Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 8: Phật Đạo

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 9745)
Chương 8: Phật Đạo

Chương 8
PHẬT ĐẠO
[1]

Văn-thù hỏi Duy-ma-cật: 

«Bồ tát làm sao để thông đạt Phật đạo?»[2]

Duy-ma-cật nói: 

«Bồ tát đi trên phi đạo[3] là thông đạt Phật đạo

Văn-thù-sư-lợi hỏi: 

«Bồ tát đi trên phi đạo là thế nào?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Bồ tát hành năm vô gián[4] mà không thù không hại.[5] Đi đến địa ngục mà không có cáu bẩn nào của tội lỗi.[6] Đi đến súc sinh mà không có các lỗi lầm của vô minh, kiêu, mạn.[7] Đi đến ngạ quỷ[8] mà vẫn đầy đủ công đức. đi lên các cõi Sắc và vô Sắc giới[9] mà không cho là hơn hết.[10] Thị hiện hành tham dục mà không nhiễm trước. Thị hiện hành sân hận thù nghịch mà không có thù hận ác ý đối với các chúng sinh. Thị hiện hành ngu si mà dùng trí tuệ để chế ngự tâm mình. Thị hiện hành xan tham bủn xỉn mà không tiếc cái gì sở hữu trong ngoài, thân mạng. Thị hiện hành phá giới mà an trụ trong tịnh giới, cho đến dù đối với tội nhỏ vẫn ôm lòng kinh sợ. Thị hiện hành sân nhuếthường hành từ, nhẫn nhịn. Thị hiện hành biếng nhác mà lại siêng năng tu tập công đức. Thị hiện hành loạn ý mà thường chánh niệm, tâm định. Thị hiện hành ngu si[11] mà thấu triệt tuệ thế gianxuất thế gian. Thị hiện hành siểm ngụy mà khéo phương tiện tùy theo nghĩa kinh.[12] Thị hiện hành kiêu mạn[13] mà đối với chúng sinh thì như một chiếc cầu.[14] Thị hiện hành các phiền não mà tâm thường thanh tịnh. Thị hiện nhập bọn với Ma nhưng thuận với trí tuệ của Phật chứ không theo giáo thuyết khác.[15] Thị hiện nhập vào hàng Thanh văn, nhưng thường nói pháp chưa từng nghe cho chúng sinh. Thị hiện trong hàng Bích-chi-phật mà thành tựu đại bi giáo hoá chúng sinh. Thị hiện hoà nhập trong giới cùng khổ nhưng có bàn tay châu báu với công đức vô tận.[16] Thị hiện làm người khuyết tật mà thân tự trang nghiêm các tướng tốt đẹp đẽ. Thị hiện ở giữa giai cấp hạ tiện mà sinh vào chủng tính Phật, đủ các công đức. Thị hiện ở giữa người gầy xấu ốm yếu mà được thân Na-la-diên,[17] hết thảy chúng sinh đều ưa nhìn ngắm. Thị hiện người già yếu mà không ốm đau, vượt qua nỗi sợ hãi sự chết. Thị hiện có mọi tiện nghi của cuộc sống[18] vẫn luôn thấy rõ tính vô thường, không tham cầu gì. Thị hiện có thê thiếp và nàng hầu mà vẫn thường xa rời bùn sình ngũ dục. Thị hiện người đần độn, nói lắp, nhưng lại thành tựu biện tài bằng lực tổng trì không hề quên lãng.[19] Thị hiện đi vào bến tà[20] nhưng vẫn đưa chúng sinh đi qua bằng bến chánh. Hiện vào khắp các đạo mà đoạn trừ nhân duyên của chúng. Hiện ở niết bàn vẫn không dứt lìa sinh tử.[21] 

«Văn-thù-sư-lợi, Bồ tát đi trên phi đạo như vậy là Bồ tát thông đạt Phật đạo

Đoạn Duy-ma-cật lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: 

«Thế nào là chủng tánh của Như Lai?»[22]

Văn-thù-sư-lợi đáp: 
«Hữu thân[23] là chủng tánh; vô minhhữu áichủng tánh; tham, sân, si là chủng tánh; bốn điên đảochủng tánh; năm chướng cái[24] là chủng tánh; sáu nhập[25] là chủng tánh; bảy thức xứ[26] là chủng tánh; tám tà pháp[27] là chủng tánh; chín não xứ[28] là chủng tánh; mười bất thiện nghiệp đạochủng tánh. Nói tóm, sáu mươi hai kiến và hết thảy phiền não đều là chủng tánh Phật.»

Duy-ma-cật hỏi Văn-thù-sư-lợi: 

«Sao lại như vậy?»

Văn-thù-sư-lợi đáp: 

«Vì người thấy pháp vô vi[29] rồi vào chánh vị[30] thì không còn phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cũng như trên gò đất cao thì làm sao nảy nở hoa sen; chỉ mọc nơi chỗ đầm lầy mới mọc hoa này. Cũng vậy, người thấy pháp vô vi rồi vào chánh vị thì cuối cùng không còn sinh nơi Phật Pháp.[31] Chỉ có chúng sinh ở chốn bùn lầy phiền não mới có thể phát khởi Phật pháp. Cũng như hạt giống đem bỏ giữa hư không không bao giờ có thể nảy mầm; đem vùi trong đất phân mới có thể tươi tốt. Do đó, người vào Chánh vị vô vi không phát sinh Pháp Phật; trong khi người khởi lên ngã kiến[32] lớn như núi Tu-di còn có thể phát tâm cầu giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác mà phát huy Pháp Phật.

«Cho nên, nên biết hết thảy phiền não đều là chủng tánh của Như Lai. Cũng như người không lặn xuống biển sâu thì không tìm được ngọc trai vô giá; cũng vậy người không lặn xuống biển phiền não sẽ không tìm được ngọc Nhất thiết trí.» 

Lúc ấy Ma-ha Ca-diếp tán thán

«Lành thay, Văn-thù-sư-lợi, lành thay, lời ông nói thật tuyệt. Đúng như những điều được nói, những đám trần lao đều là chủng tánh Như Lai. Chúng tôi nay thật chẳng thể phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác.[33] Cho đến người phạm năm tội vô gián cũng còn có thể phát ý sanh nơi Phật pháp nhưng chúng tôi thì vĩnh viễn không thể phát. Cũng như người mà căn đã hư hoại thì chẳng còn hưởng lợi được gì nơi ngũ dục. Cũng vậy, hàng Thanh-văn đã đoạn các kết sử chẳng còn thu hoạch gì thêm nơi Phật pháp, vĩnh viễn không có chí nguyện. Cho nên, Văn-thù-sư-lợi, phàm phu còn quay trở lại với Phật pháp chứ Thanh-văn thì không. Vì sao? Vì phàm phu khi nghe Pháp thì có thể phát khởi đạo tâm[34] vô thượng, để cho Tam bảo không gián đoạn. Giả sử Thanh-văn trọn đời nghe Pháp và thấy lực, vô úy của Phật, v.v… nhưng vĩnh viễn không thể phát đạo tâm vô thượng

Lúc ấy,trong hội chúngBồ tát tên Phổ-hiện Sắc-thân hỏi Duy-ma-cật: 

«Cư sĩ, ai là cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc của ngài? Gia nhân tôi tớ của ngài, voi ngựa xe cộ của ngài ở đâu?»

Bấy giờ Duy-ma-cật trả lời bằng bài kệ:

Trí độ,[35] mẹ Bồ tát;
Phương tiện,[36] cha Bồ tát.
Hết thảy bậc Đạo sư 
Đều từ đấy mà sinh.
Lấy Pháp hỷ làm vợ;
Tâm từ bi, con gái; 
Tâm thành thật,[37] là trai.
Nhà, rốt ráo không-tịch;
Đệ tửtrần lao,[38]
Tùy nghichuyển hoá.
Đạo phẩm,[39] là bạn hữu
Nhờ đây thành chánh giác.
Các độ, bạn đồng hành;
Bốn nhiếp là kỹ nữ;
Ca vịnh, tụng pháp ngôn,
Lấy đó làm âm nhạc.
Tổng trì là vườn hoa,
Vô lậu là rừng cây.
Giác ý,[40] hoa tươi đẹp
Quả, trí tuệ, giải thoát.
Tám giải[41] là hồ tắm;
Nước định lắng trong, đầy.
Rải bằng bảy hoa tịnh,[42]
Tắm gội người vô nhiễm.
Voi, ngựa: năm thần thông,
Kéo cổ xe Đại thừa;
Lấy nhất tâm[43] chế ngự
Dong ruổi tám chánh đạo.
Tướng tốt để nghiêm thân
Vẻ đẹp chuốt tư thái.
Tàm quý là trang phục
Thâm tâm[44] là tràng hoa.
Giàu có bảy tài bảo[45]
Dạy dỗ cho thêm ích.
Theo giáo thuyết tu hành
Hồi hướng làm đại lợi.[46]
Bốn thiền là giường chõng
Phát sinh từ tịnh mạng.[47]
Học nhiều, tăng trí tuệ,
Làm âm thanh thức tỉnh.[48]
Cam lộthức ăn;[49]
Vị giải thoát là tương;[50]
Tịnh tâm là tắm gội;
Giới phẩm là hương thoa.
Diệt trừ giặc phiền não,
Dũng mãnh không ai hơn.
Hàng phục bốn thứ ma
Cờ thắng dựng Đạo tràng.[51]
Dù biết không khởi, diệt
Vẫn thị hiện tái sanh
Trên khắp các quốc độ
Như mặt trời rọi khắp.
Cúng dường vô lượng Phật
Khắp mười phương thế giới
Mà không hề phân biệt
Có Phật và có ta.
Dù biết các cõi Phật
Cùng chúng sinh là không
Vẫn thường tu tịnh độ,
Để giáo hóa chúng sinh.
Chúng sinh vô số loại,
Sắc, thanh, và oai nghi;
Bồ tát lực, vô uý,[52]
Khoảnh khắc thảy hiển hiện.
Biết rõ việc chúng ma
Vẫn thị hiện hành theo,
Rồi bằng phương tiện trí,
Tuỳ ýthể hiện.[53]
Hoặc hiện già, bịnh, chết,
Để thành tựu chúng sinh;
Biểt rõ là huyễn hoá,
Thông suốt không chướng ngại.
Hoặc hiện lửa tận thế
Đốt cháy rực cõi đất;
Khiến người tưởng thường hằng
Hiểu rõ pháp vô thường.
Vô số ức chúng sinh 
Cùng đến thỉnh Bồ tát
Một lúc chúng đến nhà,
Chỉ cho hướng Phật đạo.
Kinh sách và chú thuật,
Kỹ, mỹ nghệ đều tinh;
Lấy đó mà thị hiện,
Làm lợi ích quần sinh.
Xuất gia khắp các đạo,
Đạo pháp của thế gian;
Nhân đó trừ mê hoặc,
Chứ không đọa tà kiến.
Làm Vua mặt Trời, Trăng,
Phạm thiên, Thế giới chủ,
Có khi là đất, nước,[54]
Hoặc gió, hoặc là lửa.
Hoặc tai kiếp[55] tật dịch,
Thị hiện cây cỏ thuốc;
Để cho người được uống,
Trị dứt các dịch bịnh.
Hoặc tai kiếp đói kém;
Hiện thân làm thức ăn;
Trước cứu người đói khát
Sau dạy Pháp giải thoát.
Hoặc tai kiếp đao binh;
Khơi dậy tâm từ bi
Gíáo hoá chúng sinh kia
Để sống không tranh chấp.
Hoăc khi gặp đại chiến,
Khiến hai bên cùng mạnh
Rồi dùng lực oai nghiêm
Làm họ giảng hòa nhau.
Trong khắp mọi quốc độ,
Chỗ nào còn địa ngục,
Liền thị hiện chỗ ấy
Giúp người giảm bớt khổ.
Trong khắp mọi quốc độ,
Súc sinh ăn thịt nhau;
Người thị hiện chỗ đó
Làm lợi ích cho chúng.[56]
Thị hiện thọ ngũ dục
Mà vẫn hiện hành thiền,
Làm rối loạn các ma
Không cho chúng tự tiện.
Hy hữu như trong lửa
Nở một đóa sen hồng;
Hành thiền trong ngũ dục
Cũng hy hữu như vậy.
Hoặc hiện làm dâm nữ
Dẫn dụ người háo sắc;
Trước lấy dục câu móc,
Sau hướng về Phật trí.
Hoặc là chủ thành ấp;
Hoặc làm chủ thương buôn;
Làm quốc sư, đại thần;
Cũng vì lợi chúng sinh.
Có người nghèo, đói rách,
Hiện làm kho vô tận;
Rồi nhân đó khuyên dẫn,
Khiến phát Bồ-đề tâm.
Với kẻ tâm kiêu mạn;
Hiện làm đại lực sỹ
Khuất phục các kiêu mạn,
Đưa về vô thượng đạo.[57]
Hoặc đám người kinh sợ,
Liền đến mà an ủi.
Trước làm cho hết sợ;
Sau khiến phát đạo tâm.
Hoặc hiện lìa dâm dục,[58]
Làm tiên nhân năm thông[59]
Để dắt dẫn quần sanh,
Trụ ở giới, nhẫn, từ.
Với người cần phục dịch,
Hiện thân làm tôi tớ
Khiến cho chủ hài lòng
phát khởi Đạo tâm.
Tuỳ theo người nhu cầu,
Mà đưa vào Phật đạo;
Liền dụng lực phương tiện
Cấp cho đủ thứ cần.
Như thế, đạo vô lượng,
Và sở hành không bờ;
Trí tuệ không biên tế,
Người độ vô số chúng.
Dù hết thảy chư Phật
Trải qua vô lượng kiếp
Tán thán công đức này
Cũng không thể nói hết.
Pháp như vậy, ai nghe
Mà không phát bồ-đề?
Chỉ trừ kẻ vô dụng,
Hoặc si ám, vô tri

 

[1] DMC: Phật đạo phẩm 佛道品 . VCX: Bồ đề phần phẩm 菩提分品. Skt. Bodhi-pakṣa-varga. Chi Khiêm: Phẩm Như lai chủng tánh 如來種品第八. 

[2] Thông đạt Phật đạo. VCX, chư Phật pháp đáo cứu cánh thú; «Làm thế nào để đạt đến chỗ quy hướng cứu cánh trong Phật pháp.» Skt. buddha-dharmeṣu niṣṭhita-gatiḥ.

[3] Phi đạo 非道; La-thập nói (Đại 38, tr.390b27): «Có ba thứ phi đạo. 1. Quả báo dẫn đến cõi xấu ác. 2. Hành nghiệp dẫn đến cõi xấu ác. 3. Nghiệp thiện thế tục, và quả báo của nghiệp thiện. VCX: phi thú 非趣; Khuy Cơ (T38n1782_p1086c10): «Chỗ mà phàm hướng đến để quay về gọi là thú 趣. Chỗ quay về của Thánh nhân không phải là chỗ quay về của phàm phu. Đi trên lối đi không thích hợp ấy gọi là hành phi thú 行非趣.»

[4] VCX: ngũ vô gián thú 五無間趣 (Skt. pañca ānantaryārgatayaḥ= pañca ānantaryāṇi karmāni), chỉ năm nghiệp vô gián: giết cha (pitṛ-ghātaḥ), giết mẹ (mātṛ-ghātaḥ), hại A-la-hán (arhad-vadaḥ), phá hoà hiệp tăng (saṃgha-bhedaḥ), gây thương tích nơi Phật (tathāgatasyāntike duṣṭa-citta-rudhirotpādanaṃ).

[5] Não nhuế 惱恚; VCX: nhuế não phẫn hại độc tâm 恚惱忿害毒心, tâm ác độc, thù hận, quấy nhiễu, phẫn nộ, ác hại.

[6] Tội cấu 罪垢. VCX: phiền não trần cấu 煩惱塵垢. Skt. kleśa-mala.

[7] Có thể DMC nhảy sót; VCX: «đi trên lối A-tố-lạc (Skt. āsura) mà không còn ngạo mạn, kiêu dật.»

[8] VCX: «Đi trên lối của Diệm-ma vương (Skt. Yama-rāja) mà chứa nhóm rộng rãi vô lượng tư lương của phước và huệ.»

[9] Hành sắc vô sắc giới đạo 行色無色界道 . VCX: hành ư vô sắc định thú 無色定趣.(ārūpya-samāpatti-gati). 

[10] VCX: «… mà không xu hướng cảm thọ lạc đối với định ấy.»

[11] VCX: ác tuệ hành thú 惡慧行趣. Skt. pāpa-mati-gati ; Cf. Câu-xá 10 (Đại 29, tr. 51c21): tuệ nhiễm ô được gọi là ác tuệ (Skt. kuprajñā/ kutsitā prajñā).

[12] Kinh nghĩa 經義; La-thập dùng từ Hán thư, chỉ đạo lý ghi trong kinh điển. VCX: thể hiện thành công phương tiện thiện xảo.

[13] VCX: mật ngữ phương tiện kiêu mạn 密語方便憍慢: kiêu mạn như là phương tiện của mật ngữ (Skt. sandhyopāyamāna?). VCS (T38n1782_p1087b11) giải thích: «Người đời chúc nhau ‘Không bệnh, sống lâu’; Bồ tát cũng nói theo… như là phương tiện độ người.»

[14] La-thập (Đại 38, tr.0391a12): «Ý nói khiêm tốn như làm đồ vật cho người ta dẫm đạp lên mà vẫn nhẫn nhịn, không kiêu mạn

[15] VCX: bất tuỳ tha duyên 不隨他緣, không lệ thuộc điều kiện của người.

[16] La-thập (Đại 38, tr.0391a25) nói: «bảo vật từ bàn tay tuôn ra bất tận.»

[17] Na-la-diên thân 那羅延身; La-thập (ibid.) nói: «Thân thể đẹp đẽ, rắn chắc như lực sỹ nhà trời.» Skt. nārāyaṇa-bala (kāya).

[18] VCX: cầu tài vị 求財位. Skt. bhogānārabhya-paryeṣṭi.

[19] Tổng trì vô thất 總持無失. VCX: đà-la-ni niệm tuệ vô thất 陀羅尼念慧無失. 

[20] Tà tế 邪濟. VCX: tà đạo 邪 道.

[21] DMC nhảy một đoạn; VCX: «Tuy thị hiện chứng đắc diệu Bồ đề, chuyển đại pháp luân, nhập Niết-bàn nhưng vẫn tinh cần tu tập Bồ tát hành, tiếp nối không dứt.»

[22] Như lai chủng 如來種. La- thập (Đại 38, tr.0391b27) nói, «Chủng, và căn bản nhân duyên, cùng một nghĩa.» Đạo Sinh (ibid.) nói, «Mượn hạt giống lúa mà nói Như lai chủng.» Chủng ở đay đựơc hiểu là bīja. VCX: Như lai chủng tánh 如來種性; VCS (T38n1782, tr.p1087c22): «Chủng là nhân; tánh là loại.Thể loại của nhân của Phật gọi là Phật chủng tánh.» Skt. tathāgata-gotra: gia tộc hay dòng dõi. Cf. Du già sư địa 35 (T30n1579, tr.478c12): «Có hai loại chủng tánh: 1. Bản tánh trụ (Skt. prakṛti-stha-gotra), chủng tánh tự nhiên có sẵn từ vô thủy của Bồ tát. 2. Tập sở thành (samudānīta-gotra), do tu tập các thiện căn mà thành… Chủng tánh này cũng có nghĩa là chủng tử (gotra = bīja).»

[23] Hữu thân 有身. La-thập, «Hữu thân, chỉ năm thọ ấm (=thủ uẩn, Skt. upādāna-skandha) thuộc hữu lậu.» VCX: ngụy thân chủng tánh 偽身種性. Khuy Cơ (T38n1782, tr.1088a19):«Tức thân năm uẩn làm đối tượng cho tát-ca-da kiến (Skt. satkāya-dṛṣṭi).»

[24] Ngũ cái 五蓋. Skt. pañca nīvaraṇāni, ngăn che và chướng ngại.

[25] VCX: lục xứ chủng tánh 六處種性. Skt. ṣaḍ āyatanāni, sáu nội xứ hay sáu căn.

[26] Thất thức trụ 七識住. Skt. vijñāna-sthiti, bảy chỗ an trụ của thức. Cf. Câu-xá 8 (Đại 29, 42c) 

[27] Tám tà pháp 八邪法; các bản không giải. Thường chí phần đối lập với tám chánh đạo.

[28] Chín não xứ; chín trường hợp thù oán: 1. Oan gia của người mà ta thương; 2. Thân hữu của người mà ta ghét; 3. Gây phiền cho bản thân ta. Nhân với ba thời thành chín. Skt. āghāta-sthāna. Cf. Pali, Saṅgīti, D.iii.262, nava āghāta-paṭivinayā.

[29] Kiến vô vi 見無為 .La-thập nói (Đại 38, tr.0392b01): «Vô vi, tức tận đế (= diệt đế; Skt. nirodha-satya).

[30] Chánh vị 正位 . La-thập (ibid.) nói: «Từ khổ pháp nhẫn cho đến vô sinh A-la-hán, cho đến Phật vị, đều gọi là chánh vị.» VCX: chánh tánh ly sanh vị 正性離生位. Khuy Cơ (T38n1782 tr.1088b26): «Chánh tánh chỉ chân lý Thánh đế. Sanh, chỉ dị sanh (Skt. pṛthagjana: phàm phu). Ly sanh, tức vượt ngoài địa vị phàm phu… Đây chỉ địa vị Dự lưu trở lên.»

[31] VCX: «Không thể phát khởi tâm Nhất thiết trí 一切智心 (Skt. sarvajñatā-citta).»

[32] VCX: khởi thân kiến 身見. (Skt. satkāya-dṛṣṭi: hữu thân kiến).

[33] VCX: «Chúng tôi, trong dòng tương tục của tâm, hạt giống sanh tử đã mục nát, không còn cơ hội để phát tâm…»

[34] Đạo ý 道意 : Bồ đề tâm.

[35] Giải thích của Khuy Cơ (T38n1782_p1089b25): trong bản Huyền Trang, chỉ ba-la-mật thứ sáu tức Bát-nhã ba-la-mật (Skt. prajñāpāramitā) vốn là trí vô phân biệt (Skt. nirvikalpa-jñāna); trong bản La-thạp, trí độ chỉ ba-la-mật thứ mười (jñāna-pāramitā).

[36] Khuy Cơ, đây chỉ ba-la-mật thứ 7, mà tự thể là hậu đắc trí (pṛṣṭhalabdha-jñāna).

[37] Thiện tâm thành thật 善心誠實. Chân thật đế pháp 真實諦法 (Skt. satya-dharma).

[38] VCX: «Lấy phiền não nô lệ hèn mọn và kẻ giúp việc, tuỳ ýsử dụng

[39] Đạo phẩm, La-thập nói: 37 phẩm chung cho cả ba thừa. Đạo phẩm của Bồ tát kiêm cả sáu ba-la-mật. VCX: Giác phần 覺分 (Skt. bodhi-pakṣa). Khuy Cơ: Nhân tố của Bồ đề nên gọi là giác phần, chứ không phải là 37 phần Bồ đề.

[40] Giác ý 覺意, Đạo Sinh: chỉ 7 giác ý; Skt. bodhyaṅga. VCX: giác phẩm 覺品; Khuy Cơ: chỉ 37 giác phẩm hay trợ đạo; Skt. bodhi-pakṣa.

[41] Tám giải thoát 八解脫 (Skt. aṣṭau vimokṣāḥ).

[42] Bảy thanh tịnh 七清淨: 1. giới tịnh; 2. tâm tịnh; 3. kiến tịnh; 4. độ nghi tịnh; 5. phân biệt đoạ tịnh; 6. hành trí kiến tịnh; 7. hành đoạn trí kiến tịnh.

[43] La-thập: «Nhất tâm, trong bản phạm là hoà hiệp 和合 (Skt. samagrī?) . Trong đạo phẩmba tướng: phát động, nhiếp tâm và xả. Phát động quá thì tâm tán; do đó cần thâu nhiếp lại. Nhiếp quá thì chìm nên cần tinh tấn… Đông tĩnh thích hợp, khoan thai xử trung; đó là xả. Xả là đã được chế ngự. Được chế ngự, là hoà hiệp.» VCX: bồ-đề tâm (Stk. bodhicitta).

[44] VCX: thắng ý lạc 勝意樂 (Skt. adhyāśaya).

[45] Chỉ 7 Thánh tài 七聖財 (Skt. sapta dhanāni): tín, giới, tàm, quý, đa văn, xả, tuệ.

[46] VCX: hồi hướng đại Bồ đề.

[47] Tùng ư tịnh mạng sanh 從於淨命生 ; Khuy Cơ cho là văn dịch này hơi tối nghĩa. VCX: lấy tịnh mạng (Skt. śuddhājīva) là chăn đệm.

[48] La-thập: «người sang quý ngoại quốc, khi mặt trời mọc, sai người tấu nhạc để đánh thức.» VCX: «Niệm, trí thường giác ngộ; tâm luôn luôn tại định.»

[49] VCX: «Thức ăn là pháp bất tử (Skt. amṛta-dharma)

[50] Tương 漿 , đây chỉ thức uống.

[51] VCX: «dựng cờ diệu Bồ đề

[52] Chỉ 10 lực và 4 vô uý của Bồ tát.

[53] Khuy Cơ diễn ý: «Tuy biết rõ các nghiệp của Ma, nhưng thị hiện như là hành động theo chúng. Cho đến giai đoạn cứu cánh, bằng vào tuệ phương tiện mà dứt sạch tất cả.»

[54] La-thập (Đại 38, tr.0395c14): «Hoặc khi thấy có người ra biển mà thuyền sắp bị chìm, Bồ tát biến mình thành đất liền để làm chỗ trú ẩn…»

[55] Trung kiếp 劫中 (Skt. antarkalpa), chỉ thời tận thế. Trong thời này, loài người chịu ba tai họa nhỏ, gọi là tiểu tam tai: dịch bịnh, đói kém, chiến tranh. Cf. Câu-xá 12 (Đại 29, tr. 65c25).

[56] VCX: «Làm lợi lạc, đó gọi là bản sanh.» Khuy Cơ (T38n1782, tr.1090c14): «Những việc làm lợi lạc như vậy, khi đã thành Phật được gọi là bản sanh. Đó chính là Bản sanh sự của Bồ tát

[57] VCX: khiến phát Bồ đề nguyện.

[58] VCX: thanh tịnh tu phạm hạnh.

[59] Ngũ thông tiên nhân 五通仙人 (Skt. pañcābhijña ṛṣi).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11656)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11975)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11131)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11375)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12085)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12581)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10788)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18019)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11746)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9967)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10202)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12369)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15378)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11268)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14346)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12125)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15392)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12023)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12431)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11210)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12108)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10641)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12572)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13193)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14863)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12720)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16603)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19688)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13128)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12682)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12279)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11876)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10911)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13553)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11970)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11858)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11652)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12784)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14539)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12649)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15686)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13643)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12921)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9901)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18036)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11196)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9104)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12210)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13075)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10330)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12218)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15334)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16627)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12237)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11500)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14290)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19723)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14175)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24630)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10713)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant