng sinh tướng: là có cái lòng hy vọng hoặc nói chánh làm tà, miệng lành lòng dữ và đây chính là tâm si đang bừng cháy trong ta vì thế mà nghiệp dữ được tác tạo.

4)Thọ giả tướng: là trông mong cho được sống lâu và mong cầu sự phước lợi. Đây chính là ái và cũng là cội nguồn để tạo nghiệp.

Nói tóm lại bố thímục đích chính là giảm trừ lòng tham lam bỏn xẻn của con người. Khi đã thấu hiểu vạn pháp giai không tức là của cải vật chất thế gian chỉ là giả tạm, phù du, không thật nên lòng không tham đắm mà chia xẻ lại với đời. Không ôm giữ, thâu góp cả thế giới vào tay mình rồi cuối cùng cũng buông tay trả lại hết cho trời đất mà thôi. Ngay cả chánh pháp chúng ta cũng không tham. Đối với người học Phật một khi đã thấu hiểu Phật pháp, biết sống với chánh pháp và hòa nhập với thiên nhiên vũ trụ để tâm được thanh tịnh thì cũng nên đem chánh pháp huyền diệu nầy chia xẻ với tất cả mọi người. Đây gọi là pháp thí vậy. Một khi chúng ta sống hoàn toàn tự tại, lòng không tham đắm, tánh không si mê có nghĩa là thấy tiền của không tham, thấy nhà cao cửa rộng không màng, không cầu danh vọng, không buồn không giận…thì cho dù không bố thí nhưng thật ra đây mới chính là bố thí chân thật nhất. Do đó nếu chúng sinh đạt được tâm thanh tịnh, loại bỏ tâm tham tật đố thì cuộc sống an vui tự tại của mình chính là sự bố thí cúng dường cao thượng nhất.

Phần Tóm lược Phẩm Bồ-tát.

Bốn vị Bồ-tát đại diện cho bốn lối tu hành khác nhau trong phẩm Bồ-tát nầy, đó là:

1)Bồ-tát Di Lặc chuyên tu theo Duy thức nên còn tâm phân biệtpháp môn để tu, có Niết bàn để chứng và có đạo quả Bồ-đề để thành. Vì thức là cái biết do sự phân biệt nên cần phải chuyển thức thành trí thì mới có đầy đủ trí tuệ sáng suốt. Vì Bồ-đề không phải là cái mà từ bên ngoài đưa đến hay cố gắng nỗ lực để đạt được mà Bồ-đề đã có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh. Vì thế nếu con ngườiTịch diệt là có Bồ-đề, có Thuận là có Bồ-đề, có Bất nhập là có Bồ-đề…Niết bàn thì cũng thế, nếu chúng sinh biết loại bỏ tánh tham, tật đố, không giận không hờn, không vui không buồn thì Niết bàn hiễn hiện ngay. Nhà Phật không quan trọng về vui hay hạnh phúc bởi vì có vui thì sẽ có lúc buồn và hạnh phúc thì sẽ biến thành đau khổ. Cái mà đạo Phật chú trọng nhất là sự an lạc thanh tịnh từ trong nội tâm vì đó là sống với trí tuệ sáng suốt triệt để, là chơn tâm, là tự tánh thanh tịnh của mình.

2)Quang Nghiêm Đồng Tử còn chấp hình tướng bề ngoài, còn chấp có chúng sinh cần phải độ, còn chấp có người xuất gia và có chùa để tu, có quả vị để chứng và có công đức để trang nghiêm. Nếu sống theo hình Tướng sinh diệt bên ngoài thì còn chấp phải vào chùa mới tu, phải xuất gia mới là đi tu nhưng một khi chúng sinh đã thấu nhập được Bản Thể bên trong thì họ không quan trọng cái sinh diệt mà chỉ chú ý đến thật tánh thanh tịnh bất sinh bất diệt thì ở đâu tu cũng được và ở đâu cũng là đạo tràng thanh tịnh cả. Tu là tu tâm chớ không tu cảnh vì tâm chuyển thì cảnh sẽ chuyển theo cho nên một khi tâm thanh tịnh thì đâu đâu cũng là đạo tràng thanh tịnh và ai ai cũng đều có Phật tâm thanh tịnh trang nghiêm cả.

3)Bồ-tát Trì Thế tuy thấu hiểu Phật pháp để cứu độ chúng sinh nhưng chưa đủ trí tuệ để hóa độ nghịch duyên nên không dám dấn thân vào chốn ô nhiễm, vào nơi xấu ác vì biết không thể điều phục được tâm mình. Ở Việt Nam vào đời nhà Trần có ngài Tuệ Trung Thượng sĩvị cưnổi tiếng. Một hôm vào cung thăm chị là Thái hậu và được Thái hậu mở tiệc thịnh soạn tiếp đãi. Trong bàn tiệc, Ngài gặp thịt vẫn ăn làm Thái hậu kinh ngạc mà hỏi:

- Anh tu thiềnăn thịt thì làm sao thành Phật?

Thượng sĩ cười đáp:

- Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng cũng chẳng cần làm anh. Thái hậu có nghe cổ đức nói:”Văn Thù là Văn Thù, Giải thoátgiải thoát đó sao?.

Ý ngài Thượng sĩ là Phật là Phật tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng thanh tịnh, không hề bị nhiễm ô. Còn Thượng sĩsắc thân giả huyễn. Khi ăn là sắc thân ăn chớ tâm đâu có ăn thịt mà phải lo sợ ô nhiễm. Miệng nhai thịt mà tâm không nhai thì thịt cũng như đậu hủ mà thôi. Đây mới chính là thực hành thấu triệt câu”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” vậy. Câu chuyện nầy là cho người đắc đạo, tâm thanh tịnh, không còn nhiễm ô trần cảnh. Còn chúng taphàm nhân tâm còn phân biệt ý niệm tham muốn thì không nên bắt chước ngài Thượng Sĩ. Nhắc lại ngày xưa lúc Đức Phật đi khất thực thì Ngài thọ dụng bất cứ vật thực cúng dường chay có mặn có. Ngài thọ dụng nhưng tâm không hề dính mắc và chấp trước nên lúc nào tâm cũng thanh tịnhthường trụ Niết bàn.

4)Trưởng giả Thiện Đức thực hành hạnh bố thí chưa rốt ráo vì quá chú trọng tài thí mà bỏ quên pháp thí. Tài thí chỉ mang lại lợi lạc, an lạc cho thân nghĩa là sự lợi íchgiới hạn nhất thời trong khi pháp thí thì mới đem lại lợi íchan lạc cho tâm tức là sự an vui tự tại mãi mãi về sau không những cho một đời mà còn nhiều đời nữa.

Như trên kinh giới thiệu bốn phương cách tu khác nhau của bốn vị Bồ-tát, không phải là nhằm chỉ vào chổ thiếu sót hay chổ tu chưa rốt ráo của các vị Bồ-tát nầy. Nhưng thâm ý của kinh là muốn dùng các vị Bồ-tát làm đối tượng để chỉ dạy cho chúng sinh những khuyết điểm trên con đường hành đạo. Đó là đừng chấp và hình tướng bề ngoài mà phải quay vào trong Tâm để kiểm soát và hoàn chỉnh tâm thức của mình. Như thế thì ở đâu tu cũng được, tu chùa cũng tốt, tu chợ cũng hay mà ở nhà cũng là đạo tràng sáng chói trang nghiêm thanh tịnh để tu. Thuận duyên cũng tu, nghịch cảnh cũng không thối chí. Chuyển tâm trước thì ngoại cảnh sẽ tự nó chuyển theo. Vì thế đây là mới thực hành thâm sâu câu:”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” và “Dục tịnh Phật độ, tiên tịnh kỳ tâm” nghĩa là một khi có tâm tịnh thì sẽ có cõi Phật tịnh mà muốn có cõi Phật tịnh thì trước hết phải làm cho tâm mình thanh tịnh trước. Vì thế các vị Bồ-tát thị hiện thế gian để làm gương giáo hóa chúng sinh, các ngài làm là vì chúng sinh, cho chúng sinh chớ không phải cho các ngài. Như thế chúng sinh học từ Bồ-tát, thấy họ chuyển tâm thì mình cũng phải noi theo mà chuyển tâm cho được thanh tịnh như Bồ-tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12072)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17992)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9957)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10179)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12356)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15351)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11249)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14335)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12114)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12092)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10622)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12561)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12697)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16583)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19675)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12273)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14526)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12622)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13631)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11172)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9086)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12184)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15321)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12225)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11490)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19710)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24616)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant