Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Trì giớicăn bản để tiết chế dục vọng

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10734)
8. Trì giới là căn bản để tiết chế dục vọng

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 8: Trì giớicăn bản để tiết chế dục vọng

Phiên âm:

Đệ thất giác ngộ: Ngũ dục quá hoạn, tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc. Thường niệm tam y, bình bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ bảy: Năm dụctai họa, tuy là người thế tục, nhưng không nhiễm dục lạc, thường nhớ nghĩ ba y, bình bátpháp khí, chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch, hạnh thanh tịnh cao xa, từ bi với tất cả.

Giảng giải:

Trong điều giác ngộ thứ hai, chúng tôi từng giảng qua nhiều lòng dục là kho? nói lòng dục chính là căn bản của sinh tử, rồi chỉ ra phương pháp để đối trị nhiều lòng dục là ít muốn vô vi.

Nay trong bài giảng này, sẽ thuyết minh tội lỗi, tai họa của năm dục, lại đưa ra phương pháp trì giới, sống đời phạm hạnh là phương thuốc đối trị tham dục. Ở đây, chúng tôi sẽ thuyết minh giới học trong Phật Pháp, tức đề tài: Trì giớicăn bản để tiết chế dục vọng. Người đời không có trí tuệ, cho rằng tham đắm năm dục là vui. Nhưng Bồ tát giác ngộ thấy tham đắm năm dục sẽ gây ra các tội lỗi, cho đến chịu tai họa trong sinh tử luân hồi.

Năm dục theo thế gian là: tài, sắc, danh, thực , thùy.

Tài là tiền bạc của cải.

Sắc là tình yêu nam nữ.

Danh là địa vị danh tiếng.

Thực là ăn uống vị ngon.

Thùy là giải đãi hôn trầm.

Năm dục theo Phật Pháp là: sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Sắc là hình sắc xinh đẹp.

Thanh là âm thanh êm tai.

Hương là hương thơm nồng nàn.

Vị là vị ngon vừa miệng.

Xúc là xúc chạm ưng ý.

Cuộc đời không thể hoàn toàn phủ nhận là không có thú vui của năm dục. Vì theo kinh nghiệm cảm quan của căn thức con người, thì năm dục quả có thể dẫn đến hỉ lạc tạm thời, không triệt để. Người ta vì nó mà không tự chủ, bị mê hoặc, suốt ngày làm nô lệ cho năm dục, tham cầu vọng tưởng khiến cuộc sống không lúc nào được tự tại, an lạc.

Tài là tiền bạc, của cải. Nó vốn để người ta sử dụng, nhưng có tiền bạc, của cải chưa chắc đã hạnh phúc. Người ta vì tiền mà chết rất nhiều. Hai ba năm trước đây, báo chí đăng tin Uông Chấn vì mưu đoạt tiền bạc mà phanh thây người bạn thân hơn hai mươi năm của mình là Trương Xương Niên làm ở ngân hàng Đài Loan! Tình bạn thân mà tàn ác như vậy, không phải đều do tham tiền bạc mà gây ra sao?

Sắc là tình yêu trai gái. Trong hoàn cảnh thuần phong mỹ tục suy đồi hiện nay, tình áima lực rất lớn. Chúng ta thấy nhan nhản, nghe đầy tay những vụ án tạt acid, giết tình địch xảy ra hàng ngày trong xã hội. Ngày nay, trai gái yêu đương xen lẫn với thù hận, vì thù hận mà dẫn đến kết cuộc bi thảm, như tằm nhả tơ tự trói buộc lấy mình.

Danh là địa vị danh tiếng. Cổ ngữ bảo: thời Tam đại về trước, người ta sợ rằng mình hiếu danh; thời Tam đại về sau, người ta chỉ lo mình không hiếu danh! Yêu thích thanh danh vốn là điều rất tốt, nhưng mỗi khi cạnh tranh tuyển cử, người ta vì tranh danh mà không ngại gì công khích lẫn nhau, đưa nhau ra tòa. Thật đúng là: Cây càng to thì gió càng lớn; danh càng cao, ghét nhau càng nhiều! Hay: Leo lên càng cao, ngã xuống càng đau! Viên Thế Khải không phải vì quá trọng danh vị mà bị đời sau phỉ nhổ hay sao?

Thực là ăn uống vị ngon. Người ta không ăn không thể sống. Nhưng ăn quá đáng gây ra các bệnh đường ruột, bao tử là tự làm khổ mình. Thậm chí có nhiều người vì tham ăn mà trúng độc. Có người nói: Chiến tranh trên thế giới đều do vấn đề bánh mì! Như vậy có thể thấy, tham dục về ăn có tai hại lớn đến dường nào! Người ta suốt ngày xuôi ngược đông tây, tìm cầu suy tính, đều không phải vì miếng ăn cả hay sao?

Thùy là giải đãi hôn trầm. Ngủ nghỉ vừa phải là điều cần thiết. Tham ngủ quá đáng, giải đãi hôn trầm, lại là việc không nên. Đời người nếu sống được chín mươi năm, mỗi ngày ngủ tám giờ thì đã có ba mươi năm trôi qua trong ngủ nghỉ! Vì thế, tham ngủ có hại đến đạo nghiệp, có biết bao nhiêu việc có ý nghĩa cần làm, lẽ nào vì ngủ nghỉ mà làm lỡ mất hay sao?

Không luận tài sắc danh thực thùy, hay sắc thanh hương vị xúc, dục vốn không nhất địnhtội ác. Chúng ta sống với năm dục thích đáng là điều không có gì đáng trách.

Trong Kinh nói: Nam nữ, ẩm thực, danh dự không phải thực sự là dục, nó chỉ là pháp chướng đạo mà thôi. Nhưng nếu phóng túng lòng dục, sẽ do nơi lòng dục về nam nữ v.v…, gây tạo ra các tội ác tày trời. Cổ đức bảo: Tài sắc danh thực thùy, năm gốc rễ địa ngục. Người phóng túng lòng dục nên suy xét kỹ lời nói này!

Sống trong đời vốn không thể xa lìa được tài sắc danh thực thùy. Vì sao trong Kinh lại nói rằng: Năm dục là tai họa? Tham cầu năm dục đưa đến gây tạo tội lỗi, rước lấy tai họa là điều thường xuyên xảy ra. Nói tóm lại, những tội lỗi, tai họa của năm dục là:

1. Tăng thêm đấu tranh.

2. Làm khổ não người.

3. Gây ra họa hại.

4. Không có chân thật.

5. Không được trường cữu.

Năm dục đối với người như mật ngọt dính trên lưỡi dao, không đủ cho một bữa ăn ngon. Nhưng trẻ con vì không biết sự tai hại của nó, nên đưa lưỡi ra liếm, phải chịu tai họa đứt lưỡi!

Ngũ dục gây cho người tai họa to lớn như vậy, cho nên: Tuy là người thế tục, nhưng không nhiễm dục lạc. người Phật tử tại gia sống trong vòng thế tục mà đoạn trừ ngũ dục là việc khó thể làm được. Nhưng chỉ cần không bị dục lạc của thế gian ô nhiễm là được.

Cư sĩ Duy Ma Cật trong thành Tỳ Da Ly là một vị trưởng giả giàu có. Đó gọi là: Tuy sống ở nhà, không vướng ba cõi, hiện có vợ con, thường tu phạm hạnh. Hay: Hiện việc phàm phu, không rời đạo pháp. Hay: Chỉ có trừ bệnh, mà không trừ pháp.

Ở đời cần phải hăng hái xây dựng, mở ra một cảnh giới an lạc cho cuộc sống. Cảnh giới an lạc này ở ngay trong nhân quần, xã hội! Chúng ta chỉ cần không bị năm dục làm mê hoặc, trói buộc, thì dù sống trong cuộc đời ngũ dục cũng không ngại gì. Như trưởng giả Tịnh Danh đối với nhân sinhxã hội hiện thực vẫn vô cùng lạc quan. Ông ấy là điển hình của hàng tại gia học Phật. Sống trong cuộc đời ngũ dục mà muốn không bị ngũ dục làm ô nhiễm, đây là điều vốn không dễ dàng. Nhưng người tu học Bồ tát đạo không thể bị ngũ dục làm ô nhiễm. Chỉ cần chúng ta đem Pháp lạc thay thế dục lạc, lấy việc tu tập để đối trị tham dục, thì cuộc sống tự nhiên sẽ tự tại, an lạc.

Lấy việc tu tập để đối trị ngũ dục có hai cách: Một là của đệ tử xuất gia, hai là của đệ tử tại gia.

Phật tử tại gia muốn không bị chìm đắm trong ngũ dục, ít nhất phải giữ gìn năm giới.

1. Không sát hại bừa bãi, phải có lòng nhân từ.

2. Không lấy của phi pháp, phải tôn trọng đạo nghĩa.

3. Không tà dâm, phải giữ gìn lễ giáo.

4. Không vọng ngữ, phải chân thật, thành tín.

5. Không uống rượu, phải bình tỉnh, sáng suốt.

Năm giới này là căn bản làm người. Đại sư Thái Hư nói: Nhân cách thành tựu thì Phật thành tựu. Làm người nếu làm tốt đẹp, thì việc tu học theo Phật Pháp tự nhiên cũng thành tựu. Làm người tốt đẹp thực ra cũng không phải là việc dễ dàng gì. Socrates ban ngày cầm đuốc đi ngoài đường. Ai hỏi ông làm gì, ông đều trả lời:

- Tôi muốn tìm xem có ai là Người trên đời này không!

Người gìn giữ năm giới trên đời này rất ít, mà kẻ giữ được trọn vẹn lại càng ít hơn!

Vừa nói đến trì giới, người mới vào đạo rất là e sợ. Họ cho rằng giới luật là sự ràng buộc: Điều này nên làm, điều kia không nên làm. Thật ra, giới là phòng ngừa điều phi pháp, cấm ngăn việc xấu ác (phòng phi chỉ ác). Giới chẳng những không phải là ràng buộc, mà còn mang nội dung tự do một cách tuyệt đối. Nói tự do là nói đến nguyên tắc không làm trở ngại, xâm phạm người khác. Giới luậtgìn giữ thân tâm chúng ta, không để xâm phạm vào người khác.

Như sát sinhxâm phạm đến tự do sinh mạng của người. Trộm cướp là xâm phạm đến sự an toàn tài vật của người. Tà dâmxâm phạm, làm hại đến sự hòa hợp, hạnh phúc của người. Nói vọng là xâm phạm, làm hại đến niềm tin của người khác. Uống rượu là xâm phạm, làm hại đến mình và người. Giả như chúng ta đến nhà giam để điều tra tội của các phạm nhân, thì hầu hết đều vì vi phạm năm giới! Tội giết người là tội phạm giới sát sinh. Tội trộm cướp, lừa gạt, chiếm dụng, tham ô là tội phạm giới trộm cướp. Tội phá hoại gia cang, vi phạm thuần phong mỹ tục, vợ bé, cưỡng hiếp v.v… là phạm giới tà dâm. Tội lừa đảo, dụ dỗ, bói toán gạt người, vu khống làm hại danh dự, tung tin đồn thất thiệt v.v… là phạm giới nói vọng. Tội buôn bán thuốc phiện, hút chích ma túy, say rượu quậy phá, đánh nhau v.v… là phạm giới rượu.

Phàm làm người ai cũng phải giữ giới. Năm dục như nước lũ, rất dễ gây nên tai họa. Nếu có đê trì giới ngăn chặn, biển tham dục sẽ không gây ra tai họa.

Trong Kinh nói: Thường nghĩ đến ba y, bình bátpháp khí, chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch. đây là nói người cư sĩ tại gia, thân tuy không xuất gia mà tâm thường hâm mộ nếp sống thanh tịnh với ba y, bình bát, và giới luật của người tu sĩ xuất gia. Nếu ai làm được như vậy, sẽ xa lìa mọi trói buộc, giữ gìn nhân cách mình được trong sạch, thanh cao.

Ba y, bình bát, pháp khí đều là những vật của người xuất gia. Ba y là chỉ ca sa, chia làm ba loại.

1. Tăng Già Lê (đại y)

2. Uất Đa La Tăng (y thất)

3. An Đà Hội (y ngũ)

Bình bát là đồ đựng thức ăn khất thực. Tiếng Phạn là Bát Đa La (pAtra), Trung Hoa dịch là ứng lượng khí, vì nó có hình thể, màu sắc và thể lượng tương ứng. Pháp khí là những vật dụng giúp cho việc tu hành như pháp cổ, pháp loa, pháp đăng, pháp tràng cho đến chuông, mõ, khánh v.v….

Không luận là ba y, bình bát hay pháp khí đều là đại biểu cho Tăng đoàn thanh tịnh, tượng trưng cho nhân cách của người tu hành. Hoàng đế Thuận Trị có bài thơ rằng:

Cơm chùa thiên hạ có thiếu chi
Bình bát tùy duyên khắp chốn đi
Vàng ngọc thế gian đâu phải quí
Đắp được ca sa mới diệu kỳ!

Hoàng đế Thuận Trị khen ngợi bình bát, ca sa, cũng chính là khen ngợi Tăng đoàn xuất gia. Người ta phần nhiều có tâm lý quên ân phụ nghĩa, thích ghi nhớ cừu hận mà không chịu nghĩ đến ân tình. Trong xã hội, ta dù cả ngàn lần giúp người mà chỉ một lần không làm vừa ý họ là bị hiềm giận! Nên Kinh này dạy người đệ tử tại gia học Phật phải thường nghĩ nhớ đến ba y, bình bát, pháp khí, không nên nhớ đến lầm lỗi của người. Phật tử tại gia như Trưởng giả Duy Ma Cật, phu nhân Thắng Man đều là Bồ tát tại gia. Văn Thù, Phổ Hiền đều hiện tướng Bồ tát tại gia để giáo hóa chúng sinh. Chỉ có Địa Tạng Bồ táthiện tướng xuất gia. Bồ tát không có phân biệt trên hình tướngxuất gia hay tại gia, mà chỉ dựa vào sự phát tâm tu hành để đánh giá phẩm vị cao hay thấp. Hơn nữa, nói về xuất gia cũng có bốn hạng khác nhau:

1. Thân tâm đều xuất gia: Đây là chỉ các vị Tỳ kheo không tham luyến các cảnh dục.

2. Thân tại gia mà tâm xuất gia: Đây là chỉ hàng cư sĩ tuy thọ dụng ngũ dụctâm không đắm nhiễm.

3. Thân xuất gia tâm không xuất gia: Đây là hạng tu sĩ đầu tròn áo vuông mà tâm vẫn luyến ái thế tục.

4. Thân tâm đều không xuất gia: Đây là chỉ người thế tục thọ dụng năm dục, chìm đắm trong ái nhiễm.

Đứng trên phương diện nào xét cũng vậy, người học đạo không luận xuất gia hay tại gia đều như nhau không khác. Phật tử tại gia tuy thân không mặc ca sa, nhưng chỉ cần chí mong được xuất gia, tức tâm xuất gia là tốt rồi. Vua Đường Thái Tông là Lý Thế Dân nói: Xuất gia là việc của bậc đại trượng phu, không phải là kẻ làm tướng văn, tướng võ có thể đảm đương nỗi. Nếu không thể làm một vị Tỳ kheo xuất gia có khả năng hoằng Pháp lợi sinh, thì tốt hơn nên làm vị cưtại gia hộ trì Chánh Pháp!

Trong hàng ngũ Phật giáo ngày nay, phần nhiều người xuất gia không ra xuất gia, người tại gia không ra tại gia, thật khiến cho chúng ta vô cùng xót xa! Người xuất gia thì ham phú quý vinh hoa trong xã hội, sống chỉ mong cầu vật chất, bị thế tục hóa; người tại gia lại thích can thiệp vào việc của Tăng đoàn, quản lý chùa chiền, đây đều là hiện tượng không tốt đẹp. Hy vọng rằng sau này, hàng Bồ tát tại gia ủng hộ Phật Pháp, hộ trì Tam Bảo, chú trọng về việc từ thiện trong xã hội, không nên vì quyền lợi quản lý tài sản trong các tự việntranh giành với hàng Tỳ kheo; cũng hy vọng sau này, người xuất gia trụ trì Phật Pháp, trụ trì Tam Bảo, phải có một nền tảng đức hạnh, học vấn vững chắc, để lãnh đạo Phật tử tại gia trong sự nghiệp giáo dục, văn hóa, từ thiện. Được như vậy, Phật giáo may mắn lắm thay! Chúng sinh may mắn lắm thay! Kinh này chỉ ra người tại gia cần phải chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch; người xuất gia phải hạnh thanh tịnh cao xa, từ bi với tất ca.

Hạnh thanh tịnh tức là phạm hạnh. Phạm có nghĩa là thanh tịnh, hạnh là hành vi cách sống. Cách sống xa lìa lỗi lầm, dục lạc, đó là phạm hạnh. Từ là đem đến cho chúng sinh niềm vui, bi là làm vơi hết khổ đau của chúng sinh. Thương yêu giáo hóa đó là từ bi. Đệ tử xuất gia phải thực hành hạnh thanh tịnh đến chỗ cao xa, dùng lòng từ bi vô ngã để đối đãi với tất cả chúng sinh, đem ân huệ ra chan rải khắp cuộc đời!

Dịch thơ:

Điều thứ bảy nhớ ghi giác biết
Ngũ dục là muôn kiếp họa tai
Thân tuy ở tục qua ngày
Tâm không đắm nhiễm trần ai thói đời.
Thường nhớ nghĩ ba y, bình bát
Tiêu biểu cho Bồ tát xuất gia
Chí mong sớm được xa nhà
Sống đời giải thoát an hòa thanh cao.
Lập nguyện lớn cầu Vô thượng đạo
Hạnh kiên trì hoài bão độ sanh
Dù bao chướng ngại tu hành
Vẫn không lay chuyển hạnh lành từ bi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11645)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11971)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11359)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12076)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12570)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10775)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17997)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9960)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10181)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15356)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15380)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12424)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11195)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10627)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13180)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12699)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13117)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13544)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11963)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11646)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14530)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12626)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15671)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13636)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11181)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12191)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10322)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12205)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16617)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14281)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19716)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24621)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant