Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Xá Lợi Phất

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9190)
Tôn giả Xá Lợi Phất

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn


Tôn giả Xá Lợi Phất (Phạn ngữ: Sariputra): 
Vấn Đề Thiền.

Bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật tự nghĩ: nay mình nhuốm bệnh nằm một mình một giường và một thất, Đức Thế Tôn là bậc đại từ, lẽ đâu không đoái lòng thương xót. Phật biết thâm ý liền bảo ông Xá Lợi Phất rằng:

Xá Lợi Phất! Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.

Xá Lợi Phất bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con xin Thế Tôn thương cho. Con không kham lãnh trách nhiệm đến thăm bệnh ông ấy.

- Bạch Thế Tôn! Vì trước đây có một hôm con đang ở trong rừng ngồi thiền dưới một cội cây. Tình cờ ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng:

Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Ngài bất tất phải ngồi như thế mới là ngồi thiền! Vả chăng ngồi yên ở trong tam giới mà không hiện thân ý mới là ngồi thiền. Sinh hoạt trong oai nghi như hằng ngày mà không rời diệt tận định mới là ngồi thiền. Làm mọi việc như kẻ phàm phu mà không xao lãng đạo pháp mới là ngồi thiền. Tâm không cột vào trong mà cũng không tản mạn ra ngoài mới là ngồi thiền. Trước bao nhiêu tà kiến, bao nhiêu dị thuyết, bao nhiêu chuyện mê tín, hoang đườngtâm không lay động, không bị mê hoặc, cám dỗ, xiêu lòng, vững tâm trong 37 phần trợ đạo thế mới là ngồi thiền. Không khởi tâm đoạn trừ phiền nãovẫn có Niết bàn thế mới là ngồi thiền.

Ngồi được như thế thì đó là thứ thiền được Phật ngợi khenấn khả, thưa Ngài Xá Lợi Phất.

Xá Lợi Phất là một trong mười vị đại đệ tử của Phật. Ngài là người thông minh trí tuệ từ khi còn bé cho nên sau khi quy y theo Phật, Ngài nổi danh là đệ nhất trí tuệ trong hàng Thanh Văn. Đối với Phật giáo thì thiền là phương thức căn bản để định tâm. Chính ngày xưa Đức Phật đã ngồi thiền suốt 49 ngày đêm dưới cội Bồ-đề mới trở thành vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu mà không thiền cũng như ăn cơm mà không có muối. Dù có được ăn, nhưng càng ngày thân thể càng èo uột, dễ chết. Vì thế sau ngày Đức Phật nhập diệt thì các đệ tử vẫn tiếp tục duy trì truyền thống ngồi thiền để đạt được tâm thanh tịnh. Do đó khi ông Duy Ma Cật nói :”Bất tất phải ngồi thiền như thế mới là ngồi thiền” có mâu thuẩn giáo lý của Phật không? Tuy ngài Xá Lợi Phất là bậc thông minh xuất chúng, đệ nhất trí tuệ, nhưng vẫn thuộc hàng Thanh Văn. Đó là các ngài chỉ mới phá được chấp ngã tức là phá được cái Ta và những Tham-Sân-Si để tạo tác cho cái Ta mà chưa phá được chấp pháp tức là còn thấy có pháp để tu, có quả vị để chứng và chấp phải ngồi thiền thì tâm mới an, mới chứng quả A La hán. Lối nhìn của ông Xá Lợi Phất là đứng về Sự Tướng Tương Đối của thế gian còn tư tưởng của ông Duy Ma Cật là đứng về Chân Lý Thể Tánh Tuyệt Đối mà hành. Vì thế không có sự mâu thuẩn giữa tôn giả Xá Lợi Phấttrưởng giả Duy Ma Cậtdĩ nhiên cũng không có sự mâu thuẩn giữa hai lối tu thiền mà chỉ có sự khác nhau về tư tưởngthực hành giữa Sự và Lý hay Tướng và Tánh mà thôi. Ông Xá Lợi Phất thì chấp vào Tướng nên cứ phải ngồi yên lặng không nói năng mới là thiền còn ông Duy Ma Cật thì nhìn vào Bản Thể Chân Như bên trong nên đối với ông thì đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền, lúc nào cũng thiền, ở nhà cũng thiền, ở chợ cũng thiền ngay cả trong lúc ăn cơm, mặc áo, nói chuyện cũng thiền. Khi con người làm chủ được tâm của mình, giữ tâm an nhiên tự tại, không chạy theo vọng thức bằng cách sống trong Chánh Niệm, xa lìa sự quyến rủ của lục trần để kiềm chế Tham-Sân-Si làm cho Thân-Khẩu-Ý được thanh tịnh thì mới là tu thiền. Vậy đi, đứng, nằm đều là tu thiền chứ không nhất thiết chỉ có ngồi. Ngày xưa chính Lục Tổ Huệ Năng cũng nói rằng nếu có nhập thiền và có xuất thiền thì tâm chưa phải là đại định. Đối với tư tưởng Duy Ma Cật thì tất cả mọi sinh hoạt hằng ngày đều là thiền. Tu thiền là tu trong mọi sinh hoạt của cuộc sống cho nên khi gặp thuận cảnh thì lòng không tham đắm và lúc đối diện với nghịch cảnh thì tâm không dao động, sợ hãi, đau khổ hay chán chường. Vì thế không nhất định chỉ có buổi sáng hay ban đêm mới thiền mà trong 24 tiếng đồng hồ mỗi khi lục căn tiếp xúc với lục trần mà không cho vô minh vọng chấp dấy khởi làm Tham-Sân-Si không có cơ hội phát tác khiến tâm được thanh tịnh thì mới là thiền.

Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi tay cầm lưỡi gươm đang bốc lửa chính là lưỡi gươm vàng trí tuệ để chặt đứt những xiềng xích bó buộc của vô minh phiền não. Vì tầm quan trọng đó mà chính Đức Phật cũng dạy rằng:

- Thanh kiếm trí tuệ không bao giờ rời tay, đó mới là chiến sĩ. Một chiến sĩ vào trận mà bỏ kiếm, đi tay không thì sẽ bị giặc (phiền não) bắt ngay.

Không riêng gì Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi cầm trên tay thanh gươm trí tuệ mà tất cả chúng ta nếu muốn diệt vô minh vọng chấp thì cũng phải trang bị cho mình thanh gươm quý báu nầy. Nếu có người làm ta bất bình nổi nóng mà chúng ta vẫn trầm tỉnh an vui là trên tay còn thanh kiếm báu. Nếu đối diện với cuộc sống mà còn buồn phiền, lo lắng, đau khổ, tật đố là thanh kiếm trí tuệ bị bỏ rơi xuống đất rồi. Còn thản nhiên bình tĩnh thì tay vẫn còn cầm thanh kiếm. Vì thế thiền là giữ đừng cho tâm chạy tán loạn mà sanh ra vọng tưởng. Đa số con người có bệnh “lo ra”. Ngồi ở đây mà cứ lo nghĩ chuyện ở bên Tàu, bên Tây. Do đó muốn tâm được tự tại thì tới giờ ăn thì chỉ lo ăn chớ đừng tính toán việc sinh kế nầy nọ. Khi đi ngủ thì cứ đi ngủ, đừng có nghĩ chuyện lời lỗ, hơn thua. Tập được như vậy là chúng ta tập làm chủ tâm mình. Đây chính là yếu tố chính để chúng ta thành công trong mọi lãnh vực.

Việt Nam Trần Thánh Tông là vua thứ hai của nhà Trần vì nghe danh Trần Quốc Tảng là bậc đại sĩ nên nhà vua tôn ông làm sư huynh và tặng hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Thượng Sĩ là con đầu của Trần Liễu và là anh cả của Hoàng Thái Hậu. Trần Cảnh là em của Trần Liễu sau lấy vua Lý Chiêu Hoàng lúc mới tám tuổi, được vợ nhường ngôi trở thành Trần Thái Tông. Khi Lý Chiêu Hoàng được 19 tuổi mà không con nên Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu là Thuận Thiên tức là chị dâu lúc đó đang mang thai và phong làm Hoàng hậu làm cho Trần Liễu phẩn uất nổi loạn. Thượng Sĩ là thầy của Thái tử Trần Khâm tức vua Trần Nhân Tông. Sau khi thắng quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử xuất gia và lập ra phái Trúc Lâm. Tuy là một cư sĩ nhưng ông rất tinh thông giáo pháptu hành đến chỗ vô phân biệt. Một hôm, Thái tử Trần Khâm hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ:

- Bạch Thượng Sĩ! Thế nào là chủ yếu của người tu thiền?

Thượng Sĩ đọc một câu thơ:

- Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.

Câu nầy có nghĩa là người tu thiền phải biết quay lại soi sáng mình thì đó là phận sự chính chớ không phải từ ngoài mà được.

Ngồi yên ở trong tam giới mà không hiện thân ý mới là ngồi thiền.

Người ngồi thiền thì yên lặng, chăm chú quán hơi thở nên miệng không nói vì thế trong bộ ba Thân-Khẩu-Ý thì khẩu đã tịnh nên chỉ cần giữ thêm thân và ý. Không hiện thân ý là đừng quan tâm, chú ý tới thân và ý mà hảy quên mình sống vì người để đạt đến trạng thái vô ngã. Luôn sống với Chánh Niệm và khi làm việc gì thì chủ tâm để ý đến việc ấy chớ đừng để tâm chạy tới chạy lui làm vọng thức mê lầm có cơ hội phát sinh. Nếu chúng ta đọc sách thì chỉ nên để tâm vào cuốn sách, nếu đang lái xe thì đừng quan tâm đến chuyện ở nhà và nếu nấu cơm mà để tâm lo trả lời điện thoại thì ăn cơm cháy là chắc. Bây giờ ngồi yên trong tam giới mà không hiện thân ý có nghĩa là con người tuy sống trong tam giới mà tâm và ý không chạy theo tam giới tức là không tạo nghiệp, không dính mắc trong ba cõi để khỏi phải chịu sinh tử luân hồi. Thân và tâm không động thì đó mới thật là ngồi yên.

Diệt Tận ĐịnhPhạn ngữ là Nirodha Samapatti là phương pháp tu Định để diệt hết hai uẩn Thọ và Tưởng nên thân tâm không còn cảm xúctư tưởng. Vì thế khi các vị A La Hán nhập Diệt Tận Định thì tuy thân còn chút hơi ấm mà không còn hơi thở và họ ngồi lặng lẽ như chết. Vào thời Đức Phật, một hôm vào mùa hè oi bức Đức Phật đang tọa thiền trong lều của những người làm ruộng. Khi ấy có cơn mưa giông rất lớn tạo ra sấm sét đánh chết người và trâu nhưng Ngài không hề hay biết. Khi Đức Phật xả thiền thì thấy mọi người xôn xao mổ trâu để làm thịt. Đức Phật mới hỏi lý do thì họ hỏi Ngài:

- Lúc nãy mưa to, sét đánh chết người chết trâu. Khi ấy, Ngài ngồi ở đâu?

Đức Phật trả lời:

Như Lai ngồi trong lều cỏ nầy.

- Ngài ngủ hay thức?

Như Lai không ngủ.

- Không ngủ sao Ngài không nghe.

Thì ra lúc đó Ngài đang nhập định (Diệt Tận Định) nên quên hết mọi chuyện bên ngoài.

Do đó khi đứng dậy hay đi đứng thì phải xả Diệt Tận Định, nhưng ở đây ông Duy Ma Cật muốn phá cái chấp ngồi yên mới là thiền nên cho dù không cần xả Diệt Tận Định mà tất cả mọi hành động như đi, đứng, nằm, ngồi thì mọi cảm xúctư tưởng vẫn như như bất động, không còn khởi vọng. Con người làm chủ thân tâm chứ không chạy theo trần cảnh bên ngoài. Đừng chấp có Định phải chứng và cũng đừng chấp có Thọ, Tưởng phải diệt mà cứ an vui tự tại trong mọi sinh hoạt hàng ngày miễn sao tâm đừng ô nhiễm thì đây chính là Như Lai thiền vậy. Như Lai thiền thì không nhất thiết phải ngồi mới có thiền mà tất cả mọi hoạt động như đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền cả.

Trong thế gian việc làm của kẻ phàm phu là họ làm bất cứ việc gì cũng đều có tính toán lời lỗ trong đó. Buôn bán thì muốn buôn may bán đắc để được giàu. Làm công sở thì muốn được thăng quan tiến chức…nhưng ông Duy Ma Cật nói rằng làm mọi việc như kẻ phàm phu mà không xao lãng đạo phápcon người có thể làm bất cứ việc gì mà lúc nào cũng giữ Chánh niệm, không để tâm chạy theo trần cảnh mà bị ô nhiễm. Thí dụ như khi đi làm công sở thì cứ tận tâm làm việc, hoàn thành công việc thật hoàn mãn mà đừng đặt nhiều tham vọng vào việc thăng quan tiến chức thì thân tâm sẽ an vui tự tại. Việc đến sẽ đến nếu ta xứng đáng thì có ngày sẽ được thăng quan. Không hại người để lợi cho mình, giàu mà không tham và nghèo mà không than khổ là sống theo đạo pháp vậy. Vì thế một lần nữa con người có thể làm bất cứ việc gì mà đừng để tâm một nơi khác, không tham đắm ngũ dục lạc thì đây mới gọi là ngồi thiền.

Tâm không cột vào trong mà cũng không tản mạn ra ngoài mới là ngồi thiền.

Thông thường con người có hai trạng thái. Một là tâm ở trong, hai là thấy tâm chạy ra ngoài. Tâm mà thấy còn trụ ở chỗ nầy hay chỗ kia thì không phải là tâm thật. Còn tâm thật thì nó phải trùm hết chứ không phải chỉ có ở trong hay ở ngoài. Vì thế nếu tâm không cột vào trong mà cũng không tản mạn ra ngoài chính là sống với chơn tâm, với Phật tính, với tự tánh thanh tịnh của mình. Đây mới chính là ngồi thiền vậy. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, khi nói về Chơn Tâm, Phật gạn hỏi ông A Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm. Tôn giả A Nan nói tâm ở trong, tâm ở ngoài, tâm ở chính giữa, tâm núp trong con mắt, tâm là sự suy nghĩ, ngay cả tâm là cái không dính mắc…thì Phật bảo rằng ông nói sai. Con người vì có bệnh chấp nên nói tâm phải thường trụ một chỗ nào nhất định nên đây không phải là tâm thật. Khi bệnh chấp đã hết thì không còn thấy tâm trụ ở một chỗ nào mà nó bao trùm tất cả thì đây mới là chơn tâm. Vì chơn tâm là vô hình vô tướng, bao trùm, lan tỏa khắp mọi nơi thì làm sao thấy biết được mà nói là ở chỗ nầy hay chỗ kia.

Trước bao nhiêu tà kiến, bao nhiêu dị thuyết, bao nhiêu chuyện mê tín, hoang đườngtâm không lay động, không bị mê hoặc, cám dỗ, xiêu lòng, vững tâm trong 37 phần trợ đạo thế mới là ngồi thiền. Không khởi tâm đoạn trừ phiền nãovẫn có Niết bàn thế mới là ngồi thiền.

Đối với hàng Thanh Văn thì Tứ Diệu Đế là chiếc thuyền vững chắc đưa họ từ bờ mê sang bến giác. Muốn đạt đến Thánh đạo hàng Thanh Văn phải loại bỏ cho hết tà kiến, xóa tan những dị thuyết mê tín dị đoan, tu theo 37 phần trợ đạo để tâm được thanh tịnhchứng quả Niết bàn. Các vị A La Hán còn thấy có phiền não khổ đau nên mới cầu chứng đắc Niết bàn vì họ còn tâm phân biệt phiền nãoNiết bàn là hai. Bây giờ ông Duy Ma Cật dùng Chân Lý Bất Nhị để giúp họ quay về sống với Lý Tánh Tuyệt Đối của nhân sinh vũ trụ mà thấy rằng phiền não tức Bồ-đề và sinh tử tức Niết bàn. Dựa theo Chân Lý nầy thì người tu thiền không cần lìa bỏ thế gian mà vẫn được giải thoát giác ngộ bởi vì đạo và đời vốn không hai tức là bất nhị. Không một ai sống trong thế gian nầy ngay cả Đức Phật có thể tách rời đạo và đời được. Một chén cơm chúng ta ăn, bộ quần áo chúng ta mặc, chiếc xe chúng ta lái, cái nhà chúng ta ở là từ xã hội mà có. Ngay cả những nhà tu khổ hạnh lên tận núi tuyết sơn nếu họ không có người cung cấp thực phẩm, dụng cụ thì làm sao sống nổi để tu. Do đó chân lý bất nhị của ông Duy Ma Cật là đạo và đời tuy hai nhưng mà một, bất khả phân ly. Cái nầy tương trợ cho cái kia, trong hai thiếu một thì cuộc sống thiếu thăng bằng. Vì thế Phật mới dạy rằng:”Vì có phiền não nên có Bồ-đề, có sanh tử mới có Niết Bàn, có luân hồi mới có giải thoát, có chúng sinh mới có Phật”. Một khi chúng sinh không còn chấp có phiền não phải diệt, Niết bàn phải chứng mà cứ tự tại tu hành thì tâm địnhtrí tuệ sẽ sáng soi. Lúc ấy phiền não tự diệt và Niết bàn tự hiện bày.

Vì thế thiền định là quay vào bên trong để nghe rõ tiếng nói của Tâm tức là phản quan tự kỷ. Mà con người chỉ có thể nghe được những âm thanh huyền diệu nầy khi thân và tâm đã hoàn toàn thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt không còn Tham-Sân-Si quấy phá. Tâm định thì trí tuệ Bát nhã sẽ phát sinh và lúc đó con người sẽ thấy mình và chúng sinh không còn sự khác biệt nữa. Mình và chúng sinh bây giờ cùng một Thể tức là một thì mới có thể vào thế gian để cứu đời, độ đời, thực hành Bồ-tát đạo sống đời vị tha vô ngã.

Bạch Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất thưa. Sau khi con nghe những lời như thế, con lặng người ra gần như sảng sốt, chẳng trả lời được với ông Duy Ma Cật câu nào. Vì vậy con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh.

Tôn giả Xá Lợi Phất tu theo Sự Tướng Tương Đối nên bị cư sĩ Duy Ma Cật đem Lý Tánh Bản Thể Tuyệt Đối ra chất vấn nên không trả lời được. Mặc dù ông Xá Lợi Phấttrí tuệ đệ nhất của hàng Thanh Văn cũng không thể nào sánh bằng trí tuệ của Bồ-tát được. Hàng Thanh Văn tuy đã phá được chấp ngã nhưng họ vẫn còn kẹt trong vòng tương đối của chấp pháp. Đó là còn chấp có phiền não phải diệt, có Niết bàn phải chứng, có pháp môn để tu…nên chưa đạt đến Lý Tánh Tuyệt Đối tức là không còn chấp Có, chấp Không, tuy hai nhưng mà một, là bản Thể Chân Như, là tự tánh thanh tịnh muôn đời.

Vì những lý do nầy mà tôn giả Xá Lợi Phất không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh cư sĩ Duy Ma Cật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12078)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10777)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15357)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11259)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12120)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10629)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14853)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12778)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18028)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11183)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13070)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15327)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant