Chương Thứ
Sáu
Phẩm Bất
Tư Nghì
(The Inconceivable
Liberation)
Bất
khả
tư nghì có nghĩa là vượt ra ngoài những khái niệm suy
tư phân biệt về sự hiểu biết thông thường của con người.
Vì thế sự kiện bất khả tư nghì cũng được hiểu là những
hiện tượng chưa từng có, chưa từng xảy ra mà nay có.
Dựa
trên định nghĩa trên thì ông Duy Ma Cật là người bất tư
nghì. Ông thuyết bất tư nghì pháp và trình diễn bất tư
nghì cảnh cho bất tư nghì đại chúng để khởi động bất
tư nghì tâm.
Ông
Xá lợi Phất thấy trong tịnh thất không có giường cũng
chẳng có chiếc ghế nào. Ông bèn khởi ý nghĩ: Tịnh thất
trống trơn như thế nầy, chư Bồ-tát và Thanh Văn chúng tôi
sẽ ngồi vào đâu?
Biết
ý nghĩ của ông Xá Lợi Phất, trưởng giả Duy Ma Cật bèn
hỏi:
- Thưa
ngài Xá Lợi Phất! ngài vì pháp đến đây hay vì chỗ ngồi
mà đến?
- Tôi
vì pháp mà đến chớ không phải vì chỗ ngồi. Ngài Xá Lợi
Phất đáp.
Trưởng
giả Duy Ma Cật là người giàu có, vợ con tôi tớ đầy nhà
nhưng ông dùng thần thông làm cho bàn ghế biến mất chỉ
còn căn tịnh thất trống không. Nhà trống không tiêu biểu
cho tâm thanh tịnh và bàn ghế biến mất là ám chỉ cho vạn
pháp giai không. Muốn thấy được Chân lý, chúng sinh bên trong
phải phá cho được ngã chấp và bên ngoài đánh tan mọi pháp
chấp thì tâm được như như bất động.
Người
Phật tử thông thường thì đến chùa lạy Phật vì thấy
chùa đẹp, Phật to. Đây chỉ là phương tiện để gieo duyên
dành cho những người sơ cơ có cơ hội quy y trở về với
đạo Phật và chưa thấu hiểu đạo lý huyền diệu của liễu
nghĩa Đại thừa. Vì chùa to, Phật lớn chỉ là Phật Tướng
sinh diệt mà Phật tâm tức là tự tánh thanh tịnh bản nhiên
bất sinh bất diệt mới quan trọng. Phật tánh là Bản Thể
chân không thì không hình tướng, màu sắc, kích thước, trọng
lượng thì đã có sẳn trong tâm của tất cả mọi chúng sinh.
Vì thế chỗ ngồi, nơi lạy Phật là sắc tướng sinh diệt
thì quan tâm làm gì cho nên khi về chùa thì ngồi đâu cũng
được thậm chí ngồi ngoài hiên mà tâm thanh tịnh thì vẫn
thông đạt giáo pháp như thường. Cầu pháp là tu học để
thấy được Phật tâm của mình mà có được giải thoát
giác ngộ thì mới là cứu cánh. Do đó từ nay về chùa nghe
Pháp mới là cứu cánh chớ đừng quan tâm đến cơm chay hay
cảnh chùa to Phật lớn vì người Phật tử đến với Tam
Bảo thì chùa to, chùa nhỏ có khác gì nhau. Tuy nhiên cổ
nhân cũng có câu:”Chùa đất Phật vàng” nghĩa là tuy là
chùa tranh vách lá nhưng lại có cao Tăng đắc đạo.
- Thưa
ngài Xá Lợi Phất! người thực tâm cầu pháp, thân mạng
còn không đáng tiếc hà huống phải quan tâm nghĩ đến chỗ
ngồi. Cầu pháp phải quên đi cái thân ngũ uẩn. Cầu pháp
phải đóng bít kín lục căn, cắt dứt lục trần và vô hiệu
hóa tất cả lục thức.
Đi
nghe pháp cốt là để học chánh pháp, hành chánh pháp và sống
đúng theo chánh pháp vì thế người cầu pháp cho đến thân
mạng của mình cũng không tham tiếc thì chỗ ngồi có xá gì.
Do đó khi đã sống đúng với chánh pháp thì không còn gì
để bám víu cả ngay cả chánh pháp cũng phải bỏ, quên đi
thì tâm không còn dính mắc và sẽ được an vui tự tại.
Lúc đó con người mới trở về được với Căn Bản Trí
tức là Vô Phân Biệt Trí nghĩa là thấy tất cả mà như không
thấy gì hết hay là như không thấy gì hết mà thật ra thấy
tất cả. Biết tất cả mà như không biết gì hết hay là
như không biết gì hết mà biết tất cả.
Cầu
pháp không cầu những phiền trược tương quan trong cõi Dục,
cõi Sắc và cõi Vô Sắc.
Tất
cả những pháp như sắc, tài, danh, lợi…là những pháp ràng
buộc con người vào trong các cõi Dục, cõi Sắc và cỏi Vô
Sắc thì không nên cầu.
- Thưa
ngài Xá Lợi Phất!
Người
cầu pháp không phải vì ham quả vị Phật.
Chúng
sinh đến chùa nghe pháp với tâm cầu một ngày nào đó sẽ
được thành Phật, nhưng đây chỉ là giáo lý phương tiện
Tiểu thừa, là giáo lý bất liễu nghĩa. Còn kinh điển giáo
lý liễu nghĩa tối thượng thừa thì cầu pháp là không cầu
gì hết vì bất cứ cầu việc gì cho dù đó là cầu thành
Phật thì cũng là tham. Dù là tham Bồ-đề, tham Niết bàn thì
vẫn là tham, vẫn còn dính mắc thì tự tánh thanh tịnh không
hiễn bày. Nếu vì tham mà cầu Bồ-đề, cầu Niết bàn, cầu
thành Phật…thì đã quên đi Bồ-đề, Niết bàn đã có sẳn
trong chúng sinh chớ còn ở đâu nữa mà cầu. Nói một cách
khác nếu cầu như vậy là chúng sinh đã bỏ mất quả vị
Phật của chính mình rồi. Một khi đã quên đi quả vị Phật
của mình tức là quên đi Phật tánh, quên đi tự tánh thanh
tịnh bản nhiên hay là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm của chính
mình thì tìm ở đâu cho có quả vị Phật. Vì thế chúng sinh
đi trên con đường Bồ-tát thì làm bất cứ việc gì có lợi
ích cho chúng sinh mà không cần phải cầu cho thành Phật. Khi
đạt đến đỉnh cao tột cùng của trí tuệ Bát nhã Ba-la-mật
thì chúng sinh nhận chân Chân lý tức là thành Phật. Cũng
như trăm ngàn con sông, con suối mà nếu có được nước trong
thì ánh trăng vẫn chiếu rọi được như thường. Và cho dù
đồi cao núi thẳm mà không có mây đen che lấp thì bầu trời
trong sáng như nhau. Nếu tâm hồn không còn phiền não vô minh
thì tự tánh Niết bàn tịch diệt hiện ra mà không cần mong
cầu trông đợi và khi Bồ-đề tự tánh đạt đến đỉnh
cao giác ngộ thì chúng sinh là Phật chớ Phật ở đâu nửa
mà cầu.
Tóm
lại, dựa theo Lý Tánh tuyệt đối thì Phật Bảo cũng không
cầu, Pháp Bảo cũng không đắc và Tăng Bảo cũng không trụ
bởi vì trong thế giới Chân không thì Phật, Pháp, Tăng vốn
là Một tức là Nhất Thể Tam Bảo thì đã có sẳn trong chúng
ta. Vì thế nếu chúng sinh bỏ được tâm mong cầu, không còn
ngã chấp, pháp chấp thì Chân lý sẽ hiện bày.
Cầu
pháp không phải vì đam mê giáo pháp.
Giáo
pháp của Như Lai chính là ba tạng kinh điển: Kinh tạng, Luật
tạng và Luận tạng cũng chỉ là phương tiện, là ngón tay
chớ không phải là cứu cánh giải thoát giác ngộ hay là ánh
sáng huyền diệu của mặt trăng. Nếu chúng sinh cầu pháp,
học kinh mà đam mê theo giáo pháp thì cũng như xuống bè rồi
ham mê chiếc bè mà quên đi cứu cánh là đến bờ bên kia.
Dầu giáo pháp có huyền diệu hay ho đến đâu cũng chỉ là
phương tiện mà chúng sinh có thực hành mới được thực
chứng tức là dùng bè để qua sông chớ không tham đắm say
mê chiếc bè. Cũng như nương theo ngón tay để thấy ánh trăng
chân lý và khi thấy được ánh sáng chân lý thì nên bỏ quên
ngón tay cũng như bỏ quên chiếc bè mới có thể bước được
lên bờ giác ngộ.
Cầu
pháp không phải vì cảm tình với chúng Tăng.
Người
Phật tử thường sống với cảm tình nên nghĩ rằng chỉ
đi chùa của mình và chỉ ủng hộ chùa hay thầy của mình
mà thôi. Nhưng thật ra cầu pháp là cốt để học chánh pháp,
hành chánh pháp và sống theo chánh pháp cho nên bất cứ vị
thầy nào nói đúng theo chánh pháp, đúng với chân lý và có
thể đem lại sự lợi lạc cho việc tu học của mình thì
chúng sinh thọ pháp. Cảm tình vì thương thầy, muốn bố thí
cúng dường để được gọi là thí chủ hạng nhất mà không
nghe được giáo pháp để tu tập hướng về giải thoát giác
ngộ là mê muội, là thiếu sáng suốt, là lổ lã, là tự
chuốc lấy khổ đau về sau.
Không
vì thấy Khổ mà cầu pháp. Không vì đoạn Tập mà cầu pháp.
Không vì chứng đắc Niết Bàn mà cầu pháp. Và cũng không
vì nguyên nhân chứng đắc Niết Bàn mà cầu pháp.
Tại
sao? Bởi vì pháp không phải hý luận.
Nếu
nói rằng ta vì thấy Khổ, vì đoạn Tập, vì chứng Niết
Bàn, vì tu Đạo mà cầu pháp thì pháp đó trở thành hý luận,
không phải cầu pháp.
Đối
với người tu tiểu thừa tức là giáo lý phương tiện thì
họ thấy có mình tu tức là còn chấp ngã, thấy có pháp môn
để tu, có chúng sinh để độ và còn Niết bàn để chứng
đắc tức là còn chấp pháp nên họ còn lanh quanh lẩn quẩn
trong thế giới của sắc tướng hữu vi nên không thể nào
chứng nghiệm thế giới thanh tịnh vô vi được. Nói chứng
đắc chứ thật ra không có chứng đắc gì cả. Tại sao? Cái
mà chúng ta gọi là chứng đắc chính là “bổn tính cố hữu”
hay “bản lai diện mục” tức là Phật Tánh vốn đã có
sẳn trong tất cả mọi người. Chúng sinh không thấy biết
nó là vì bị màng vô minh dày đặc che lấp. Nếu xóa tan được
màng vô minh hắc ám nầy thì ánh sáng huyền diệu của chân
lý sẽ hiễn hiện ra ngay. Nếu chúng sinh lìa xa tham đắm lợi
danh thì tự tánh Niết bàn xuất hiện mà không cần phải
cầu mong trông đợi gì hết. Đối với hàng tiểu thừa thì
họ nhìn đời tức là thế giới hữu vi tục đế bằng nhục
nhãn nên họ thấy sự sinh diệt vô thường của vạn pháp
khiến tâm bất tịnh mà cố tu để cầu chứng Niết bàn ngỏ
hầu tìm sự an vui tự tại. Trong khi đó giáo lý liễu nghĩa
tối thượng đại thừa thì nhìn thế giới vũ trụ bằng
trí tuệ Bát nhã ba-la-mật nên trong tướng Không chẳng có
cái gì gọi là Khổ, chẳng có cái gì là nguyên nhân của
sự khổ và dĩ nhiên tự tánh thanh tịnh bản nhiên luôn luôn
có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh thì Niết bàn còn dùng
vào đâu được mà cầu với chứng.
Thưa
ngài Xá Lợi Phất!
Pháp
là tịch diệt. Nếu biểu hiện qua hành vi sanh diệt thì đó
là cầu sanh diệt, chớ không phải là cầu pháp.
Pháp
là vô nhiễm. Nếu nhiễm ở pháp cho đến nhiễm Niết Bàn
thế là cầu nhiễm chớ không phải là cầu pháp.
Pháp
không năng hành, sở hành. Nếu dụng ý hành ở nơi pháp, đó
là cầu năng hành, sở hành chớ không phải cầu pháp.
Pháp
không có thủ xả. Đối với pháp mà có ý thủ xả, đó là
cầu thủ xả chớ không phải là cầu pháp.
Pháp
không có xứ sở. Nếu chấp nê xứ sở, đó là cầu xứ sở
chớ không phải cầu pháp.
Pháp
là vô tướng. Nếu dựa trên tướng để nhận biết, đó
là cầu tướng chớ không phải là cầu pháp.
Pháp
không được trụ. Nếu trụ ở nơi pháp, đó là cầu trụ
chớ không phải là cầu pháp.
Pháp
không phải là thấy, nghe, hiểu biết. Nếu biểu hiện qua
thấy, nghe, hiểu biết đó là cầu thấy, nghe, hiểu biết
chớ không phải cầu pháp. Vì vậy cho nên:
- Thưa
ngài Xá Lợi Phất! Nếu là người cầu pháp, đối với tất
cả không nên khởi ý niệm Cấu.
Pháp
là tịch diệt, không sanh diệt cho nên nếu để tâm thanh tịnh
thì sẽ được an nhiên tự tại. Pháp là vô nhiễm cho nên
nếu còn tham đắm ngay cả chứng đắc Niết bàn thì đó là
ô nhiễm. Pháp không tạo tác cho nên bất cứ việc gì có
lợi ích cho chúng sinh thì làm mà làm xong thì bỏ không nhớ
đến. Pháp không có thủ xả và xứ sở bởi vì người biết
nhập chủng Tánh đại thừa thì chỗ nào tu cũng được. Tu
nhà cũng tốt, tu chợ cũng hay và tu chùa cũng tiện. Thật
ra tu nhà hay tu chợ thì khó hơn tu chùa bởi vì ở nhà và
ở chợ thì gặp nhiều cảnh trái ý nghịch lòng và tiếp
xúc nhiều chúng sinh xấu ác nên có nhiều cơ duyên thực hành
Bồ-tát đạo. Pháp là vô tướng vì nếu còn chấp có tướng
giàu nghèo, cao thấp, đẹp xấu là tâm còn phân biệt, chấp
trước, không bình đẳng. Pháp không được trụ ở bất cứ
pháp môn nào mà phải tùy thuận theo chúng sinh mà hoan hỷ
hướng dẫn họ tu hành. Căn cơ chúng sinh sai khác nên nếu
ai thích niệm Phật thì cùng họ niệm Phật, ai muốn tham thiền
thì cùng họ tham thiền nhập định, ai muốn trì chú thì cùng
họ tu trì thần chú mật ngữ. Pháp môn nào cũng tốt cả
như trăm sông cùng đổ về biển lớn là giải thoát giác
ngộ.
Dựa
theo giáo lý Tiểu thừa tức là pháp sắc tướng sinh diệt
thì thấy cuộc đời khổ đau nên họ cầu vui, cầu hạnh
phúc. Mà có cầu, có xin là tâm còn tham đắm. Nhưng dựa theo
triết lý Đại thừa thì khi chúng sinh làm một việc thiện
thì chính họ đã có sự lợi ích rồi. Bởi vì làm việc
thiện thì tâm thức được tự tại, thân tâm được an vui
và dĩ nhiên luật nhân duyên quả báo sẽ tự động đền
bù cho họ những phước đức sau nầy cho dù họ có cầu hay
không. Thêm nữa chúng sinh thường hồi hướng việc làm tốt
của mình cho mọi loài chúng sinh để cùng sớm thành Phật
đạo. Một lần nữa tư tưởng nầy chỉ áp dụng cho giáo
lý tiểu thừa tức là giáo lý phương tiện vì chúng sinh còn
cầu mong sớm được thành Phật. Giáo lý tiểu thừa thì nương
vào năng cầu sở cầu, năng nguyện sở nguyện mà một khi
còn năng nở thì con người vẫn còn vướng mắc vào vòng
bất ý, bất toại nguyện. Ngược lại giáo lý liễu nghĩa
đại thừa thì không cần phải hồi hướng, không mong cầu
bất cứ việc gì ngay cả quả vị Phật vì bản nguyên chúng
sinh đã là Phật rồi.
Nói
tóm lại, cầu pháp theo tinh thần Đại thừa là không cầu
một cái gì hết vì nếu chúng sinh biết học chánh pháp, biết
hành chánh pháp và biết sống theo chánh pháp thì trong ta đã
có đầy đủ những đức tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh rồi.
Bởi vì các pháp không sanh không diệt nên nói là Thường,
lúc nào cũng an nhiên tự tại nên gọi là Lạc, là chủ sinh
là muôn pháp nên gọi là Ngã và không bị cấu nhiễm nên
gọi là Tịnh. Thêm nữa, Bồ-đề và Niết bàn là vô tại
vô bất tại tức là nó không có ở đâu hết mà không ở
đâu chẳng có Bồ-đề, Niết bàn. Nó không có trong con người
nào hết nhưng không có con người nào là không có Bồ-đề,
Niết bàn. Do đó kinh nói :”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật
độ tịnh” nghĩa là một khi tâm mình đã tịnh thì thế
giới chung quanh mình sẽ là cõi Tịnh độ. Vì thế nếu tâm
đã thanh tịnh thì có Bồ-đề, Niết bàn mà khỏi phải cầu
cái gì hết. Còn tâm không thanh tịnh thì có cầu cũng không
bao giờ có. Cũng như khi đào ao thì khỏi phải trông chờ
trăng sao gì hết, miễn là cái ao làm xong có nước trong đứng
lặng thì trăng sao sẽ rọi vào mà thôi.
Ông
Duy Ma Cật nói xong những điều trên, bấy giờ có năm trăm
thiên tử đối với các pháp có được cái nhận thức thanh
tịnh (đắc pháp nhãn tịnh).
Các
vị trời nhờ tu mười điều thiện mà có phước báo lành.
Nay nhờ nghe được những lời mầu nhiệm của ông Duy Ma Cật
mà thấy được thế giới của Bản Thể Chân Như thì
tâm không còn mong cầu tham đắm mà chỉ thực hành Bồ-tát
đạo cho được viên mãn. Họ như người mù được sáng,
người mê được tỉnh và thấy được chân lý.
Bấy
giờ ông Duy Ma Cật hỏi Bồ-tát Văn Thù rằng:
- Nhân
giả từng vân du vô lượng vô số cõi nước. Ngài biết cõi
Phật nào có tòa sư tử đẹp nhất do công đức trang nghiêm
thành tựu?
- Có.
Thưa cư sĩ. Bồ-tát Văn Thù đáp.
Ở
về phương Đông, từ đây phải trải qua ba mươi sáu hằng
hà sa nước, có thế giới tên Tu Di Tưởng, đức Phật ở
cõi nước đó hiệu Tu Di Đăng Vương đang trụ thế. Thân
Phật lớn hơn tám muôn bốn ngàn do tuần. Tòa sư tử của
Phật cũng cao tám muôn bốn ngàn do tuần, lộng lẫy trang nghiêm
bậc nhất.
Ông
Duy Ma Cật vận dụng hiện sức thần thông khiến ba muôn hai
ngàn tòa sư tử lộng lẫy trang nghiêm cao rộng tự chuyển
vào trong tịnh thất của ông trong khoảnh khắc.
Chư
Bồ-tát, các đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên nghĩ rằng việc
nầy từ trước đến nay chưa từng thấy. Chu vi ngôi tịnh
thất hữu hạn chừng ấy, lại bao dung cả ba muôn hai ngàn
tòa sư tử đồ sộ thế kia mà không chướng ngại gì nhau.
Thành Tỳ Xá Ly cũng có chừng mực phạm vi của nó thế mà
mọi hiện trạng đều y nguyên như cũ, không chật chội hơn
chút nào!
Cư
sĩ Duy Ma Cật bây giờ mới bắt đầu biểu diễn chân lý
Bất khả tư nghì giải thoát. Giải thoát Bất tư nghì là
sự giải thoát mà chỉ có một mình mình biết và một mình
mình hay mà thôi. Người kế bên cũng không hề cảm biết
ngoại trừ những bậc có trí huệ tức là trình độ nhận
thức chân lý và trình độ trí tuệ tu tập ngang nhau thì mới
biết được. Nhưng người học Phật nếu muốn thể nhập
sâu sắc chân lý huyền diệu nầy mà không bị rơi vào mê
tín dị đoan và có thể cắt nghĩa được những Bất Tư Nghì
Sự của Bồ-tát thi thố để hiểu đúng những Bất Tư Nghì
Pháp của Bồ-tát nói và có thể thật thấy mà không phải
thấy thật những Bất Tư Nghì Cảnh Giới mà Bồ-tát trình
diễn thì tuyệt đối không được khởi niệm tin rằng ông
Duy Ma Cật có tài phép biến hóa như một nhà ảo thuật hay
một vị thôi miên, phù thủy.
Bồ-tát
trụ trong Pháp Môn Bất Tư Nghì nên có thể làm tất cả việc
Bất Tư Nghì bởi vì Bồ-tát biết sử dụng Quán Trí Bất
Tư Nghì để thấy và biết rõ tánh duyên khởi huyền diệu
của vạn pháp. Vì thế khi nói đến Bất khả tư nghì mà
chúng sinh không vận dụng công phu trong việc “Tư Duy”
“Quán Chiếu” để thể nhập Thập Huyền Duyên Khởi thì
không thể nào hiểu đúng được tông chỉ mục đích của
kinh.
Thập
Huyền Duyên Khởi là mười sự duyên khởi huyền diệu của
tất cả vạn pháp trong thế giới nhân sinh vũ trụ nầy mà
được giải thích trong bộ Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao và bộ Tham
Huyền Ký của ngài Hiền Thủ. Đó là:
1)Đồng
Thời Cụ Túc Tương Ưng: Trong mỗi một pháp nào đồng thời
cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ.
Thí dụ một giọt nước có đủ của muôn ngàn sông biển.
2)Nhất
Đa Tương Dung Bất Đồng: Nghĩa là về số lượng, một và
nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau mà không phá hoại cái
tướng riêng biệt của mỗi vật. Thí dụ như có ngàn cây
nến đang cháy trong một gian phòng, nhưng ngọn đèn này lẫn
hiệp với ngọn đèn kia mà ngọn đèn nào cũng có ánh sánh
riêng của nó.
3)Chư
Pháp Tương Tức Tự Tại: Pháp nầy dung thông pháp kia và pháp
kia dung thông pháp nầy tức là trong pháp nầy hàm chứa chủng
tử của tất cả pháp kia và trong pháp kia có chứa chất liệu
chủng tử của chất nầy. Vì thế chủng tử của vạn pháp
trùng trùng duyên khởi cho nhau, tương tức tương nhập một
cách tự tại. Thí dụ như chất vàng với sắc vàng, hai pháp
ấy không rời nhau.
4)Quảng
hiệp tự tại vô ngại: Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa
hẳn là lớn. Một vật gọi là nhỏ, chưa hẳn là nhỏ. Nhờ
cái Lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mảy lông có thể
chứa cả càn khôn vũ trụ mà không chật. Nói một cách khác,
trong pháp giới, sự sự đã vô ngã, dung thông thì quan niệm
về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông.
5)Nhân
Đà La Võng Cảnh Giới: Nhơn-đà-la tức là phiên âm chữ Indra
là cõi trời Đế Thích. Theo Bà-la-môn giáo thì trên cõi trời
Nhơn-đà-la có các màn lưới bằng bửu châu; mỗi hạt bữu
châu chói hiện đến muôn trượng, hạt này, hạt khác chói
sáng lẫn nhau lớp lớp không cùng tận. Pháp môn nầy thì
cũng thế. Trong mỗi pháp có nhiều pháp khác và trong nhiều
pháp khác lại có nhiều pháp khác nữa. Cứ thế nhân mãi
lên cho đến vô cùng vô tận. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:”Tất
cả thế giới đều như thế giới màn lưới Nhơn-đà-la.
6)Vi
Tế Tương Dung An Lập: nghĩa là rộng hẹp tự tại vô ngại.
Dù vật nhỏ cách mấy như một mảy may hay ở một điểm
vi tế nào cũng hàm dung chất liệu của tất cả hiện tượng
vạn pháp. Thí dụ như một giọt nước thì bao gồm bởi nhiều
hạt nước, mà mỗi hạt nước gồm nhiều hóa chất. Mỗi
hóa chất gồm biết bao nguyên tử và mỗi nguyên tử thì gồm
nhiều điện tử và cái nhân. Mỗi thứ đều dung nhau và an
lập trong nhau.
7)Bí
Mật Ẩn Hiện Câu Thành: Nghĩa là một pháp có nhiều phương
diện, khi phương diện này hiện thì phương diện kia ẩn và
khi phương diện kia ẩn thì phương diện nầy hiện. Trong ẩn
có hiện, trong hiện có ẩn, ẩn hiện đắp đổi nhau mà thanh
tựu. Sự ẩn hiện cũng không nhất định cái nào sau cái
nào trước, cũng không ngăn ngại chống đối nhau. Thí dụ
có một pho tượng bằng vàng. Nếu chúng ta chú ý đến vàng
thì không chú ý đến cái đẹp của pho tượng. Ngược lại
khi chú ý đến cái đẹp của pho tượng thì không chú ý đến
chất vàng. Nói tóm lại, khi cái đẹp hiện thì vàng ẩn và
khi vàng hiện thì cái đẹp ẩn.
8)Mười
Đời Cách Pháp Dị Thành: Đây muốn nói thời gian mặc dù
cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai,
nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một cách
dễ dàng. Đáng lẽ ra chỉ nói quá khứ, hiện tại và tương
lai là đủ, nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi thì
Kinh chia làm mười đời. Đó là trong quá khứ cũng gồm có
quá khứ, hiện tại, vị lai, trong hiện tại và tương lai
cũng thế. Như vậy có tất cả chín đời, nhưng nếu chia
nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ
với nhau thì cũng không có ý niệm với thời gian. Vì thế
cho nên ngoài chín niệm riêng biệt cộng thêm một niệm tổng
quát thành ra mười.
9)Chủ,
bạn,viên minh công đức: Nếu ta lấy một pháp làm chủ thì
các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy công
đức, lớp lớp không cùng tận. Thí dụ như mặt trăng sáng
trên không trung chiếu rọi khắp sông ngòi, đồi núi, ao hồ
làm cho cảnh vật khắp nơi càng thêm rạng rỡ.
10)Thác
Sự Hiểu Pháp Sanh Giải: Nghĩa là nhờ Sự mà hiểu được
Lý, nhưng khi Lý đã rõ thì Lý lại lan rộng làm cho chúng
ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Thí dụ như vết dầu
lan ra trên mặt nước, chỉ một tia lửa có thể bừng cháy
rất xa.
Thập
Huyền Duyên Khởi giúp chúng sinh có được một cái nhìn sâu
xa về sự duyên khởi của tất cả vạn pháp trong thế gian
vũ trụ nầy. Theo tinh thần của Hoa Nghiêm thì giải thoát
mà vẫn không phá hoại thế gian tướng nghĩa là không phải
phủ nhận thế gian tướng mà có thể tìm thấy giải thoát
ở một nơi nào khác. Nói một cách khác nếu chúng sinh phân
biệt được chân, vọng để khử trừ điên đảo khiến cho
tâm được thanh tịnh thì có giải thoát. Có thấu hiểu Thập
Huyền Duyên Khởi thì khi đọc đến phẩm Bất Tư Nghì mới
không còn nghĩ rằng Bồ-tát làm những chuyện phi lý, ảo
tưởng, hoang đường.
Trong
Phật giáo thì sự phát triển trí tuệ tùy theo khả năng nhận
biết chân tướng của nhân sinh vũ trụ.
1)Đối
với phàm nhân thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng
nhục nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có
hình sắc, kích thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật.
Họ tin thân mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ
trụ là thật nên còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp
nên tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp
để phải chịu quả khổ đời đời.
2)Nhất
Thiết Trí: Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn
như phàm nhân mà họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy
thân mình là không thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội
nguồn của những nổi khổ nên họ cố tu để chứng đắc
sự an lạc của Niết bàn và tìm sự giải thoát quả vị
Bồ-đề. Chẳng những nhìn thân mình không thật mà họ còn
nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không thật nên chán ngán cuộc
đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế hàng Thanh văn
thì chấp ngã không còn tức là Ngã Không, nhưng vì còn thấy
có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có đạo quả
Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp
có. Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải
thoát tự tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ
nầy là Nhất Thiết Trí.
3)Đạo
Chủng Trí: Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian
vũ trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật
để thấy rằng ngũ uẩn giai không. Dưới mắt của họ thì
thế gian vũ trụ là do duyên khởi tạo thành nên tất cả
đều là giả huyễn, là không thật, là Không. Vì ta là giả,
là không thật nên họ có ngã không. Ta không thật thì người
và thế gian vạn vật cũng không thật nên họ có pháp không.
Nói một cách tổng quát dưới mắt của Bồ-tát thì thế
gian vũ trụ là Không. Mặc dù biết thế gian là Không, nhưng
Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên tâm không được hoàn
toàn tự tại và trí tuệ chưa hoàn toàn sáng suốt triệt
để nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí.
4)Nhất
Thiết Chủng Trí: Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị
Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không. Nếu bây giờ bỏ được
chấp Pháp có và chấp Không tức là không còn chấp có pháp
môn để tu, có Niết bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề
để thành và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không thì
có được trí tuệ viên mãn, dung thông tự tại mà nhà Phật
gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì
thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không
nhưng không phải là không của cái trống không. Vì vạn pháp
do nhân duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan
rã chia ly thì vạn pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên
hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà người
được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự tại trước
sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không
cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ
nhận tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp
nầy có mà không phải có thật. Mặc dầu không phải có thật
mà hiện giờ nó vẫn có vì thế nên người có Nhất Thiết
Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho
tất cả chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có thật. Đây
chính con đường trung đạo dung thông giữa cái Có và cái
Không và chỉ có Phật mới đạt được cái trí tuệ nầy.
Khi
Bồ-tát trụ Bất Tư Nghì Giải Thoát để làm những việc
Bất Tư Nghì là cách vận dụng ngôn ngữ để chuyên chở
trí tuệ Bất Tư Nghì của con người đã thành tựu Nhất
Thiết Chủng Trí tức là trí huệ của một vị Phật, của
một bậc Chánh đẳng Chánh giác.
Cách
nay trên mấy ngàn năm khi khoa học chưa phát triển như ngày
nay mà Đức Phật Thích Ca đã cho chúng sinh một khái niệm
về thế giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận. Ngài thường
ví mỗi thế giới như một hạt cát của sông Hằng. Trong
kinh nầy Bồ-tát Văn Thù đại diện Phật mà nói rằng ở
về phía hướng Đông cách trái đất của chúng ta ba mươi
sáu lần cát của sông Hằng thì có một quốc độ là Tu Di
Tưởng và Đức Phật hiệu là Tu Di Đăng Vương Như Lai.
Kinh
điển Phật giáo Đại thừa, mỗi khi giới thiệu một vị
Phật hay một vị Bồ-tát thì kinh thường ám chỉ một đức
tính cao quý, một ý nghĩa thiêng liêng huyền diệu như trong
phẩm Bồ-tát có nói đến Đức Nan Thắng Như Lai. Trong phẩm
nầy, kinh lại giới thiệu Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai nghĩa
là ngọn đèn vua tức là ngọn đèn sáng nhất, chiếu soi xa
nhất và cao nhất trên núi Tu Di. Nhưng thật ra tất cả những
đức tính trên là muốn ám chỉ cho Chân tâm, Phật tánh bất
sanh bất diệt sáng soi vô cùng vô tận có sẳn trong tất cả
mọi chúng sinh.
Mỗi
tòa sư tử cao rộng 84,000 do tuần mà một do tuần dài 30 km.
Cho nên tòa sư tử cao rộng 2,520,000 cây số vuông. Vậy mà
ông Duy Ma Cật dùng sức thần thông đem về 32,000 tòa sư tử
cao rộng như thế và đặt hết vào trong cái tịnh thất của
ông, ngay cả thành Tỳ Xá Ly và xóm làng cũng không chật chội
hơn chút nào.
Dựa
trên sự kiện này, kinh Duy Ma Cật muốn nói gì đây? Và chúng
ta là người Phật tử phải tin hiểu cách nào?
Tại
sao đem 32,000 tòa sư tử to lớn như thế mà đặt vào tịnh
thất cho được? Phải chăng đây là chuyện ảo tưởng, hoang
đường?
Bồ-tát
trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu
Bát nhã ba-la-mật. Tất cả những vật chất trong thế gian
nầy mà kinh Lăng Nghiêm gọi là Sắc thì gọi là địa đại.
Khi Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát cũng giống như Quán
Tự Tại Bồ-tát trong Tâm Kinh đã xác định rằng:” Quán
tự tại Bồ-tát hành thâm bát nhã ba-la-mật đa thời chiếu
kiến ngũ uẩn giai không”. Vì thế ông Duy Ma Cật cũng hành
thâm bát nhã ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không
để thấy sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc và
sắc tức là không và không tức là sắc, thọ tưởng hành
thức cũng như vậy. Trong khi đó kinh Lăng Nghiêm cũng nói thêm
rằng:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh
bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở
ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Khi Bồ-tát đã
có trí tuệ sáng suốt triệt để thì họ nhìn sắc tức là
không. Không ở đây chính là đương thể bất không tức là
không chẳng khác sắc. Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh
tịnh bản nhiên nhưng sở dĩ nó có là tùy theo tâm lượng
hay theo sự yêu cầu của chúng sinh mà ứng hiện. Cho nên nếu
Bồ-tát có tâm cầu cở nào thì nó phát hiện cở ấy còn
không cầu thì nó không có. Nói một cách khác là Bản Thể
của vật chất là Không nghĩa là Sắc tức là Không.
Nếu
đứng về phương diện sắc Tướng thì mới có sự phân biệt
cao thấp, to lớn, rộng hẹp. Nhưng ở đây kinh muốn nói đến
Thể Tánh tức là tánh Không của Bát nhã thì làm gì có lớn
nhỏ, cao thấp. Tánh Không thì không có hình tướng, kích thước
nên tất cả vạn pháp dung thông rất tự tại. Thể Tánh,
Chân Không tức là Phật Tánh, Chơn Tâm là tâm thanh tịnh bản
nhiên của tất cả chúng sinh. Chính cái Chơn Tâm có khả năng
chuyển biến xoay vần, duyên khởi tác dụng vạn pháp vào
nhau hình thành một cách mầu nhiệm mà chúng ta gọi là thần
thông biến hóa. Ngày xưa các vị đại đệ tử của Phật
như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... sau khi đã được tâm
thanh tịnh thì tự nhiên họ cũng phát hiện những thần thông
tự tại. Còn ở đây ông Duy Ma Cật đã thành tựu Nhất Thiết
Chủng Trí tức là trí tuệ của một vị Phật thì khả năng
thần thông biến hóa còn xa biết bao, không thể nghĩ bàn.
Thêm
nữa, muốn đừng hiểu đây là chuyện phi lý, hoang đường,
thần thoại thì chúng sinh phải biết Quảng Hiếp Tự Tại
Vô Ngại tức là rộng hẹp tự tại vô ngại mà tư duy quán
chiếu về Thập Huyền Duyên Khởi để hiểu hiện tượng
nầy bằng trí, thấy bằng trí cho nên thấy thật chân lý
mà không phải thật thấy. Không thật thấy vì không thể
nào đặt 32 ngàn tòa sư tử vào trong cái tịnh thất được,
nhưng chúng có thể thấy thật là vì chúng ta thấy hiện tượng
nầy bằng trí vì Nhất Đa Tương Dung tức là một và nhiều
tương dung nhau, Chư Pháp Tương Túc Tự Tại nghĩa là cái nầy
là cái kia và cái kia có cái nầy, Đồng Thời Cụ Túc Tương
Ứng tức là một pháp có đủ, chất liệu của vạn pháp.
Vi
Tế Tương Dung An Lập là bất cứ vật chất nào trong thế
giới vũ trụ nầy thì cái nhỏ (vi tế) vẫn tương dung trong
cái lớn và ngược lại tức là nếu chúng ta lấy một mẫu
cực nhỏ của vật chất thì nó cũng bao hàm tất cả những
đặc tính của vật chất ấy cho dù vật chất nầy to lớn
như hành tinh vũ trụ. Thí dụ như khoa học ngày nay, chúng
ta chỉ cần lấy một mẫu DNA của bất cứ con người, súc
vật hay vật chất nào thì mẫu DNA nầy là bao gồm tất cả
những tính đặc thù của vật chất đó. Bây giờ hãy quan
sát pháp Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng môn. Đó là bất
cứ một vật gì trong thế gian vũ trụ nầy cũng bao hàm đầy
đủ tất cả những chất liệu của vạn pháp và tự nó ứng
hợp, duyên khởi mà hình thành. Nói một cách khác bất cứ
vật chất gì cũng từ lục đại duyên khởi mà ra. Đó là
chúng phải có đầy đủ đất, nước, gió, lửa, không gian
và thức mà duyên sanh và khởi sanh để tạo thành con người,
cây cỏ, nhà cửa, áo quần, xe cộ, ly chén, bát đỉa, thức
ăn thức uống và hành tinh vũ trụ. Khi nói là vật và tâm
nhưng Bản Thể của chúng vẫn là một. Vật là hình tướng
và tâm là năng lực để hình tướng có thể hoạt động.
Thí dụ như khi cầm cái ly thì cái ly nầy đã có đủ đất,
nước, gió, lửa, không khí và thức (năng lực) để duyên
khởi mà kết thành cái ly. Còn nếu đem cái ly ra phân tích
dựa theo khoa học thì nó có biết bao hóa chất như khoáng,
nước, khí, đồng, kẻm, chì, oxgen…hợp lại. Bây giờ chúng
ta nên biết pháp Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng nghĩa là một
là một của tất cả và tất cả là tất cả của những
cái một dung nhiếp quyện chặt vào nhau. Nói một cách khác
một là tất cả và tất cả là một. Trong thế giới vô cùng
vô tận nầy thật ra cũng bắt đầu từ những vật chất
rất vi tế mà duyên khởi tác tạo hình thành. Đây chính là
sự biến hiện thay đổi của không gian và thời gian.
Ngày
nay khoa học đã chúng minh sự hình thành của tất cả thế
giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng bắt nguồn từ sự
nổ tung của một vi tử mà khoa học gọi là Vụ Nổ Lớn
(The Big Bang) cách nay khoảng 13.7 tỷ năm về trước. Theo lý
thuyết nầy thì tất cả vật chất và năng lượng được
chất chứa trong một vi tử cực nhỏ, nhỏ hơn cả kích thước
của một nguyên tử. Điểm vi tử nầy có mật độ vật chất
và nhiệt độ vô hạn lớn hàng tỷ tỷ độ C (lớn hơn 1030
độ C). Vì chịu áp xuất quá lớn và độ nóng cùng cực
nên vi tử nầy bị nổ tung và từ đó không gian từ từ mở
rộng dựa theo tiến trình nguội dần của những phần phân
tán vi tử. Dựa theo sự đo lường của khoa học thì
khoảng 300,000 năm sau đó thì những nguyên tử mới được
hình thành và nhiệt độ vẫn còn nóng đến 10,000 độ C.
Khoảng một tỷ năm sau đó thì khí Hydrogen và Helium mới được
tạo tác và những đám mây cũng như hành tinh bắt đầu xuất
hiện và lực hút quân bình giữa các hành tinh cũng hình thành.
Khi nhiệt độ giảm dần thì không gian cũng từ từ nới rộng
và những dãy thiên hà cũng vì thế được kiến tạo cho đến
ngày nay. Hiện nay thì vũ trụ vẫn còn trong trạng thái nới
rộng nên sẽ có nhiều dãy thiên hà mới được tạo dựng.
Khi không gian được mở rộng cùng với thời gian làm cho các
dãy thiên hà di chuyễn xa nhau hơn. Để có một cái nhìn đơn
giản về sự hình thành của nhân sinh vũ trụ, các khoa học
gia đã giới thiệu cuốn Lịch Vũ Trụ (the Cosmic Calender) như
sau: Bắt đầu từ ngày một tháng giêng thì vi tử nổ tung
(The Big Bang) và dãy Ngân Hà (Milky Way) được tạo thành ngày
31 tháng giêng. Mãi đến tháng tám thì Thái dương hệ (Solar
System) mới hình thành. Nhưng khoảng ngày 16 đến ngày 17 của
tháng tám thì cuộc sống của các sinh vật mới hiện hữu
trên trái đất nầy. Và sau đó loài người được hình thành
ngày 31 tháng tám. Nhưng trong tương lai khi vũ trụ giản nở
đến một kích thước cực đại thì nó sẽ bắt đầu co
lại. Dấu hiệu của tận thế là khi tất cả các hành tinh
và vũ trụ từ từ nguội dần và tắt hẳn cũng như mặt
trời trong thái dương hệ không còn cháy và toàn thái dương
hệ sẽ chìm trong bóng tối. Thế giới sẽ trở thành băng
giá và tan biến vào tháng ngày 16 tháng năm năm tới của Lịch
Vũ Trụ. Sau đó, vũ trụ sẽ trở nên đặc hơn, nóng hơn
và sau cùng thu gọn bằng một vi tử như lúc ban đầu. Những
tôn giáo thờ phượng Thượng đế thì họ lý luận rằng
nếu thế gian vũ trụ bắt đầu từ một vi tử thì đây chính
là điểm khởi đầu tức là thỉ? Nếu đã có thỉ thì Phật
giáo làm sao giải thích nguyên lý vô thỉ vô chung? Chẳng những
thế mà họ còn tự nhận Thượng đế chính là vi tử trên
đã sáng tạo ra tất cả. Chỉ có Phật giáo là có quan niệm
rất chính xác và tương đồng với khoa học vì Phật giáo
xác định vũ trụ là vô thỉ vô chung tức là không có điểm
bắt đầu hay có ngày cùng tận mà chẳng qua là những chu
kỳ duyên khởi sinh diệt mà thôi. Vi tử nổ tung tạo thành
vũ trụ và khi vũ trụ thu trở lại thì sẽ thành vi tử. Chu
kỳ nầy xảy ra vô cùng vô tận thì cái nào là cái bắt đầu?
Còn nếu nói Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ thì sau bao nhiêu
tỷ năm vũ trụ thu dần nhỏ lại thành vi tử thì ai chịu
trách nhiệm cho việc nầy? Thánh kinh xác định là Thượng
đế đã tạo ra trái đất nầy khoảng mười ngàn năm, nhưng
ngày nay khoa học đã chứng minh trái đất hiện diện trong
vũ trụ nầy gần năm tỷ năm rồi. Nếu nói chỉ có mười
ngàn năm thì làm sao nói xưa như trái đất được! Tóm lại,
khoa học cũng chứng minh rằng khi đũ nhân duyên thì từ một
vi tử mà sanh ra vũ trụ và khi hết nhân duyên thì vũ trụ
bao la vô cùng vô tận cũng trở về thành một vi tử mà thôi.
Hiện
tượng nầy không có gì xa lạ đối với Phật giáo. Đó chính
là bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến của Pháp giới
duyên khởi của đại thừa. Khi nhân duyên hòa hợp thì tạo
thành con người và vũ trụ nghĩa là bất biến mà tùy duyên.
Còn nhân duyên tan rã thì con người, vũ trụ sẽ trở về
với bản thể ban đầu tức là tùy duyên mà bất biến. Thế
thì đâu có cái gì Có và Mất đâu. Đây chẳng qua là tiến
trình của Duyên Khởi mà thôi.
Khoa
học thì cũng chứng minh như thế. Nguyên lý bảo tồn năng
lượng xác định rằng năng lượng luôn luôn được bảo
tồn tức là năng lượng không bao giờ mất mà chỉ thay hình
đổi dạng (dU=dQ-dW). Thí dụ như chúng ta mở cái nút điện
thì đèn sáng nghĩa là năng lượng chuyển từ điện năng
sang quang năng. Một thí dụ khác là khi mở máy xay sinh tố
thì máy chạy nghĩa là năng lượng chuyển từ điện năng
sang cơ năng. Cũng như nước chảy của đập thủy điện là
cơ năng làm cho các trục biến điện di động tạo thành điện
năng. Một nguyên lý thứ hai của vật lý học xác định rằng
tất cả tổng số sự bất ổn của vật chất luôn luôn tăng
trưởng nghĩa là vật chất sẽ hư hoại, tan biến dựa theo
thời gian (Q/T≥0). Đây chính là luật vô thường vô
ngã của nhà Phật vậy.
Vì
có Nhất Thiết Chủng Trí nên ông Duy Ma Cật có thể hiểu
biết tất cả các pháp và Thể Tánh chân thật của nó. Khi
sử dụng Nhất Thiết Chủng Trí thì ông Duy Ma Cật thấy,
biết rõ ràng một pháp có đủ chủng tử, chất liệu của
vạn pháp và tự nó ứng hợp lại với nhau mà hình thành.
Pháp nầy hàm chứa chủng tử của pháp kia và chủng tử của
vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau. Mặc dù một pháp
là yếu tố cấu tạo nên vạn pháp nhưng tướng một pháp
và tướng vạn pháp vốn không hai mà cũng không phải là một
tức là bất nhị. Thêm nữa, ông Duy Ma Cật quán chiếu Nhân
Đà La Võng Cãnh Giới để thấy biết vạn pháp tương ứng,
tương túc và tương nhập tác dụng lẫn nhau như sự ánh hiện
trùng trùng phản chiếu vô cùng vô tận. Do đó khi đem 32 ngàn
tòa sư tử to lớn như thế vào nhà mà không hề bị chật
hẹp đó chính là Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại. Tất cả
những tòa sư tử vì không có tướng trạng mà chỉ là tư
tưởng nên chúng không bị giới hạn bởi không gian hữu hạn
nên không bị chật hẹp. Chân tâm thì vô cùng vô tận, không
những đem 32 ngàn tòa sư tử mà có thể thu nhiếp cả thế
giới vũ trụ vào mà không bao giờ đầy cả. Thí dụ như
khi nhìn ngọn Hy Mã Lạp Sơn thì chúng ta liền đem ngọn núi
to lớn nầy vào trong tâm tưởng của mình mà không thấy to
lớn, chật hẹp bởi vì ngọn núi chỉ là tư tưởng chớ
không phải thật có. Ở đây hàng thấp nhất là A La Hán đều
đã đoạn tất cả phiền não lậu nên có được tâm thanh
tịnh tức là có được Chân tâm nên ông Duy Ma Cật dùng Chủ,
Bạn Viên Minh Công Đức khiến mọi người thấy biết những
hiện tượng bất khã tư nghì nầy một cách rõ ràng như thật.
Bấy
giờ ông Duy Ma Cật mời Bồ-tát Văn Thù và chư đại Bồ-tát
an tọa. Các Bồ-tát được thần thông tự biến thân cao lớn
bốn muôn hai ngàn do tuần, mới lên tòa ngồi được. Các
Bồ-tát tân phát ý và hàng Thanh Văn đại đệ tử đều không
lên ngồi được.
Trưởng
giả Duy Ma Cật mời ông Xá Lợi Phất thăng tòa.
Ông
Xá Lợi Phất nói:
- Thưa
cư sĩ! tòa cao quá tôi không lên được.
Trưởng
giả Duy Ma Cật nói:
- Xá
Lợi Phất! Ngài hãy làm lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai
rồi có thể lên tòa ngồi được.
Hàng
tân phát ý Bồ-tát và tất cả đại đệ tử Thanh Văn làm
lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai, bấy giờ mọi người đều
lên được tòa ngồi.
Quả
vị Phật, trí tuệ Bồ-đề ngay cả Niết Bàn thanh tịnh không
phải chỉ dành riêng cho Phật, nhưng Phật và Bồ-tát có Bồ-đề,
có Niết bàn, riêng về phần Như Lai có vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Còn phàm phu chúng sinh thì cũng có tự tánh Bồ-đề,
tự tánh Niết bàn như vậy, nhưng họ không hưởng được
Niết bàn an lạc nầy và không sử dụng được trí tuệ vô
thượng Bồ-đề của mình mà còn chìm đắm trong vòng sắc
tài danh lợi thị phi phải quấy hơn thua tốt xấu nên phải
chịu chập chùng đau khổ hàng ngày cho đến hết kiếp. Sau
khi đảnh lễ đức Tu Di Đăng Vương Như Lai có nghĩa là họ
đã hồi đầu thị ngạn thì họ mới có thể lên tòa ngồi
được. Tại sao? Phật ví như người đã ở trên bờ còn
phàm phu chúng sinh thì vốn cũng đã ở trên bờ như Phật
nhưng họ vì sự tham đắm sắc dục và vô minh che lấp trí
tuệ nên đã lên thuyền vượt ra biển cả mênh mông mà phải
bị sóng dập gió biển trùng trùng. Bây giờ nếu nghe lời
ông Duy Ma Cật mà chịu quay thuyền trở lại thì cũng có thể
lên bờ và được an vui tự tại như Phật. Đó chính là hồi
đầu thị ngạn tức là có hồi thuyền mới có ngày đến
bến. Người học Phật nếu thấu hiểu đạo lý nầy để
cảm nhận được chân lý huyền diệu của Thế Tôn mà không
rơi vào mê tín dị đoan. Tuy Phật và Bồ-tát thương tất
cả chúng sinh như con một của các Ngài, nhưng chính chúng
sinh phải tự mình hồi đầu thị ngạn bằng cách áp dụng
những chân lý nhiệm mầu của Phật. Đó chính là ba từng
kinh điển giáo pháp. Đừng hiểu lầm chỉ đường để
chúng sinh quay về bờ không có nghĩa là Phật ra biển đưa
chúng sinh về bờ mà chúng sinh phải tự mình chèo lái dựa theo tấm hải đồ mà Đức Phật đã ban cho. Thí dụ
như chúng ta muốn khai khẩn một lô đất để trồng rau cải.
Phật đem cuốc xẻn đến giúp chúng ta có phương tiện và
chỉ dẫn cách trồng trọt. Nếu chúng ta y giáo phụng hành
thì sau vài tháng sẽ có vườn rau xanh mướt. Nói một cách
khác là Phật không độ hiểu theo nghĩa cầu nguyện, cúng
lạy cho ai hết mà Phật chỉ độ hiểu theo nghĩa y giáo phụng
hành mà thôi. Chèo nhanh, chèo chậm là tùy theo căn cơ, sở
nguyện của chúng sinh, nhưng hễ có chèo là có ngày đến
bến. Tóm lại quả vị vô thượng Bồ-đề không phải dành
riêng cho Như Lai, nếu các vị Thanh Văn chịu hướng về với
tự tánh thanh tịnh tức là Phật tánh của mình thì sẽ có
Bồ-đề ngay.
Các
đại Bồ-tát thâm nhập trí tuệ Đại thừa nên không còn
chấp ngã, chấp pháp. Họ lìa Sự Tướng mà nhập Bản Thể
thanh tịnh nên có thần thông diệu dụng và tâm thể dung thông
với vạn pháp nên không có gì ngăn ngại. Họ quán Quảng
Hiệp Tự Tại Vô Ngại mà tự biến hóa tương ứng với kích
thước tòa sư tử nên mới lên tòa sư tử ngồi được. Nhưng
đối với các vị Bồ-tát mới phát tâm và hàng Thanh Văn
thì họ còn chấp Pháp tức là thấy có pháp môn để tu, có
quả vị để chứng và còn cầu Niết bàn để được an vui
tịch diệt nên chưa thâm nhập được Bản Thể thanh tịnh
mà không thể dung thông với vũ trụ và hòa nhập với thiên
nhiên được. Mặc dầu họ cũng có thần thông nhưng bị giới
hạn. Sau khi đảnh lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai có nghĩa
là họ đã lìa Tướng mà nhập Thể Tánh. Bỏ Tiểu thừa
về với Đại thừa, bỏ tối về sáng, lìa vô minh về với
trí tuệ hằng sáng chói của mình thì họ có được thần
thông diệu dụng và tự mình biến hóa để lên ngồi trên
tòa sư tử.
Ông
Xá Lợi Phất nói:
- Thưa
cư sĩ! Quả là việc lạ lùng chưa từng có. Diện tích của
ngôi tịnh thất hữu hạn nầy mà lại có thể dung chứa hàng
mấy muôn cái tòa rộng. Thành Tỳ Xá Ly, xóm làng, cõi nước
đều không chật chội trở ngại gì nhau. Đây là việc chưa
từng có.
Ông
Duy Ma Cật nói:
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật, Bồ-tát có pháp môn giải
thoát gọi là :”Bất Khả Tư Nghì”. Nếu Bồ-tát trụ trong
pháp môn giải thoát đó, có thể lấy núi Tu Di cao rộng để
vào trong một hạt cải, mà núi Tu Di vẫn y nguyên trạng, hạt
cải vẫn không thêm bớt chút nào. Trời Thiên Vương, Đạo
Lợi, Chư Thiên không hề hay biết cảnh giới Chư Thiên đang
ở trong hạt cải. Chỉ có những người đáng độ (Bồ-tát
đăng địa), mới thấy biết núi Tu Di được đặt vào trong
hạt cải.
Bồ-tát
trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu
Bát nhã ba-la-mật. Tất cả những cái vật chất trong thế
gian nầy mà kinh Lăng Nghiêm gọi là Sắc tức là địa đại.
Cho nên khi Bồ-tát lấy núi Tu Di để lọt vào trong hạt cải
thì đây chính là sắc. Mà:”Tánh sắc chơn không, tánh không
chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng
sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”.
Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh tịnh bản nhiên nhưng
sở dĩ nó có là tùy theo tâm lượng hay theo sự yêu cầu của
chúng sinh mà phát hiện. Cho nên nếu Bồ-tát cầu cở nào
thì nó phát hiện cở ấy còn không cầu thì nó không có.
Nói một cách khác là Bản Thể của vật chất là Không tức
là Sắc tức là Không. Do đó khi thấy hiện tượng giới như
đem vật lớn đặt vào chỗ nhỏ là Bồ-tát muốn chúng sinh
tư duy quán chiếu để thấy một cách triệt để là ngũ uẩn
giai không.
Bồ-tát
trụ bất tư nghì giải thoát, có thể lấy nước biển cả
để vào lỗ chân lông mà nước biển cả vẫn y nhiên. Các
loài thủy tộc cá, tôm, rùa, rạch…không bị khuấy động.
Long vương, quỷ thần, A tu la…không hề hay biết và họ chẳng
bị nhiễu hại chút nào.
Bồ-tát
trụ bất tư nghì giải thoát, còn xắn lấy ba ngàn đại thiên
thế giới để trên bàn tay và ném qua hằng hà sa thế giới,
rồi thu về đặt lại chỗ củ mà thế giới vẫn y nhiên.
Người người ở trong các thế giới kia không hề hay biết
về sự đi lại của mình.
Còn
Bồ-tát đem nước biển để vào lỗ chân lông hay lấy ba
ngàn đại thiên thế giới để trên bàn tay là ý như thế
nào?
Hai
hiện tượng trên đây cũng đều là phản ảnh cho sự biến
đổi của không gian vì thế chúng ta cũng có thể áp dụng
câu:”Tánh thủy chơn Không, Tánh không chơn thủy, thanh tịnh
bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở
ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện” nghĩa là Tánh của
nước là Không, Tánh Không là nước, tự nó rất thanh tịnh,
nhưng vì nhu cầu của chúng sinh mà ứng hiện. Vì nước
nầy là do tinh khí và dưỡng khí hòa hợp mà thành nghĩa là
nước không có tự tánh tức là Không. Khi đầy đủ nhân
duyên hội tụ thì Không trở thành nước còn bình thường
thì nước trang biến pháp giới mà lại thanh tịnh bản nhiên.
Cho nên ở đâu cũng có nước mà nước không làm ngập lụt
chết người vì tánh của nước là thanh tịnh bản nhiên.
Chỉ khi nào cần và có đủ nhân duyên hội tụ thì Không
thành ra nước tức là tùy chúng sinh tâm ứng sở tri lượng
nghĩa là đáp ứng tùy theo nhu cầu của chúng sinh. Do đó đứng
về sắc thì thấy có nước biển nhiều, nhưng Bản Thể của
nước biển là Không cho nên nếu Bồ-tát quán Quảng Hiệp
Tự Tại Vô Ngại thì có thể biến hiện Thể Không của nước
biển vào trong lỗ chân lông là vậy.
Còn
nữa, thưa ngài Xá lợi Phất! Nếu có chúng sinh thích sống
lâu ở đời, vì hóa độ họ, trong khoảng bảy ngày, Bồ-tát
nói với họ là một kiếp, khiến chúng sinh kia tin nhận là
một kiếp.
Hoặc
có chúng sinh không thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ,
Bồ-tát rút ngắn một kiếp nói là bảy ngày, khiến chúng
sinh kia tin nhận là bảy ngày.
Những
phần trên của phẩm nầy thì Bồ-tát đã biểu diễn Bất
khả tư nghì giải thoát do sự thay đổi biến hiện của không
gian. Bây giờ ông Duy Ma Cật muốn chứng minh thời gian cũng
như không gian là vô thường vô ngã sinh diệt, là những tướng
trạng tương đối, là những khuôn mẩu đặt ra để phân
biệt, là giả huyễn không thật có.
Dựa
theo Mười Đời Cách Pháp Dị Thành thì một đời bao gồm
cả ba đời nghĩa là ngay trong đời hiện tại đã có sự
hiện diện của đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Tại
sao? Bởi vì đời hiện tại của chúng ta ngày nay chẳng qua
là kết quả của biết bao nghiệp nhân mà con người đã tạo
tác trong những đời quá khứ và cũng chính đời hiện tại
nầy chúng ta đang tạo ra rất nhiều nghiệp nhân mà sẽ là
kết quả cho đời tương lai. Vậy đời nào là đời thật?
Vì thế đời không có gì làm tiêu chuẩn cho quá khứ, hiện
tại, vi lai cả. Thí dụ như nhìn thấy một người chúng ta
cho họ là năm sáu mươi tuổi. Nhưng dựa trên tiêu chuẩn
nào để chúng ta kết luận như vậy? Phải chăng là nhìn thấy
người nầy tóc hoa râm, mắt kém…Nhưng thật sự làm sao
biết chắc người nầy năm sáu chục tuổi? Có người sáu
bảy chục tuổi mà mắt vẫn sáng như sao, tóc da tươi nhuận.
Còn có người mới ba bốn mươi tuổi nhưng vì cuộc sống
đầu tắt mặt tối nên đầu tóc bạc phơ thì già hơn trước
tuổi là chuyện thường. Do đó nếu dựa trên thời gian thì
không tìm đâu cho ra tuổi. Tuổi mà con người dựa theo là
tính theo sự vận chuyển của địa cầu quanh mặt trời đâu
có giống tuổi của những thế giới khác. Một ngày trên
không gian dài hơn một ngày dưới địa cầu rất nhiều. Ngày
xưa Lưu Nguyễn ngao du chốn bồng lai mới vài năm mà khi về
lại nhà củ làng xưa thì hoàn toàn thay đổi vì mấy năm
tiên cảnh bằng vài trăm năm trần thế. Vậy tuổi nào là
tuổi thật? Kiếp sống chết của con người không bao giờ
có thể luận theo tuổi tác được. Có người chết già, có
kẻ chết bệnh và có kẻ sống dở chết dở cho nên thời
gian chẳng có giá trị chân thật bởi vì khái niệm thời
gian chỉ là dựa trên sự vô thường chuyển biến của các
pháp hữu vi. Thí dụ như ngày và đêm đâu có đồng nhất.
Ngày ở Hoa kỳ tức là đêm ở Việt nam vậy thời gian cùng
một thế giới nhỏ nầy mà không giống nhau thì làm sao gọi
là chân lý.
Còn
nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát,
Bồ-tát lấy những sự trang trí đẹp đẽ của tất cả cõi
Phật nhóm lại ở một chỗ chỉ bày cho chúng sinh xem thấy
rõ ràng. Bồ-tát lấy tất cả chúng sinh và cõi Phật để
trên bàn tay bay đến khắp mười phương, chỉ rõ cho tất
cả mà “bổn xứ” không hề động chuyển.
Thưa
ngài Xá Lợi Phất! Những món đồ cúng dường chư Phật trong
mười phương, Bồ-tát có thể đem vào trong một lỗ chân
lông khiến cho ai cũng có thể được thấy.
Mười
phương cõi nước có bao nhiêu nhật nguyệt, tinh tú gom về
trong một lỗ chân lông, khiến cho xem thấy dễ dàng.
Mười
phương thế giới có bao nhiêu gió, Bồ-tát hớp vào miệng
mà thân không hề tổn hại. Tất cả cây cỏ bên ngoài không
bị gãy đổ.
Mười
phương thế giới, khi kiếp tận, lửa cháy ngút trời, Bồ-tát
hút tất cả lửa vào trong bụng mà thân không bị tai hại.
Bồ-tát
có thể lấy một cõi Phật ở hằng hà sa thế giới ở hạ
phương, cầm đem lên cách hằng hà sa số thế giới ở thượng
phương như cầm một que tăm găm vào một là táo, không khó
khăn mệt nhọc chút nào.
Còn
nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát,
Bồ-tát có thể dùng thần thông hiện thân Phật, hoặc hiện
thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện
thân Chuyển luân Vương.
Lại
nữa, trong mười phương thế giới có bao nhiêu thứ âm thanh,
thượng, trung, hạ đều có thể biến thành âm thanh Phật,
diễn nói những pháp của chư Phật trong mười phương đã
nói như vô thường, khổ, không và vô ngã khiến cho chúng
sinh hữu duyên đều được nghe.
Thưa
ngài Xá Lợi Phất! Tôi lược nói về thần lực bất khả
tư nghì giải thoát của Bồ-tát là thế. Nếu nói rộng suốt
kiếp cũng không nói hết được.
Cũng
như lửa cháy ngút trời mà Bồ-tát hớp vào miệng mà thân
không hề tổn hại. Nếu nhìn bằng nhục nhãn thì làm sao
hớp lửa ngút trời vào trong bụng cho được, nhưng ở đây
một lần nữa Bồ-tát không nhìn vật chất bằng nhục nhãn
mà nhìn bằng mắt trí tuệ bát nhã ba-la-mật thì thấy lửa
tức là Không và Không tức là lửa (Tánh hỏa chơn Không,
Tánh Không chơn hỏa). Thanh tịnh bản nhiên là lửa ở khắp
trong vũ trụ mà không làm cháy ai hết, nhưng nếu chúng sinh
tâm ứng sở tri lượng tuần nghiệp phát hiện thì nếu con
người cần lửa thì nó mới cháy. Thí dụ như ánh sáng mặt
trời là một dạng của lửa thì có cháy ai đâu, nhưng chỉ
khi nào chúng ta đem kính lúp đặt dưới ánh sáng mặt trời
thì sẽ có lửa cháy ngay.
Nói
chung những hiện tượng trên giúp chúng sinh tư duy quán chiếu
về địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại,
kiến đạo và thức đại. Tất cả đều là Không mà Không
chẳng khác có và có chẳng khác Không vậy. Nói một cách
khác lửa chẳng khác Không và Không chẳng khác lửa.
Thêm
nữa, khi Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát hiện các thân
Phật, Bích Chi Phật, Phạm Vương…hay biến cả các thứ âm
thanh to nhỏ thành tiếng Phật thì tất cả hiện tượng nầy
đều là Sắc. Mà:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn
sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng
sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”.
Dù biết thân Phật, thân Bích Chi Phật, ngay cả âm thanh hay
tiếng Phật là giả huyễn mà Bồ-tát vẫn biến hiện các
hình tướng thích hợp với hoàn cảnh mà hoằng dương Phật
pháp. Họ dùng phương tiện để giúp chúng sinh tìm về với
cứu cánh giải thoát giác ngộ.
Nếu
chúng sinh biết tư duy quán chiếu để thấy biết rằng vũ
trụ là do sự tạo thành biến hiện của không gian và thời
gian, nhưng không gian và thời gian là giả huyễn, là vô thường
vô ngã, sanh sanh diệt diệt. Khác hẳn với hàng Thanh Văn vì
thấy thế gian vũ trụ là sinh diệt nên họ cố tu để mong
chứng quả vị Bồ-đề và cầu sự tịch diệt an lạc của
Niết bàn nên họ còn chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì
chấp Không vì đối với họ vạn pháp giai Không tức là không
có gì trên đời là thật có cả. Ở đây chúng sinh nên bắt
chước chư Phật để xóa tan những tư tưởng về chấp Pháp
và chấp Không mà nhận biết rằng vạn pháp tuy là Có nhưng
không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là không
của cái trống không. Khi nhân duyên hòa hợp thì vạn pháp
sanh và khi nhân duyên tan rã thì vạn pháp diệt cho nên tuy
vạn pháp sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà chúng
sinh vẫn luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh
nầy. Cùng lối nhìn như Bồ-tát để thấy rằng con người,
vạn pháp là Không nghĩa là không thật có mà hiện giờ nó
vẫn có vì thế con người nên làm bất cứ cái gì cần làm
để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù họ là không
có thật.
Nếu
biết áp dụng huyền nghĩa của đoạn kinh nầy vào trong cuộc
sống thì con người sẽ không còn chấp Tướng tức là hình
sắc, âm thanh, ngôn ngữ, lời nói, văn tự…thì cuộc sống
sẽ an vui tự tại, không còn ràng buộc khổ đau. Nếu không
chấp vào hình tướng thì con người sẽ không còn quan trọng
đến nhà sang, xe đẹp, áo lụa quần là, se sua chưng diện
xa hoa…mà chỉ cần đứng đắn chỉnh tề, tâm tư thanh thoát
và ung dung tự tại. Nếu không chấp âm thanh, lời nói, văn
tự vì chúng là giả huyễn, là sinh diệt thì con người sẽ
dững dưng trước lời khen tiếng chê và xem những tiếng thị
phi như gió thoảng ngoài tai mà hướng tâm thanh tịnh để
thấy rằng:”Nhất thế sắc giai thị Phật sắc, nhất thế
thanh giai thị Phật thanh” nghĩa là nếu có tâm thanh tịnh
thì tất cả hình tướng đều là hình tướng Phật và tất
cả âm thanh đều là âm thanh Phật.
Ngài
Đại Ca Diếp sau khi nghe pháp môn bất khả tư nghì giải thoát,
rất hoan hỉ, tán thán và nói với ông Xá Lợi Phất rằng:
- Ví
như sắc tượng hiện hữu ngay trước mắt người mù nhưng
người mù không sao thấy được. Cũng vậy, với pháp môn
bất khả tư nghì giải thoát, hàng Thanh Văn dù có nghe nhưng
cũng không hiểu rõ được.
Người
trí ai nghe mà chẳng phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Hàng
Thanh Văn chúng ta vì sao lại dứt hẳn hạt giống đại thừa
để cho mầm tược cháy khô. Tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp
môn bất khả tư nghì giải thoát, nên khóc rống lên đi! Khóc
cho vang động cả ba ngàn đại thiên thế giới! Còn tất cả
các Bồ-tát, những người chủng tánh đại thừa nên hân
hoan tiếp thụ, kê đầu đội lấy pháp môn nầy.
Bồ-tát
tin và hiểu pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, tất cả
các ma dù có thể lực bao nhiêu đi nữa cũng không làm gì
động chuyển.
Ngài
Đại Ca Diếp nói xong. Khi bấy giờ có ba muôn hai ngàn thiên
tử phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Các
vị Thanh văn tuy chứng quả A La Hán và được ra khỏi sinh
tử luân hồi nhưng tâm vẫn còn chấp trước nơi pháp Tiểu
thừa nên chưa được giải thoát rốt ráo. Sau khi nghe Bồ-tát
trụ Bất tư nghì giải thoát làm Bất tư nghì sự và trình
diễn Bất tư nghì cảnh giới thì như người mê chợt tỉnh,
bỏ tối tìm sáng mà phát tâm vô thượng Bồ-đề để quay
về với chân lý liễu nghĩa tối thượng đại thừa.
Bấy
giờ ông Duy Ma Cật nói với ngài Đại Ca Diếp:
- Thưa
nhân giả! Trong thập phương vô lượng A tăng kỳ thế giới,
những người làm ma vương phần nhiều là Bồ-tát trụ bất
khả tư nghì giải thoát, dùng sức phương tiện giáo hóa chúng
sinh mà hiện làm ma vương như vậy.
Lại
nữa, thưa ngài Ca Diếp! Bồ-tát trong mười phương nhiều
vô số. Có khi người ta theo các ngài để xin mắt, mũi, tay,
chân, máu thịt, xương tủy, đầu óc…Xin quốc thành thê
tử, tượng mã, kim ngân…xin cả y phục và thức ăn. Người
xin như vậy, phần nhiều là Bồ-tát trụ bất khả tư nghì
giải thoát dùng sức phương tiện để thử thách hạnh sở
hành của Bồ-tát khiến cho sức kiên cố càng thêm kiên cố.
Thử
thách như vậy để làm gì?
Bởi
vì Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát có nghị lực và
uy đức lớn lao cho nên dùng những hành động bức bách dồn
ép làm những việc khó làm để biểu thị sức tinh tấn,
chỉ bày đức nhẫn nhục…vì sự nghiệp giáo hóa chúng sinh.
Hạng
phàm phu hạ liệt không có uy lực, không thể kham chịu những
sự bức bách nghiệt ngã như Bồ-tát được. Ví như sức
lừa không chịu nổi sự dẫm đạp của long tượng.
Thông
thường ma quỷ là những hình bóng, hiện tượng kỳ quái
xuất hiện khiến cho con người lo sợ, khiếp đảm làm cản
trở chướng ngại sự tu hành. Nhưng ở đây chính các vị
Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát lại thị hiện làm ma
vương để dùng phương tiện mà giáo hóa chúng sinh. Thí dụ
như có người phát nguyện tu bố thí ba-la-mật để phát triển
chủng tử từ bi đại thừa thì ma vương thị hiện đến
xin từ ngoại tài như vàng bạc, châu báu, thức ăn, áo mặc
cho đến nội thân như chân tay, mắt, mũi…cốt là để thử
thách người đó có thực hành hạnh bố thí như họ đã phát
nguyện không. Ma vương cũng thị hiện đến quấy phá những
người tu hạnh nhẫn nhục, quấy nhiễu những kẻ tu thiền,
làm phân tâm những người niệm Phật. Ngày xưa lúc Đức
Phật tu dưới cội Bồ-đề sắp thành ngôi Chánh giác thì
Ma Nữ cũng xuất hiện rất nhiều để thử thách lòng kiên
cố, tâm kiên nhẫn và ý chí sắc đá của Ngài.
Thật
ra ma vương mà kinh nầy muốn ám chỉ chính là lục dục thất
tình núp thật sâu vào trong tâm thức của tất cả chúng sinh.
Đó chính là tham-sân-si, mạn, nghi, tà kiến…những ảo tưởng
của thị dục, những thói hư tật xấu luôn thúc đẩy con
người lún sâu vào vòng tăm tối, xấu xa. Khác hẳn với hàng
Thanh văn hay phàm nhân thì sợ nghịch cảnh, không dám đối
diện với cảnh trái ý nghịch lòng, ở đây Bồ-tát trụ
Bất tư nghì giải thoát thị hiện làm ma vương để giáo
hóa chúng sinh tu trong nghịch cảnh. Có đối diện với nghịch
cảnh, biết mặt thật của cuộc đời thì con người mới
nung nấu chí nguyện của mình trở thành sắc đá, tăng trưởng
tâm nhẫn nhục, phát huy lòng từ bi, đạo đức làm nền tảng
cho tâm được thanh tịnh mà có trí tuệ sáng suốt. Vì thế
người xưa cũng có câu:”Ví phỏng đường đời bằng phẳng
cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, lửa có cao
mới biết vàng nhiều tuổi, có vào hang cọp mới bắt được
cọp con. Bồ-tát thì phải làm cho được những việc khó
làm. Cố gắng tích cực chế ngự nghịch cảnh, vượt qua
mọi khó khăn, cứu giúp tất cả chúng sinh mà không chán nản
mệt mỏi và không hề bị dòng đời lôi cuốn. Bồ-tát luôn
vận dụng trí tuệ để đáp ứng mọi yêu cầu, sang bằng
mọi thử thách để hoàn thành hạnh nguyện. Khác với các
vị A La Hán thấy đời vô thường vô ngã sinh sinh diệt diệt
nên cố tu tìm giải thoát tịch diệt Niết bàn và mong chứng
quả vị Bồ-đề, ông Duy Ma Cật vạch ra một con đường
sáng là lấy gia đình xã hội làm đạo tràng tu thanh tịnh,
lấy chúng sinh làm đối tượng tu học, lấy nghịch cảnh
làm phương châm giáo hóa. Ngay trong cảnh phiền não ô trược,
xã hội phức tạp mà chúng sinh vẫn có được Niết bàn cũng
như hoa sen thơm ngát vươn lên trong bùn tanh hôi hám. Còn quả
vị Vô thượng Bồ-đề thì chúng sinh cũng không cần mong
cầu trông đợi vì tự tánh Bồ-đề thì lúc nào cũng có
sẳn trong mọi chúng sinh. Nếu con người chịu lìa xa vọng
chấp, tâm không còn dính mắc và hướng về sống với tự
tánh thanh tịnh bản nhiên của mình tức là hồi đầu thị
ngạn để quay thuyền trở lại bến thì ai ai cũng có ngay
Phật tánh, chơn tâm nghĩa là Bồ-đề hiễn hiện vậy.
Đó
là pháp môn phương tiện và trí tuệ của Bồ-tát trụ Bất
Khả Tư Nghì Giải Thoát pháp môn.