Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Bố thícăn bản rộng độ chúng sanh

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11385)
7. Bố thí là căn bản rộng độ chúng sanh

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 7: Bố thícăn bản rộng độ chúng sanh

Phiên âm:

Đệ lục giác tri: Bần khổ đa oán, hoành kết ác duyên. Bồ Tát bố thí, đẳng niệm oan thân, bất niệm cựu ác, bất tắng ác nhân.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ sáu: Nghèo khổ hay oán hờn, thường kết ngang duyên ác. Bồ Tát hành bố thí, bình đẳng với oán thân, không nhớ đến lỗi cũ, không ghét bỏ người ác.

Giảng giải:

Trong đoạn Kinh trên, trước hết chúng tôi sẽ nói quan điểm về giàu nghèo trong thế gian theo Phật giáo.

Trong đời này, người có tiền ở nhà cao cửa rộng, ăn món ngon vật lạ; người không tiền kiếm nhà tranh ở cũng khó, ba bữa ăn chưa chắc đã no. Người nghèo hèn lúc gặp vận may, của cải vào như nước. Người giàu sang khi gặp vận rủi, phải lưu lạc xin ăn. Đây là những điều thường thấy trong đời. Cho nên nghèo hèn không phải nghèo hèn mãi; giàu sang cũng chẳng phải giàu sang hoài. Nghèo hèn là do xan tham, giàu sang là nhờ hỷ xả.

Theo cách nhìn Phật giáo, giàu và nghèo không phải ở nơi có tiền hay không tiền. Nên biết, nghèo kho? không phải là nói người không có tiền bạc, châu báu. Dù cho người có vàng bạc, ngọc ngà chất đầy như núi, mà không có đạo đức, không có học vấn, không có phước tuệ, vẫn gọi là nghèo khổ.

Trên đời này người có tiền rất nhiều, nhưng họ không biết khéo sử dụng tiền bạc, nên trở lại bị tiền bạc sai sử, làm tôi mọi cho nó. Chỉ cần có tiền là chuyện gì họ cũng dám làm, dù phi pháp, xấu xa đến mấy! Những người này tuy có tiền, nhưng không có trí tuệ, không biết dùng tiền vào chỗ hữu dụng, ngược lại còn gây ra đau khổ, nên vẫn là nghèo kho?

Người nghèo khổ thì dễ dàng khởi tâm oán giận. Họ do thấy mình khốn khổ gian nan, nghèo cùng không nơi nương tựa, nên thường sinh tâm oán trời trách người, ghen ghét với kẻ phước to, học rộng; buồn giận với người sang quí, tài cao, thậm chí tìm trăm mưu ngàn kế để hại người, gây ra biết bao ác duyên, tạo thành vô số ác nghiệp!

Người nghèo khổ hay oán giận những gì?

Thứ nhất là trên oán trời. Họ hận Bồ tát sao không gia hộ, trách thần minh sao chẳng hiển linh?

Có những người chỉ vì cầu tài lợi trước mắt mà bị tà giáo dụ dỗ, làm mê hoặc, ngay cả bài vị tổ tông cũng đem đi bán! Đây là điều mà các địa phương như Cao Hùng, Hoa Liên v.v… ở Đài Loan thường xảy ra.

Thứ hai là dưới oán thế gian. Một mai gặp lúc nghèo khổ, thất chí, lại trách xã hội như thế này, chủ nghĩa như thế kia, chế độ như thế nọ.

Thứ ba là trong oán gia đình quyến thuộc. Có nhiều người ra ngoài gặp nhiều chuyện bực mình, về nhà lại đem vợ con ra hành tội! Khi không có tiền, họ lại trách người trong nhà vô dụng. Đó gọi là: Thiếu gạo vợ chồng sinh lắm chuyện!

Thứ tư là ngoài oán thầy bạn. Người thất nghiệp thường không trách mình thiếu tài chuyên môn, lại cứ trách bạn bè không chịu giúp đỡ.

Những trường hợp do nghèo khổ sinh ra oán giận như trên, không những chỉ làm khổ cho mình, mà còn làm khổ cho người!

Nếu về mặt vật chất không dư dả, nhưng về mặt tinh thần lại biết tu dưỡng, thì cuộc sống của chúng tađạm bạc vẫn thấy an vui.

Người không có tiền mà có trí tuệ đạo đức, vẫn không phải là người nghèo khổ, và cũng không bao giờ oán trời trách người. Thuở xưa, Nhan Hồi nghèo đến nỗi chỉ có cơm một giỏ, nước một bầu, ai thấy cũng đều tội nghiệp, mà ông vẫn sống an lạc như thường. Cho nên nghèo khổ hay oán không phải chỉ đánh giá trên mặt kinh tế. Hàng ẩn sĩ ở núi sâu, bậc đầu đà nơi cổ tự, họ tuy thiếu thốn về mặt của cải, vật chất, song về mặt tinh thần lại giàu có không ai sánh bằng!

Người nghèo khổ suốt ngày không biết tu tạo phước đức, chỉ biết kiếm tiền. Trên đời không ai giàu ba ho, vì cho dù thần tài hoan hỷ cho bạn tiền, nhưng đàng sau thần tài còn có quỷ nghèo đi theo đòi lại! Thực ra, dù mình có tiền mà không biết đủ, thì thần tài cũng không thể nào làm ta vui lòng! Nếu không biết đủ, gia tài dù muôn vạn vẫn cảm thấy nghèo khổ, và như vậy oán giận cũng càng nhiều, ác duyên càng kết nối, ác nghiệp càng gây tạo vô số!

Người tu học đạo Bồ tát, không luận là nghèo giàu, đều không oán trời trách người. Trái lại, Bồ tát còn nguyện đem vật sở hữu của mình ra bố thí cho người. Bố thí, đây là cách phát tài tốt nhất. Phần đông người ta nghĩ rằng bố thí là cho người, và đã cho người, thì làm sao mình phát tài cho được? Thực ra, đạo lý này rất đơn giản. Như một đám ruộng, nếu ta không gieo trồng, làm sao có thu hoạch? Không có hạt giống tu tập bố thí, thì làm sao có hoa trái giàu sang?

Chư Phật Bồ tátba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, là do nhiều đời, nhiều kiếp tu hạnh bố thí mà được. Hành giả Đại thừa, tu học lục độ vạn hạnh, lấy bố thí làm đầu trong sáu Ba la mật. Tâm Bồ đề, tâm từ bi của chúng ta phải được nuôi dưỡng từ hành động bố thí.

Thuở xưa có một bà cụ nghèo hèn than với tôn giả Ca Chiên Diên về sự cực khổ, nghèo đói của mình. Nghe xong, Ngài nói:

- Bà vì nghèo mà chịu khổ, sao không bán phứt cái nghèo đi?"

- Cái nghèo có thể bán được sao?

Bà cụ kinh ngạc kêu lên, và tiếp theo hỏi:

- Cái nghèo nếu bán được, thì ai mà chẳng muốn bán! Vậy trên đời này đâu còn ai nghèo? Hơn nữa, có ai chịu mua cái nghèo đâu?

- Bà hãy bán cho ta!

Tôn giả điềm nhiên đáp.

Bà lão liền xin tôn giả chỉ cách bán cái nghèo. Tôn giải khai thị:

Hãy bố thí! Đó là cách bán cái nghèo. Bà nên biết giàu nghèo trong đời đều có nhân duyên. Người nghèo hèn do đời trước không biết bố thí tu phước. Do đó, bố thí là cách bán nghèo, mua giàu tốt nhất.

Bà cụ nghe rồi trí tuệ khai phát, từ đó biết tu tạo phước đức và hành Bồ tát đạo!

Nhưng có người sẽ nghĩ như vầy: Người có tiền đương nhiên có thể làm việc bố thí, còn nghèo khổ như bà cụ này thì lấy gì mà bố thí.

Nói đến bố thí, nhiều người nghĩ phải có tiền bạc, của cải mới bố thí được. Nhưng thực ra, bố thí có nhiều phương diện, không phải nhất định đem tiền bạc, của cải ra cho người mới là bố thí. Dù chúng ta nghèo đến nỗi không có một chút gì, cũng vẫn thực hành hạnh bố thí được! Ví dụ khi chúng ta gặp ai, mình đưa tay vẫy chào: Anh mạnh khoẻ! Hoặc hỏi: Anh ăn cơm chưa? Hay anh từ đâu đến? Cám ơn anh! Mời ngồi! A Di Đà Phật!

Nếu bạn làm được như thế, thì không những sẽ gieo duyên tốt với người, mà còn thực hành được việc bố thí ngôn ngữ. Ngoài điều này ra, lúc bạn tiếp xúc với người mà mỉm cười, nét mặt hoan hỉ, chú ý lắng nghe v.v…, đây chính là bố thí vẻ mặt. Thấy người lạc đường thì chỉ lối hay dắt họ đi. Thấy người khiêng đồ không nỗi, thì xách hay khiêng giùm họ, thấy người làm không được thì giúp họ làm, đây gọi là bố thí thân hành. Thấy người chịu khổ sinh tâm thương xót, thấy người bố thí sinh tâm hoan hỷ, đây chính là bố thí tâm ý.

Những cách bố thí: Ngôn ngữ, vẻ mặt, thân hành, tâm ý nêu trên, ai nếu muốn đều có thể làm được. Phật Pháp không phải là hàng trưng bày, cũng không phải thuộc về quí tộc! Phật Phápđại chúng, ai ai cũng có thể phụng hành Phật Pháp.

Kinh nói bố thí có ba cách: Tài thí, Pháp thívô úy thí.

Tài thí là đem tiền của, phẩm vật ra giúp cho người; Pháp thí là đem tri thức, kỹ thuật, Chánh Pháp ra dạy cho người; vô úy thíbảo vệ công lý chính nghĩa, vì xã hội dẹp trừ bạo loạn, giúp tinh thần của mọi người được an ổn, không lo sợ.

Hành bố thí là điều dễ dàng. Nhưng thực hành bố thí đạt đến chỗ cả ba đều không là điều rất khó. Khi bố thí người ta dễ nảy sinh ra tâm lý mong người cảm ơn, báo đáp hay ca ngợi công đức của họ. Chẳng những vậy, họ còn cảm thấy mình bố thí được là điều hết sức vinh dự, hay khinh rẽ người nhận vật bố thí. Nếu đem tâm như thế ra bố thí, chỉ là hạnh lànhthế gian, mà không phải hạnh bố thí của Bồ tát. Trong Phật Pháp, bố thí cần phải đặt trên nền tảng cả ba đều không. Một, không có bản ngã ta là người bố thí. Hai, không có thấy đây là người thọ thí. Ba, không thấy kia là vật bố thí. Trong Phật Pháp, hành hạnh bố thí mà không thấy mình hành bố thí, tu công đức mà không thấy mình được công đức. Thực ra, mình không cầu công đức, công đức lại càng vô lượng! Đó gọi là:

Cố ý trồng hoa, hoa chẳng nở
Vô tâm tiếp liễu, liễu xanh tươi!

Bố thí cho người thân hay người mình yêu mến thì dễ, bố thí cho người mình oán hận, đó mới là điều rất khó. Biếu quà cho người mình yêu thích là vì thỏa mãn lòng yêu mến của mình; còn biếu quà cho kẻ mình không thích mới thật là hành hạnh bố thí. Vì thế, Bồ tát bố thí phải bình đẳng oán thân. Không luận chúng sinh là kẻ oán hay người thân, Bồ tát đều bố thí một cách bình đẳng. Nếu có người xưa kia làm hại mình, nay gặp lúc họ mắc nạn nhờ mình cứu giúp, trong lòng ta nhất định sẽ không mấy bằng lòng, hoan hỉ giúp đỡ. Đây là do tâm từ bi của chúng ta không đủ. Nói đến đây tôi chợt nhớ đến nhân cách của Pháp sư Từ Hàng.

Pháp sư đã kể một chuyện mà bản thân gặp phải như sau. Khi Pháp sư giữ chức y bát (tên một chức sự trong tòng lâm) ở Cổ sơn, một hôm Ngài đi vệ sinh quên mang theo giấy, nên xin vị trà đầu (người lo việc trà nước trong chùa) cũng đang đi vệ sinh bên cạnh. Vị này vốn là người xấu tính, nên lấy giấy đã dùng rồi đưa cho, khiến tay Ngài cầm dính đồ dơ! Vị kia trêu chọc người như vậy, gặp ai khác chắc đã nổi giận, nhưng Pháp sư vẫn điềm nhiên như không.

Một hôm Pháp sư Từ Hàng dời phòng , vị kia lại đến. Pháp sư mới nói với ông ấy:

Ông đến thật may quá, nhờ ông giúp tôi xem chừng đồ đạc một lát, tôi mang tấm mềm bông đi trước, sẽ trở lại liền. Một lát sau Ngài quay trở lại, phát hiện ra một trăm đồng tiền bạc để trong ngăn kéo thiếu mất sáu mươi bảy đồng. Ngài rất ngạc nhiên, chợt nghĩ ra, đây nếu không phải là vị trà đầu này lấy thì còn ai? Điều này thì không thể nói ra được. Nếu nói ra rất có quan hệ đến danh dự người ta. Mất tiền còn có thể tìm lại được, còn mất danh dự thì thật khó lấy lại. Ngài nghĩ đến đó, nên giả như là không hay biết gì.

Một lát sau vị trà đầu cáo từ. Từ lão lại tặng ông mười lăm đồng bạc.

Ông ấy không chịu nhận. Nhưng Pháp sư nói rằng làm người phải giúp đỡ lẫn nhau, ông làm chức y bát mỗi tháng được hai mươi đồng, tặng bớt một chút đâu có sao? Nghe vậy, vị trà đầu mới nhận.

Không lâu sau, người trong chùa nghi vị trà đầu này sao có nhiều tiền quá, không biết từ đâu có? Vị trà đầu mới bảo là do Pháp sư Từ Hàng cho. Có người hỏi Từ lão có đúng vậy không. Gặp người khác nhất định sẽ nói ra hành vi trộm cắp của người kia, nhưng Ngài vẫn từ bi độ lượng, không nói xấu hắn một tiếng nào. Hành vi không nhớ lỗi cũ, không ghét người ác này, nếu khôngtinh thần bình đẳng oán thân thì không thể làm nổi. Bố thí cho người từng gây oán với mình, không nói lỗi cũ của người từng làm hại mình, tinh thần này thật vĩ đại biết bao!

Từ lão lại nói với tôi, ông trước giờ vốn là người gầy yếu, song từ khi xảy ra vụ này, lần lần trở nên mập mạnh, cái bụng Di Lặc cũng từ từ to ra! Không nhớ lỗi cũ, không ghét người ác, người học Phật không nên giận cách đêm. Tinh thần: Thà người phụ ta, chớ ta không phụ người, đã khuyên người học hạnh Bồ tát nên khoan dung với người lầm lỗi, dành cơ hội cho họ ăn năn, cải đổi, giúp đỡ họ quay về nẻo chánh. Đây mới là chân chính độ sinh. Không nhớ lỗi cũ, không báo cừu rửa hận là điều mà người có tu dưỡng dễ dàng làm được; còn không ghét người ác, tức người oán ghét khi gặp mặt, mà mình không sinh tâm oán ghét mới là điều rất khó. Muốn làm được oán thân bình đẳng, nếu không có tấm lòng của Bồ tát thì không thể được. Nên biết, oán giận là điều tương đối. Mình giận người, người cũng giận mình. Mọi người đối với oán giận nên mở không nên buộc. Mình khoan thứ với người, thì người cũng khoan thứ với mình. Chúng ta không thể sống cô độc một mình, quả đất tròn, có ngày gặp mặt. Người mình yêu thích để lòng thương yêu, kẻ mình oán giận cũng mở lòng thương yêu, như vậy mới có thể làm được việc oán thân bình đẳng.

Thuở Phật còn tại thế, Đề Bà Đạt Đa nhiều phen làm hại đức Phật, như sai người hành thích, lăn đá trên núi xuống, cho voi say giày xéo v.v…, nhưng Ngài chẳng những không báo thù, mà còn thường nói: Đề Bà Đạt Đatăng thượng duyên cho ta, Đề Bà Đạt Đathiện trí thức của ta! Xem người ác như thiện trí thức, Phật sở dĩ là Phật vì có lòng từ bi bao trùm trời đất, có đức khoan dung đối với người ác.

Thế giới Ta bà là đời ác năm trược. Trong đời ác năm trược, nghịch tăng thượng duyên rất nhiều, trong nghịch cảnhtu tập, thì thành tựu rất mau. Trong cuộc sống tu hành, nếu có người ác phá hoại, đây không phải là một điều bất hạnh, trái lại, nó còn giúp cho đạo nghiệp chúng ta dễ dàng thành tựu.

Không có bóng tối, làm sao hiển hiện được ánh sáng quang minh? Không có ác độc, làm sao có những điều lương thiện? Cho nên, phiền não tức Bồ đề, hành giả Đại thừa không oán ghét người ác, không sợ phiền não. Chỉ cần có tâm niệm oán thân bình đẳng, thì điều ác cũ là ân huệ của chúng ta, còn người ác là thiện tri thức của mình. Mây mù tan hết, sẽ là ánh dương quang rực rỡ chiếu soi!

Dịch thơ:

Điều thứ sáu phải nên giác ngộ
Nghèo khổ nhiều tật đố trách phiền
Thường gây lắm việc oan khiên
Ngang nhiên kết buộc ác duyên với người!
Bậc Bồ tát độ đời bố thí
Bình đẳng tâm không nghĩ oán thân
Càng thương những kẻ ác nhân
Khoan dung hỉ xả những phần lỗi xưa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10174)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12355)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15350)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11248)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12112)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12560)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12619)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12224)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11489)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19710)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24615)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant