Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Quán Chúng Sanh

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 9678)
Chương 7: Quán Chúng Sanh

Chương 7
QUÁN CHÚNG SINH
[1]

Văn-thù hỏi Duy-ma-cật: 

«Bồ tát nên quán sát chúng sinh như thế nào?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Như nhà ảo thuật quán sát ảo vật mình tạo ra; Bồ tát nên quán sát chúng sinh cũng như vậy. Cũng như bậc trí giả nhìn trăng nơi đáy nước; nhìn bóng mình trong gương; nhìn ánh lửa khi nhiệt bốc;[2] như tiếng vọng của lời gọi; như mây nổi trong bầu trời;[3] như đám bọt nước;[4] như bong bóng trên mặt nước;[5] như lõi chuối rỗng; như ánh chớp lóe kéo dài;[6] như đại thứ năm;[7] như uẩn thứ sáu;[8] như tình thứ bảy[9] như nhập thứ mười ba;[10] như giới thứ mười chín;[11] Bồ tát nên quán sát chúng sinh cũng như vậy. Cũng như sắc trong vô sắc giới; như mầm của hạt giống hư;[12] như thân kiến[13] của Tu-đà-hoàn;[14] như sự nhập thai của A-na-hàm;[15] như ba độc của La hán; như tham, sân, phá giới của Bồ tát đã chẳng đắc pháp nhẫn;[16] như tập khí phiền não nơi Phật;[17] như sắc được thấy bởi người mù; như hơi thở ra vào của vị đang nhập diệt tận định;[18] như dấu chân chim trong hư không;[19] như đứa con của người đàn bà vô sinh;[20] như phiền não của người được biến hoá;[21] như những điều thấy trong chiêm bao khi đã thức; như sự thọ thân của vị đã diệt độ;[22] như ngọn lửa không khói;[23] Bồ tát nên quán sát chúng sinh cũng như vậy.» 

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Bồ tát quán như thế thì làm sao thực hành lòng từ?»[24]

Duy-ma-cật đáp: 

«Bồ tát sau khi quán như vậy, lại suy nghĩ, ‹Ta sẽ thuyết pháp như vậy cho chúng sinh.› Đó chính là lòng từ chân chánh. Ngài nên tu hành từ tịch diệt,[25] vì không có gì sanh;[26] hành từ không nóng bức,[27] vì không có phiền não; hành từ bình đẳng,[28] vì bình đẳng với ba thời; hành từ vô tranh,[29] vì không có gì khởi;[30] hành từ bất nhị, vì trong ngoài không kết hợp; hành từ bất hoại, vì rốt ráo diệt tận;[31] hành từ kiên cố, vì tâm không huỷ;[32] hành từ thanh tịnh, vì các pháp tánh tịnh;[33] hành từ vô biên,[34] vì như hư không; hành từ của A-la-hán, vì diệt giặc kết sử;[35] hành từ của Bồ tát,[36] vì an ổn chúng sinh;[37] hành từ Như Lai, vì được như tướng;[38] hành từ của Phật, vì thức tỉnh chúng sinh;[39] hành từ tự nhiên, vì không do nhân mà được;[40] hành từ bồ-đề, vì một vị bình đẳng; hành từ không thể sánh, vì đã đoạn trừ các ái;[41] hành từ của đại bi, vì hướng dẫn bởi Đại thừa;[42] hành từ không mệt mỏiquán không, vô ngã;[43] hành từ của pháp thí không còn nuối tiếc;[44] hành từ của trì giới, vì chuyển hóa người phạm giới; hành từ[45] nhẫn nhục, vì hộ vệ mình lẫn người; hành từ của tinh tấn, vì gánh vác chúng sinh; hành từ của thiền định, vì không cảm thọ vị ngọt;[46] hành từ của trí tuệ, vì mọi sự đều đúng thời;[47] hành từ của phương tiện, vì thị hiện tất cả;[48] hành từ không ẩn dấu, vì trực tâm thanh tịnh; hành từ của thâm tâm, vì không tạp hành;[49] hành từ không dối trá[50] nên chẳng còn việc hư giả; hành từ an lạc, vì khiến cho đạt được an lạc của Phật.[51]

«Đó là những hạnh từ của Bồ tát

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Bồ tát hành bi[52] như thế nào?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Tất cả công đứcBồ tát làm đều được chia sẻ cho cho hết thảy chúng sinh

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Thế nào là hỷ?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Hoan hỷ không hối tiếc những lợi ích gì.» 

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Thế nào là xả ?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Gia ân[53] mà mà không mong cầu tri đáp trả.»

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Sợ sinh tử, Bồ tát nên nương tựa vào đâu?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Bồ tát, trong khi sợ hãi sinh tử, nương tựa vào sức mạnh của công đức Như Lai.»[54]

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Bồ tát muốn nương nhờ sức mạnh của công đức Như Lai thì cần phải an trụ như thế nào?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Bồ tát muốn nương nhờ sức mạnh của công đức Như Lai thì cần phải an trụ nơi chỗ độ thoát hết thảy chúng sinh.»[55]

Văn-thù-sư-lợi hỏi

«Bồ tát nên tiêu trừ cái gì để độ thoát chúng sinh?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Muốn độ thoát chúng sinh phải tiêu trừ phiền não của họ.»

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Làm sao để tiêu trừ phiền não?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Nên thực hành chánh niệm.» [56]

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Làm sao để thực hành chánh niệm?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Hãy hành bất sinhbất diệt

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Pháp gì bất sinh? Pháp gì bất diệt

Duy-ma-cật đáp: 

«Bất thiện thì bất sinh; pháp thiện thì bất diệt

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Đâu là nguồn gốc của thiện và bất thiện?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Thân là nguồn gốc của thiện và bất thiện

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Đâu là nguồn gốc của thân?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Dục tham là gốc.»[57]

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Đâu là nguồn gốc của dục tham?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Hư vọng phân biệt là gốc.»[58]

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Đâu là nguồn gốc của hư vọng phân biệt?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Tưởng đảo điên là gốc.»

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Đâu là nguồn gốc của tưởng đảo điên?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Vô-trụ là gốc.»

Văn-thù-sư-lợi hỏi: «Đâu là nguồn gốc của vô-trụ?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Vô-trụ chẳng có gốc. Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, từ gốc vô-trụ này mà các pháp được kiến lập.»[59]

Bấy giờ trong thất của Duy-ma-cật có một Thiên nữ[60] thấy các trời, người đến nghe Pháp,[61] liền hiện thân xuống rải hoa trời lên các Bồ tátĐại đệ tử.[62] Hoa rắc trên thân các Bồ tát tức thì rơi xuống đất, nhưng rắc trên thân các Đệ tử thì bám vào. Tất cả các vị Đệ tử dùng thần lực phủi hoa, nhưng hoa không đi.

Thấy vậy, Thiên nữ hỏi Xá-lợi-phất: 

«Sao ngài phủi hoa đi?» 

Xá-lợi-phất đáp: 

«Hoa này không như pháp, nên phải phủi đi.» 

Thiên nữ nói: 

«Đừng bảo hoa này không như pháp. Vì sao? Vì chúng không có gì phân biệt,[63] mà chính ngài đang khởi tâm phân biệt. Nếu người xuất gia trong Phật pháp mà còn có cái phân biệt, cái đó mới là không như pháp. Nếu không khởi phân biệt nữa, đó là như pháp. Nhìn chư Bồ tát xem, hoa không bám được vào thân vì các ngài đã đoạn trừ hết thảy tưởng phân biệt. Cũng như người khi đang run sợ thì bị Ma[64] lung lạc. Đệ tử vì sợ sinh tử[65] nên bị sắc, thinh, hương, vị, xúc lung lạc. Người không còn sợ hãi, thì tất cả năm dục không làm gì được. Vì tập khí của kết sử[66] vẫn còn nên hoa bám được thân đó thôi. Nếu tập khí của kết sử trừ sạch, hoa không bám được.»

Xá-lợi-phất hỏi: 

«Cô ở nhà này bao lâu rồi?» 

Thiên nữ đáp: 

«Tôi ở đây cũng lâu như sự giải thoát của bậc kỳ niên.»[67]

Xá-lợi-phất hỏi: 

«Ở đây lâu chừng ấy sao?» 

Thiên nữ hỏi lại: 

«Giải thoát của kỳ niên thì lâu bằng chừng nào?»

Xá-lợi-phất lặng im không đáp. Thiên nữ lại hỏi: 

«Sao bậc Đại trí kỳ cựu im lặng?» 

Xá-lợi-phất nói: 

«Sự giải thoát không thể diễn giải bằng lời. Vì vậy, tôi không biết nói gì.»

Thiên nữ nói: 

«Ngôn thuyết và văn tự đều là biểu lộ của giải thoát.[68] Vì sao? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa; văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa. Vì vậy, thưa ngài Xá-lợi-phất, không có việc lìa văn tựdiễn thuyết giải thoát. Tại sao? Tất cả pháp đều là biểu hiện của giải thoát.» 

Xá-lợi-phất hỏi: 

«Vậy cô há không muốn nói rằng dâm, nộ, si cũng là giải thoát?» 

Thiên nữ đáp: 

«Phật vì người tăng thượng mạn[69] mà nói rằng xa lìa dâm, nộ, si là giải thoát đó thôi. Với người không còn tăng thượng mạn, Phật nói tự tánh dâm, si đồng nhất với giải thoát

Xá-lợi-phất ca ngợi

«Lành thay, lành thay, Thiên nữ! Cô đã sở đắc gì, chứng nghiệm cái gì mà biện tài xuất chúng như vậy?»

Thiên nữ đáp: 

«Tôi không sở đắc gì cũng không chứng nghiệm gì mà được biện tài như vậy. Vì sao? Nếu có sở đắc, sở chứng, thì đối với Phật pháp[70] đó là tăng thượng mạn

Xá-lợi-phất hỏi: 

«Trong ba thừa, cô chí hướng thừa nào?»

Thiên nữ đáp: 
«Khi cần giảng pháp Thanh-văn để chuyển hóa chúng sinh, tôi là Thanh-văn. Khi cần giảng pháp nhân duyên để chuyển hóa chúng sinh, tôi là Bích-chi-phật. Khi cần pháp đại bi để chuyển hóa chúng sinh, tôi là Đại thừa. Thưa Xá-lợi-phất, như người bước vào rừng hoa chiêm-bặc chỉ ngửi thấy mùi hương chiêm-bặc[71] thơm át hẳn các mùi khác; cũng vậy, người bước vào nhà này chỉ ngửi thấy mùi hương công đức Phật và chẳng còn thiết mùi hương Thanh-văn hay Bích-chi-phật. Thưa Xá-lợi-phất, khi mà Đế Thích, Phạm thiên, Tứ thiên vương, các trời, rồng, quỷ thần vào nhà này và được nghe vị Thượng nhân này giảng thuyết Chánh Pháp, hết thảy đều hâm mộ mùi hương công đức Phật mà phát tâm Đại thừa trước khi ra khỏi nhà này. Thưa Xá-lợi-phất, tôi ở đây mười hai năm,[72] chưa từng nghe Pháp Thanh-văn hay Bích-chi-phật, mà chỉ nghe pháp của chư Phật bất khả tư nghị, đại từ, đại bi.

«Thưa Xá-lợi-phất nhà này luôn hiện tám pháp chưa từng có, rất khó gặp. Những gì là tám?

«Thứ nhất, nhà này được rọi sáng bằng ánh kim quang suốt cả ngày đêm không khác nhau; chẳng cần đến mặt trời hay mặt trăng mới sáng.

«Thứ hai, những ai[73] bước vào nhà này không bị bức rức bởi những cáu bẩn.[74]»

«Thứ ba, nhà này thường có Đế Thích, Phạm thiên, bốn Thiên vương và các Bồ tát ở phương khác đến đây hội họp không dứt.

«Thứ tư, sáu Ba-la-mật và các pháp bất thối chuyển[75] luôn được giảng dạy trong nhà này.

«Thứ năm, trong nhà này thường được nghe nhạc trời huyền diệu tấu diễn vô lượng âm thanh của của sự giáo hoá bằng chánh pháp.

«Thứ sáu, nhà này chứa bốn kho tàng tích trữ đầy tràn nhiều bảo vật chu cấp cho người cùng khổ mà không hề kiệt tận.

«Thứ bảy, khi vị Thượng nhân nhà này nghĩ tưởng đến Phật Thích-ca, Phật A-di-đà, Phật A-súc, Bảo Đức, Bảo Viêm, Bảo Nguyệt, Bảo Nghiêm, Nan Thắng, Sư Tử Hưởng, Nhất Thiết Lợi Thành,[76] cùng vô lượng chư Phật khắp mười phương thế giới, thì các Ngài liền đến giảng thuyết rộng rãi pháp tạng bí yếu của chư Phật. Thuyết xong rồi mới trở về.

«Thứ tám, hết thảy mọi thiên cung trang nghiêm và đất Phật thanh tịnh đều ánh hiện trong nhà này.

«Thưa ngài Xá-lợi-phất, nhà này thường hiện tám pháp chưa từng có, rất khó gặp này. Khi đã chứng kiến tám sự kiện bất khả tư nghị như vậy, ai còn vui thích nơi pháp Thanh-văn làm gì?»

Xá-lợi-phất hỏi: 

«Sao cô không chuyển đổi thân nữ này đi?»

Thiên nữ đáp: 

«Mười hai năm nay tôi tìm kiếm tướng người nữ,[77] mà không thể tìm thấy được. Vậy tôi phải chuyển cái gì đổi cái gì? Cũng như nhà ảo thuật làm trò tạo nên một thân nữ huyễn. Nếu có người hỏi, ‹Sao không chuyển đổi thân nữ?›Người này hỏi có chính xác không? »

Xá-lợi-phất đáp: 

«Không chính xác. Sự huyễn không có tướng cố định, làm sao chuyển?»

Thiên nữ nói: 

«Hết thảy các pháp cũng đều như thế, không có tướng cố định,[78] sao ngài hỏi tôi không chuyển đổi nữ thân?»

Nói đoạn, Thiên nữ dùng thần lực biến Xá-lợi-phất thành như Thiên nữ và nàng tự hoá thân thành như Xá-lợi-phất, rồi hỏi: 

«Sao ngài không chuyển đổi thân nữ đó đi?»

Xá-lợi-phất, trong hình tượng Thiên nữ, đáp: 

«Tôi ở đây không biết do chuyển biến gì mà biến thành thân nữ.»

Thiên nữ đáp: 

«Thưa Xá-lợi-phất, nếu ngài có thể chuyển đổi thân nữ đó, thì hết thảy người nữ cũng có thể chuyển. Cũng như Xá-lợi-phất chẳng phải nữ mà hiện thân nữ. Tất cả người nữ cũng vậy, dù họ hiện thân nữ nhưng không phải nữ. Cho nên Phật dạy: ‘Hết thảy pháp đều phi nam phi nữ.’ »

Nói xong, Thiên nữ rút lại dùng phép thần thông khiến Xá-lợi-phất trở lại tướng ban đầu, và hỏi: 

«Sắc tướng thân nữ nay đâu rồi?»

Xá-lợi-phất đáp: 

«Sắc tướng thân nữ không tại đó, cũng không không tại đó.»[79]

Thiên nữ mới nói: 

«Cũng vậy, hết thảy pháp không ở tại đó, nhưng không hề không ở tại đó. Và này, không tại đó, cũng không không tại đó, đó là Phật thuyết vậy.»

Xá-lợi-phất hỏi: 

«Chết ở đây, cô sẽ sinh về đâu?»

Thiên nữ đáp: 

«Hoá thân bởi Phật[80] sinh như thế nào, tôi cũng sẽ sinh như vậy.»

Xá-lợi-phất nói: 

«Hoá thân bởi Phật không chết, không sinh

Thiên nữ đáp: 

«Chúng sinh cũng vậy, không chết, cũng không sinh.» 

Xá-lợi-phất hỏi: 

«Chừng bao lâu cô sẽ chứng đắc giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác?»

Thiên nữ đáp: 

«Chừng nào Xá-lợi-phất trở lại làm phàm phu,[81] khi ấy tôi sẽ chứng đắc giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác

Xá-lợi-phất nói: 

«Tôi trở thành phàm phu; không có trường hợp đó.»

Thiên nữ nói: 

«Cũng không có chuyện tôi chứng đắc giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì sao? Vì bồ-đề không có trú xứ, nên không có người chứng đắc

Xá-lợi-phất nói: 

«Có vô lượng chư Phật nhiều như số cát sông Hằng nay đang chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác; đã chứng đắc, sẽ chứng đắc; thế là nghĩa thế nào?»

Thiên nữ đáp: 

«Do văn tự thế tục mà nói có ba đời, chứ không phải bồ-đề có quá khứ, hiện tại, hay vị lai

Thiên nữ lại nói: 

«Thưa Xá-lợi-phất, ngài có chứng A-la-hán đạo chăng?»[82]

Xá-lợi-phất đáp: 

«Không có gì chứng đắc nên chứng đắc

Thiên nữ nói: 

«Cũng vậy, chư Phật và đại Bồ tát do không có gì chứng đắc nên chứng đắc

Bấy giờ, Duy-ma-cật nói với Xá-lợi-phất: 

«Thiên nữ này đã cúng dường chín mươi hai ức Phật.[83] Nàng có thể du hý với thần thông lực của Bồ tát, đã hoàn thành mọi ước nguyện, đã chứng vô sanh pháp nhẫnđắc pháp Bồ tát bất thối chuyển. Do bản nguyện mà nàng tùy thời hiển hiện để giáo hóa chúng sinh.» 

 

[1] VCX: «Phẩm 7.Quán hữu tình 觀有情品第七 .» Chi Khiêm: Quán nhân vật 觀人物品第七.

[2] Nhiệt thời viêm 熱時炎 . VCX: dương diệm thuỷ 陽焰水, bóng nước trong quáng nắng.

[3] Không trung vân 空中雲. VCX: hư không trung vân thành đài các 虛空中雲城臺閣 , thành quách, đài các trong mây trong bầu trời; Skt. gandharava-nagara, thành phố gandharva, thành phố càn-thát-bà, chỉ thành phố nhìn thấy trong biển do phản chiếu của mây và hơi nước bốc từ biển, thành ngữ Hán nói là «thận lâu hải thị 蜃樓海市,» lầu sò, chợ biển.

[4] DMC: thuỷ tụ mạt 水聚沫. (Skt. phenapiṇḍa). VCX: thuỷ tụ mạt sở hữu tiền tế 水聚沫所有前際 , tiền tế của đám bọt nước; VCS giải thích: «tiền tế vốn không hiện hữu, vì nguyên lai là không.» Nghĩa là, không thể xác định điểm xuất phát của bọt nước. Cf. Pali, Dhp. 46: pheṇūpamaṃ kāyaṃ viditvā, biết rõ thân này như bọt nước.

[5] DMC: thủy thượng bào 水上泡. (Skt. udaka-budbuda) VCX: thủy phù bào hoặc khởi hoặc diệt 水浮泡或起或滅 . bong bóng trên mặt nước chợt nổi chợt chìm. Cf. Trung A-hàm 12 (Đại 1, tr. 503b). Cf. A. iv. 137: udaka-bubbuḷūpamaṃ jīvitaṃ manussānaṃ, sinh mạng của con người như bong bóng nước (không bền chắc).

[6] Điện cửu trú 電久住. VCX không có thí dụ này.

[7] Phật thuyết chỉ có 4 đại.

[8] DMC: ấm 陰. Phật thuyết chỉ có 5 uẩn.

[9] Tình 情. VCX: căn 根. Phật thuyết chỉ có 6 căn. VCS (T38n1782, tr. 1081b24): «Tiếng Phạn tát-đỏa 薩 埵 (sattva), đây nói là hữu tình, tức là 6 căn. Bản dịch cũ vì vậy nói là như tình thứ bảy.»

[10] DMC: nhập 入 . VCX: xứ 處. Phật thuyết chỉ có 12 xứ.

[11] Phật thuyết chỉ có 18 giới 界

[12] VCX thêm hai thí dụ: y phục được dệt bằng lông rùa; sự hưởng thụ dục lạc của trẻ sơ sinh mà yểu mạng.

[13] Thân kiến 身見; VCX: tát-ca-da kiến 薩迦耶見 (= hữu thân kiến); Skt. satkāya-dṛṣṭi, cf. Câu-xá 9 (Đại 29, tr.99b25, 100a1, 156c18): Đoạn trừ ba kết (thân kiến, nghi, giới cấm thủ), chứng quả Dự-lưu (=Tu-đà-hoàn); cf. A. 1. 231: so tiṇṇaṃ saṃyojanānaṃ (=sakkāyadiṭṭhi, vicikicchā, sīlabbata-parāmāso) parikkhayā sotāpanno hoti.

[14] VCX: «như sự tái sinh lần thứ ba của Nhất lai.» Vị Nhất lai (Skt. skṛd-āgāmin) một lần tái sinh thiên giớimột lần tái sinh nhân gian rồi nhập Niết-bàn, khong có tái sinh lần thứ ba. Cf. Câu-xá 24, Đại 29, tr. 123c21, 124a19.

[15] A-na-hàm, hay Bất lai (Skt. anāgāmin) không còn tái sinh Dục giới nên không nhập thai (Skt. garbhāvakrānti). Cf. Câu-xá 24, Đại 29, tr. 124b1.

[16] Đắc nhẫn Bồ-tát 得忍菩薩. CDM (Đại 38, tr.384a13) Triệu nói, «Trụ (= Bồ-tát địa) thứ bảy chắng đắc pháp nhần vô sinh (Skt. anutpattika-dharma-kṣānti), vĩnh viễn đoạn trừ các kết sử của tâm.» VCS (T38n1782, tr.1081c4), «Bồ-tát địa thứ tám trở lên gọi là đắc nhẫn.» (Skt. kṣānti-pratilabdha).

[17] Phật phiền não tập 佛煩惱習, tàn dư của của phiền não còn tiềm phục (Skt. kleśa-vāsanānuśayitā) VCX: Như lai tập khí tương tục 如來習氣相續 (Skt. vāsanā-santana).

[18] VCS: «Tứ thiền trở lên không còn hơi thở ra vào nữa, huống là nhập diệt tận định.» 

[19] VCX thêm: «Như căn của bán-trạch-ca 半擇迦 mà có thế dụng.» Skt. paṇḍaka, bất năng nam, đàn ông bất lực hay bị thiến.

[20] Hán: thạch nữ 石女. VCX: «như hành vi của con của thạch nữ

[21] Hoá nhân 化人 (Skt. nirmitaka). VCX: «Như sự trói buộc của người được Phật biến hoá ra.» Và thêm một thí dụ nữa: «Như phiền não cứu cánh không sinh khởi (atyantānutpanna-kleśa).» Giải thích, VCS: «Địa thứ tám trở lên, tuy hạt giống của phiền não chưa hoàn toàn bị tiêu diệt nhưng do tác động liên tục của vô lậu khiến cho chúng không có điều kiện để sinh khởi, nên nói là phiền nào tuyệt đối không còn sinh khởi

[22] VCX: «Như thân đời sau (hậu hữu tương tục, Skt. bhava-prati-saṃdhāna) của A-la-hán.»

[23] VCX: «Như sự thiêu đốt của ngọn lửa không sinh

[24] VCX: tu đại từ (Skt. mahāmaitrī-bhāvanā).

[25] Hành tịch diệt từ 行寂滅慈 . CDM, «Thâp nói: biết các pháp vốn vắng lặng (tịch diệt, Skt. upaśānta) và vô sanh (anutpanna), nhân đó mà khởi từ tâm nhưng vẫn không mất tịch diệt

[26] VCX: «vì không có các thủ.» Skt. anupādāna (không chấp thủ, tức không phiền não), La-thập đọc là anutpanna.

[27] Bất nhiệt từ 不熱慈. CDM (Đại 38, tr.0384b23), «Triệu nói: phiền não khởi tư ái và kiến; từ tâm mà không ái và kiến, cho nên không nóng bức (nhiệt não).

[28] VCX: «tu từ tâm như thực 如實慈 (Skt. yathābhūta-maitrī) , vì bình đẳng suốt cả ba đời.» Cũng có thể, Skt. trong VCX được đọc là samyak-maitrī (từ tâm chánh trực), trong được đọc là sama-maitrī (từ tâm bình đẳng).

[29] Vô tránh từ 無諍慈 ( Skt. araṇa, cf. cht. 57, Ch.iii).VCX: bất vi từ 不違慈. (Skt. avirodha/ aviruddha: không đối địch, không mâu thuẫn). VCS (T38n1782_p1082a17): «vì phát xuất từ sự bình đẳng của nguyên nhân).»

[30] Vô sở khởi 無所起. VCX: vô đẳng khởi 無等起. Skt. asamutthāna, không có hành vi hiện khởi, không có nguyên động lực để hiện khởi.

[31] Tất cánh tận 畢竟盡 (Skt. atyanta-kṣaya); VCX: tất cánh trụ 畢竟住. (Skt. atyanta-ṣṭhita: vĩnh viễn an trụ; có lẽ trong DMC, được đọc là atyanta-niṣṭhita: đạt đến tận cùng cứư cánh).

[32] VCX: «vì tăng thượng ý lạc (Skt. adhyāśaya: ý hướng hay nguyện vọng) như kim cang.

[33] VCX: «vì bản tánh vốn tịnh (Skt. prakṛti-pariśuddha).

[34] Vô biên từ 無邊慈 (Skt. ananta-maitrī). VCX: bình đẳng từ 平等慈 (Skt. sama-maitrī).

[35] Kết tặc 結賊. Cf. Đại tỳ-bà-sa 94 (T27n1545, tr.487c3): « A-la 阿羅 (Skt. ari) chỉ cho tất cả phiền não; hán 漢 (Skt. han) nghĩa là sát hại. Dùng gươm trí tuệ mà sất hại hết thảy phiền não nên gọi là A-ha-hán (Skt. arhan= ari+han). Cf., Pali, A. iv. 145, arīhatattā ariyo hoti, phá diệt kẻ thù là Thánh.

[36] DMC nhảy một đoạn; VCX: «Tu từ tâm của Độc giác (Pratyeka-buddha), vì không cần Thầy dạy.»

[37] VCX: «Tu từ tâm của Bồ-tát, vì không nghỉ ngơi trong sự giáo hoá chúng sinh

[38] VCX: «Vì chứng ngộ tính chân như của các pháp (sarvadharma-tathatā).»

[39] VCX: «Vì đánh thức các chúng sanh đang ngủ say.»

[40] VCX: «Vì thể nghiệm pháp tính một cách tự nhiên

[41] Vô đẳng từ 無等慈.VCX: «Tu từ tâm không thiên lệch, vì đã đạon trừ yêu và ghét.»

[42] DMC nhảy một đoạn; VCX: «tu từ tâm của vô tránh, vì quán vô ngã.» Xem cht. 28 trên.

[43] DMC có nhảy sót. Xem cht. 41 trên. VCX: «Vì quán tự tánh vốn không.»

[44] Di tích 遺惜 . VXX: sư quyển 師捲 (Skt. ācārya-muṣṭi) , làm thầy mà dấu diếm, không truyền dạy hết. Cf., Pali, D.ii. 100: na tattha … tathāgatassa dhammesu ācariya-muṭṭhi, «ở đây, trong các pháp, Như lai không có bàn tay nắm chặt của người thầy.»

[45] Chú của La-thập (Đại 38, tr.385a17): «chữ hành 行 trên chữ từ 慈 trong đây, không có trong bản Phạn.»

[46] Thọ vị 受味. VCX: ái vị 愛味 , vị ngọt của tham ái.

[47] VCX: «Hiện thực biết pháp trong mọi thời.»

[48] VCX: «Thị hiện cùng khắp trong hết thảy phương diện.» 

[49] Sau phương tiện, VCX đề cập các ba-la-mật tiếp: nguyện, lực, trí; đủ 10 ba-la-mật trong 10 địa Bồ tát. Tiếp theo, tu thần thông, tu nhiếp sự, tu vô trước, đoạn này không tương đưong DMC.

[50] Vô cuống 無誑, không lường gạt. VCX tách thành hai: vô trá 無詐, không trá nguỵ, vì ý lạc (Skt. āśaya: xu hướng hay ý nguyện) thanh tịnh; vô siểm 無詐, không dua nịnh, vì không còn giả dối.

[51] CDM,«Thập nói: trong Phạn bản, trú Niết-bàn lac.» Nghĩa là, La-thập dịch thoát ý. VCX: «Thiết lập cơ sở an lạc của chư Phật.» (Skt. sarvabuddha-sukhavastu-ṣṭhāpya)

[52] VCX: tu đại bi (Skt. mahākaruṇā-bhāvanā).

[53] VCX: «Làm lợi ích một cách bình đẳng

[54] VCX: «Nương tựa và an trú nơi Đại ngã của chư Phật.» Skt. Mahātman, môt trong bốn đức của Đại Niết-bàn (thường, lạc, ngã, tịnh). Khuy Cơ: (T38n1782_p1082c29): «Đại ngã của Chư Phật, tức Đại Niết-bàn.»

[55] VCX: «Muốn an trú Đại ngã thì hãy an trú trong sự độ thoát bình đẳng tất cả chúng sinh

[56] Hành chánh niệm 行正念. VCX: tu tập tác ý quán sát một cách như lý (Skt. yoniśo-manas-kāra).

[57] Dục tham 欲貪; sự ham muốn tính dục. Cf. Câu-xá 8 (Đại 29, tr.41c16): « Trong các môi trường Dục giới, tham chưa được đoạn trừ; tham đó được gọi là dục tham (Skt. kāma-rāga).»

[58] Hư vọng phân biệt 虛妄分別. Skt. vikalpya.

[59] VCX: «Câu hỏi này phi lý. Vô trụ tức là không có gốc…do gốc vô sở trụ mà các pháp được kiến lập.» Cf. Vajracchedikā, yat pratiṣṭhitaṃ tad evāpratiṣṭhitam, «Cái gì được dựng đứng, cái đó không đứng vững.»

[60] VCX: «Thiên nữ sống ở đây từ trước.» VCS (T38n1782_p1083b13): «Thiên nữ này là Bồ tát ở địa thứ tám.»

[61] VCX: «Nghe được pháp vốn chưa từng được nghe.»

[62] Tức các Đại Thanh văn (Skt. Mahāśrāvaka).

[63] Vô sở phân biệt 無所分別. VCX: không phân biệt, không khác phân biệt 無分別無異分別 .

[64] VCX: bị loài phi nhân. La-thập (Đại 38, tr.387b16) dẫn chuyện: Một con quỷ la-sát biến làm con ngựa. Một người đàn ông cỡi mà không nghi ngờ. Giữa đường, con quỷ hỏi, «Ngựa tốt không?» Người đàn ông rút gươm ra hỏi, «Gươm này có tốt không?» Quỷ biết người này không sợ, nên không làm hại được.

[65] VCX: «Sợ sinh tử, nghiệp, phiền não

[66] Kết tập 結習. La-thập (ibid.) giải thích: «Có hai loại tập khí. Tập khí kết sử (=phiền não) và tập khí của sự thiên ái Phật pháp (dharma-tṛṣṇā-vāsana). Khi chứng vô sinh nhẫn thì hết thảy tập khí phiền não đều trừ sạch; nhưng tập khí thiên ái Phật pháp vẫn còn.» (Skt. vāsana) VCX: phiền não tập 煩惱習. Skt. kleśa-vāsana .

[67] Kỳ niên giải thoát 耆年解脫, chỉ vị Trưởng lão lớn tuổi; đây xưng hô ngài Xá-lợi-phất. VCX: «Như giải thoát mà Xá-lợi Tử an trú

[68] Giải thoát tướng 解脫相.

[69] CDM (Đại 38, tr.388b11), Triệu nói: «Coi rẻ sinh tử, đề cao con đường của mình, đó là người tăng thượng mạn.» VCS (T38n1782_p1084b15), «Chưa chứng qưả Phật, mà cho sở chứng của mình là cao nhất, không mong cầu tu chứng thêm nữa; đó là người tăng thượng mạn.» Một trong bảy mạn tùy miên (mānānuśaya), Câu-xá 9 (tr. 101a13, 19): «Chưa chứng đắc công đức thù thắng mà cho là đã chứng đắc, đó là tăng thượng mạn.» Skt. adhimāna.

[70] VCX: «Trong Pháp và Luật (=tì-nại-da) được khéo trình bày (của Phật).»

[71] Chiêm-bặc 瞻蔔. VCX: chiêm-bác-ca 瞻博迦. Khuy Cơ nói: Trung quốc không có loại hoa này. Skt. campaka, loại hoa vàng, tên khoa học Michellia Campaka.

[72] Khuy Cơ (T38n1782_p1084c27): 12 năm, chỉ 12 hai trụ của Bồ tát (Bodhisattva-vihāra): 1. Chủng tánh trụ (gotra-vihāra). 2. Thắng giải hành trụ (adhimukti-cārya-vihāra). 3. Cực hỷ trụ (pramudita-vihāra). 4. Tăng thượng giới trụ (adhiśīla-vihāra). 5. Tăng thượng tâm trụ (adhicitta-vihāra). 6. Tăng thượng tuệ trụ (adhiprajñā-vihāra). 7. Giác phần tương ưng tăng thượng tuệ trụ (bodhi-pakṣa-pratisaṃyukto’dhiprajñā-vihāra). 8. Đế tương tăng thượng tuệ trụ (satya-pratisaṃyukto’dhiprajñā-vihāra . 9. Duyên khởi lưu chuyển chỉ tức tương ưng tăng thượng tuệ trụ (pratītya-samutpāda-pravṛtti-nivṛtti-pratisaṃyukto’dhiprajñā-vihāra . 10. Vô tướng hữu công dụng trụ (nirmitta-sabhoga-vihāra). 11. Vô tướng vô công dụng trụ (nirmittānabhoga-vihāra). 12. Tối thượng bồ tát trụ (agra-bodhisattva-vihāra). Cf. Du-già sư-địa 47 (T30n1579, tr.552c25).

[73] VCX: loài người và loài phi nhân trong thế gian này.»

[74] VCX: «Không bị gây hại bởi phiền não

[75] Bất thối chuyển pháp 不退轉法. VCX: «thường nghe những thảo luận về sáu ba-la-mật, về pháp luân không thối chuyển

[76] Phật Thích-ca 釋迦牟尼佛 , Phật A-di-đà 阿彌陀佛 , Phật A-súc 阿閦佛 , Bảo Đức 寶德, Bảo Viêm 寶炎, Bảo Nguyệt 寶月, Bảo Nghiêm 寶嚴, Nan Thắng 難勝, Sư Tử Hưởng 師子響, Nhất Thiết Lợi Thành 一切利成. VCX: Thích-ca Như lai 釋迦牟尼如來 (Śākya-tathāgata), Vô Lượng Thọ Như lai 無量壽如來 (Amitāyus-tathāgata), Nan Thắng Như lai 難勝如來 (Durjaya-tathāgata). VCX: Bất Đông Như lai不動如來 (Akṣobhya-tathāgata), Bảo Diệm Như lai 寶焰 如來 (Ratnārcis-tathāgata), Bảo Nguyệt Như lai 寶月如來 (Ratnacandra-tathāgata), Bảo Nghiêm Như lai 寶嚴如來 (Ratnavyūha-tathāgata), Bảo Âm Thanh Như lai 寶 音 聲 如來 (Ratnaghoṣa-tathāgata), Sư Tử Hống Như lai 師子吼如來 (Siṃhanadā-tathāgata), Nhất Thiết Nghĩa Thành Như lai 一切義成如來 (Sarvārthasiddha-tathāgata).

[77] Nữ nhân tướng 女人相. VCX: nữ nhấn tánh 女人性. Skt. strī-liṅga.

[78] Chư phápvô hữu định tướng 諸法 無有定相 . VCX: «Tánh và tướng của các pháp đều không phải là chân thật

[79] Vô tại vô bất tại 無在無不在 ; CDM (Đại 38, tr.0389c18), «Triệu nói: muốn nói có ở đó thì nay thấy là vô tướng. Muốn nói không có ở đó thì lại thấy ngay là hữu tướng.» VCX: vô tại vô biến 無在無變 . VCS (T38n1782_p1085c18), «Y theo lý mà ứng đối, tướng nữ vốn không có, cho nên là bất tại. Nguyên lai thật không có nữ, thì cái gì được biến? Vả, pháp tánh vốn không, cái gì tại, cái gì biến? Bản dịch cũ nói vô tại vô bất tại. Không thật có nữ mà xưa tại đó, nay không tại đó. Cũng không có nữ thật, thì cái gì tại, cái gì không tại?» Skt. na vyavasthito naiva nirmāṇaḥ, không nguyên trạng cũng không biến thái.

[80] Phật hoá 佛化. VCX: Như lai sở hoá 如來所化; VCS: con người được Phật biến hoá ra. Skt. buddha/tathāgata-nirmāṇa.

[81] VCX: «Trở lại dị sinh (Skt. pṛthagjana) với tất cả tính chất của dị sinh (Skt. pṛthagjana-dharma).»

[82] A-la-hán đạo 阿羅漢道 . Cf. Vajracchedikā: tat kiṃ manyase subhūte api nu arhata evaṃ bhavati – mayā arhattvaṃ prāptam iti? Này Subhūti, A-la-hán có nghĩ rằng, «Ta chứng đắc quả vị A-la-hán» chăng?»

[83] VCX: 92 câu-chi na-dữu-đa 俱胝那庾多, Skt. koṭi-nayuta (~10 000 000 x 100 000 000= 1015)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11656)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11975)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11131)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11375)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12084)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12580)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10788)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18017)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11745)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9967)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10202)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12368)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15378)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11267)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14346)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12125)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15392)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12023)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12431)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11209)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12108)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10641)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12572)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13192)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14863)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12717)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16602)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19688)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13128)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12680)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12279)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11875)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10911)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13553)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11970)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11857)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11652)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12784)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14538)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12647)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15686)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13643)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12921)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9901)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18035)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11196)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9104)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12210)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13074)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10330)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12217)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15334)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16627)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12236)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11500)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14290)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19723)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14175)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24630)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10713)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant