Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4: Bồ Tát

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 10111)
Chương 4: Bồ Tát

Chương 4
BỒ TÁT
[1]

Rồi thì, Phật nói với Bồ tát Di-lặc:[2] 

«Ông hãy thay Ta đến thăm bệnh Duy-ma-cật.»

Di-lặc đáp: 

«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy. Vì sao? Nhớ lại xưa kia, có lần con đang giảng cho Thiên vương Đâu-suất[3] và quyến thuộc về sự thực hànhđịa vị bất thối chuyển,[4] Duy-ma-cật bỗng đến và nói với con: ‘Thưa Di-lặc, khi đức Thế Tôn thọ ký[5] Nhân giả còn một đời nữa sẽ chứng đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Sự thọ ký ấy nhắm vào đời nào? Quá khứ chăng? Vị lai chăng? Hiện tại chăng? Nếu là quá khứ, thì quá khứ đã diệt. Nếu là vị lai thì vị lai chưa đến. Nếu ở hiện tại, thì hiện tại không đình trú. Như Phật đã nói: ‘Này tì kheo, ngươi nay tức thời vừa sinh, vừa già, vừa diệt.’ Nếu bằng vô sinh mà được thọ ký, thì vô sinhchính vị.[6] Mà trong chính vị thì không có thọ ký, cũng không có sự chứng đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Vậy làm sao Di-lặc được thọ ký còn một lần tái sinh[7]? Ấy là bằng Như[8] sinh mà được thọ ký, hay bằng Như diệt mà được thọ ký? Nếu bằng Như sinh mà được thọ ký, thì Như vốn không sinh. Nếu bằng Như diệt mà được thọ ký, thì Như vốn không diệt. Vì hết thảy chúng sinh đều là Như tính vậy. Hết thảy pháp cũng là Như tính vậy. Các Hiền Thánh cũng là Như tính vậy. Di-lặc cũng là Như tính vậy. Như vậy, nếu Di-lặc được thọ ký, thì hết thảy chúng sinh cũng đều được thọ ký. Vì sao? Vì Như vốn không hai, không khác. Nếu Di-lặc chứng đắc giác ngộ tối thượng, thì hết thảy chúng sinh cũng chứng đắc giác ngộ tối thượng. Vì sao? Vì hết thảy chúng sinh tức là hiện tướng của Bồ-đề.[9] Nếu Di-lặc mà diệt độ, thì hết thảy chúng sinh cũng diệt độ.[10] Vì sao? Chư Phật biết rõ hết thảy chúng sinh rốt ráo tịch diệt, tức là tướng bồ-đề, không còn gì để diệt nữa.[11] Thưa Di-lặc, vì thế không nên dụ[12] chư Thiên bằng pháp này; vì thật sự không có người phát tâm bồ-đề tối thượng cũng chẳng có người thối lui. Di-lặc hãy nên khiến cho họ tránh xa những quan niệm phân biệt về bồ-đề. Vì sao? Vì bồ-đề không thể được chứng đắc bằng thân, không thể được chứng đắc bằng tâm. Tịch diệt là Bồ-đề, vì diệt các tướng.[13] Chẳng quán là Bồ-đề vì nó lìa ngoài nhân duyên.[14] Chẳng hành là Bồ-đề vì nó dứt tuyệt nghĩ tưởng.[15] Đoạn là Bồ-đề, vì xả ly các kiến. Xả ly là Bồ-đề, vì xả ly vọng tưởng.[16] Chướng là Bồ-đề, vì chướng các nguyện.[17] Chẳng nhập[18] là Bồ-đề vì không tham trước.[19] Tùy thuận[20] là Bồ-đề vì thuận với Như[21]. Trụ là Bồ-đề vì trụ Pháp-tánh.[22] Đến là Bồ-đề, vì đi đến thực tế.[23] Bất nhị là Bồ-đề, vì nó xa lìa ý và pháp.[24] Bình đẳng là Bồ-đề, vì đồng đẳng với hư không.[25] Vô vi là Bồ-đề vì không sinh, trụ, diệt.[26] Tri[27] là Bồ-đề, vì liễu tri tâm hành của hết thảy chúng sinh. Chẳng hội [28] là Bồ-đề vì các nhập[29] không hội.[30] Chẳng hiệp[31] là Bồ-đề, vì lìa tập quán phiền não.[32] Vô xứ là Bồ-đề, vì không hình sắc.[33] Giả danh[34] là Bồ-đề, vì tên gọi vốn rỗng không.[35] Như hoá[36] là Bồ-đề, vì không thủ xả. Không loạn là Bồ-đề, vì thường tịch tĩnh. Thiện tịch[37] là Bồ-đề vì tự tánh thuần tịnh. Vô thủ là Bồ-đề không thể vin nắm.[38] Vô dị[39] là Bồ, vì bình đẳng các pháp vốn bình đẳng.[40] Vô tỷ là Bồ-đề, vì không thể thí dụ.[41] Vi diệu là Bồ-đề, vì các pháp khó biết.’[42]

«Bạch Thế Tôn, Duy-ma-cật giảng xong Pháp như vậy, hai trăm thiên tử chứng vô sanh pháp nhẫn. Vì vậy con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông.»

Phật nói với Quang Nghiêm Đồng tử

«Ông hãy đi thăm bệnh Duy-ma-cật.»

Quang-nghiêm đáp: 

“Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm ông. Vì, nhớ lại, có lần con đang trong thành Tỳ-da-li đi ra, gặp Duy-ma-cật ở ngoài đi vào. Con cúi chào[43] ông và hỏi: ‘Quý Cư sỹ đi đâu về?’ Ông đáp: ‘Từ đạo tràng[44] về.’ Con mới hỏi ông: ‘Đạo tràng này ở đâu?’ Ông đáp: ‘Tâm chính trựcđạo tràng, vì không hư giả. Phát hành[45] là đạo tràng, vì có khả năng biện sự. Thâm tâm[46] là đạo tràng, vì tăng ích công đức.[47] Tâm bồ-đề là đạo tràng, vì không thể sai lầm. Bố thí[48] là đạo tràng, vì không cầu đáp trả. Trì giớiđạo tràng, vì giúp hoàn thành tâm nguyện. Nhẫn nhụcđạo tràng, vì tâm vô ngại[49] đối với hết thảy chúng sinh. Tinh tấnđạo tràng, vì lìa xa biếng nhác. Thiền địnhđạo tràng, vì là tâm hài hòa dịu dàng. Trí tuệđạo tràng, vì thấy các pháp. Từ là đạo tràng, vì đối xử bình đẳng với tất cả chúng sinh. Bi là đạo tràng, vì nhẫn nại các khổ nhọc. Hỷ là đạo tràng, vì là pháp an vui khoái lạc. Xả là đạo tràng, vì dứt bỏ yêu hay ghét. Thần thôngđạo tràng, vì thành tựu sáu thần thông. Giải thoátđạo tràng, vì hay dứt bỏ.[50] Phương tiệnđạo tràng, vì giáo hóa chúng sinh. Bốn nhiếp pháp[51] là đạo tràng, vì nhiếp chúng sinh. Đa vănđạo tràng, vì y như điẽu đã nghe mà thực hành. Tâm được chế ngựđạo tràng, vì chính quán các pháp. Ba mươi bảy phẩm là đạo tràng, vì xả bỏ các pháp hữu vi. Chân đế[52] là đạo tràng, vì không dối gạt thế gian. Duyên khởi[53] là đạo tràng, vì từ vô minh cho đến già-chết, thảy đều không cùng tận. Phiền nãođạo tràng, vì biết như thật.[54] Chúng sinhđạo tràng, vì biết vô ngã.[55] Tất cả pháp là đạo tràng, vì biết các pháp vốn không. Hàng phục chúng ma là đạo tràng, vì không khuynh động. Ba cõi[56] là đạo tràng, vì không định hướng phải đến.[57] Tiếng sư tử hốngđạo tràng, vì là vôảơ úy. Lực, bốn vô sở úy, bất cộng[58] là đạo tràng, vì không khuyết điểm. Ba minh là đạo tràng, vì vô ngại. Môt niệm[59] biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành nhất thiết trí. Như vậy, này Thiện nam tử, Bồ tát thích ứng theo các Ba-la-mật mà giáo hóa chúng sinh, thì mọi hành vi, cho đến từng bước chân đi, nên biết, đều từ đạo tràng mà đến; an trú trong Pháp Phật vậy.’

«Duy-ma-cật giảng Pháp như vậy, năm trăm trời và người đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng. Vì thế con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông.»

Phật bèn nói với Trì Thế Bồ tát:[60] 

«Ông hãy đi thăm bệnh Duy-ma-cật.»

Trì Thế đáp:

«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để viếng thăm ông. Con còn nhớ có lần đang ở trong tĩnh thất, khi ấy Ma Ba-tuần,[61] hình trạng như Đế Thích, xuất hiện cùng với mười hai ngàn Thiên nữ theo sau đàn hát, đi đến chỗ con. Sau khi cúi đầu đảnh lễ dưới chân con, họ chắp tay đứng sang một bên. Con tưởng đó là Đế-Thích nên nói: ‘Xin chào Kiều-thi-ca.[62] Dù ông đã thành tựu nhiều phước báo, nhưng không nên phong túng. Ông nên quán ngũ dụcvô thường để tim cầu gốc rễ thiện. Hãy tìm cầu pháp chắc thật cho thân thể, sinh mạng và tài sản này.’ Ma liền nói: ‘Thưa Đại Chánh sỹ, xin ngài nhận lấy mười hai ngàn Thiên nữ này để hầu hạ ngài, lo việc quét dọn.’ Con bảo: ‘Này Kiều-thi-ca, chớ đem cho Sa-môn họ Thích món quà phi pháp như vậy. Nó không thích hợp với tôi.’ Con chưa dứt lời thì Duy-ma-cật chợt đến và nói: ‘Nó đâu phải là Đế Thích. Nó là Ma đến quấy nhiễu ngài đấy.’ Rồi ông quay sang bảo ma: ‘Hãy cho ta các cô gái này. Như ta thì có thể nhận.’ Ma kinh sợ, nghĩ rằng, ‘Duy-ma-cật có thể gây hại ta chăng?’ Nó bèn muốn ẩn hình nhưng không được. Nó vận dụng hết thần lực cũng không thể bỏ đi được. Chợt trên không có tiếng vọng xuống: ‘Này Ba-tuần, hãy cho ông ấy các Thiên nữ thì mới có thể đi được.’ Sợ quá, Ma đành dâng hết các Thiên nữ cho Duy-ma-cật. Ông mới nói với họ: ‘Ma đã đem các ngươi cho ta. Bây giờ các ngươi hãy phát tâm cầu giác ngộ tối thượng.’ 

«Đoạn ông tùy chỗ thích hợp giảng Pháp cho họ nghe, giúp họ phát đạo ý. Ông bảo: ‘Các ngươi đã phát đạo ý,[63] có thể tìm thấy niềm vui nơi Pháp[64] thay vì nơi ngũ dục thế gian.’

«Họ hỏi ông: ‘Vui nơi Pháp là thế nào?’

«Ông đáp: ‘Là vui vì niềm tin Phật; vui vì được nghe Pháp; vui khi cúng dường Tăng; và vui khi bỏ được năm dục lạc trần thế;[65] vui khi thấy ra ngũ uẩnkẻ thù, bốn đại[66] như rắn độc, các nội xứ như xóm hoang; vui khi theo đuổihộ trì đạo ý[67]; vui khi thấy mình có lợi cho chúng sinh; vui khi kính dưỡng minh sư; vui khi rộng rãi thực hành bố thí; vui khi kiên trì tịnh giới; vui khi nhẫn nhục khoan hòa; vui khi siêng tu thiện căn; vui khi thiền định không loạn tưởng; vui khi có tuệ sáng suốt sạch không cáu bẩn; vui khi trải rộng tâm bồ-đề; vui khi vượt thắng tà ma; vui khi nhổ gốc phiền não; vui trong đất Phật thanh tịnh; vui khi tu tập các công đức để thành tựu thân tướng tốt đẹp; vui khi làm đẹp bồ-đề đạo tràng; vui khi nghe Pháp thậm thâm mà không sợ hãi; vui trong ba cửa giải thoát;[68] không vui với phi thời tiết;[69] vui khi ngăn ngừa bằng hữu tri thức xấu; vui khi ở gần thiện tri thức;[70] vui vì tâm hoan hỷ thanh tịnh;[71] vui khi thực hành vô lượng pháp đạo phẩm. Đó là những niềm vui nơi Pháp của Bồ tát.’

«Nghe vậy, Ma bảo các Thiên nữ: ‘Ta muốn cùng các ngươi trở về chỗ của ta.’

«Các Thiên nữ nói: ‘Hãy đem chúng tôi cho Cư sỹ. Chúng tôi thấy vui nơi Chánh Pháp, chẳng còn ham muốn năm thú vui trần thế.’ 

«Ma nói với Duy-ma-cật: ‘Cư sỹ hãy buông thả những Thiên nữ này. Vì Bồ tát là người sẵn lòng ban cho tất cả.’

«Duy-ma-cật nói: ‘Ta nay trả hết cho ngươi và ngươi có thể mang họ đi để hết thảy chúng sinh có thể thành tựu ước nguyện đắc pháp.’

«Các Thiên nữ quay hỏi Duy-ma-cật: ‘Ở Ma cung, chúng tôi phải sống như thế nào?’

«Duy-ma-cật đáp: Này các chị, có Pháp môn được gọi là Ngọn đèn vô tận;[72] các Chị nên học. Ví như, một ngọn đèn có thể được dùng để mồi sáng hàng trăm ngàn ngọn đèn khác, do đó bóng tối sẽ được soi sáng và ánh sáng này sẽ vô tận. Cũng vậy, các Chị, một Bồ tát hướng dẫn và chuyển hóa hàng trăm ngàn người khác khiến cho họ phát tâm cầu giác ngộ tối thượng; mà Đạo ý của Bồ tát không hề tắt ngúm. Cứ mỗi lần thuyết pháp là mỗi lần tăng thêm tất cả pháp thiện cho mình. Cho nên gọi là Vô tận đăng. Dù các Chị có ở nơi cung điện của Ma, các Chị hãy nên dùng Pháp Vô tận đăng này để dẫn dắt vô lượng con trai, con gái của Trời khiến phát tâm cầu giác ngộ, vừa để báo Phật ân vừa làm lợi chúng sinh.’

«Khi ấy các Thiên nữ cúi đầu lễ dưới chân Duy-ma-cật rồi theo Ma về cung điện. Trong phút chốc, họ biến mất cả. Bạch Thế Tôn, Duy-ma-cật thần thông siêu việt, biện tàitrí tuệ như vậy, con không đủ năng lực viếng thăm người.”

Phật bảo một người con trai của trưởng giả tên Thiện Đức:[73] 

«Ông hãy đi thăm bệnh Duy-ma-cật.”

Thiện Đức đáp: 

«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy. Vì nhớ lại có lần con tổ chức một đại hội bố thí[74] tại nhà thân phụ để cúng dường hết thảy Sa-môn, Bà-la-môn, các ngoại đạo, các người bần cùng, hạ tiện, cho đến cả ăn mày. Đại hội kéo dài đến bảy ngày. Khi kết thúc, Duy-ma-cật đã đến nói với con: ‘Ồ, con trai nhà trưởng giả, đại hội bố thí không phải như ông đã tổ chức. Nó phải là đại hội bố thí pháp. Đại hội bố thí vật chất như vậy có ích gì.’

«Con hỏi: ‘Thưa Cư sĩ, thế nào là Hội Pháp thí?’[75]

«Ông đáp: ‘Pháp thí không có trước cũng không có sau.[76] Trong một lúc mà cùng dường hết thảy chúng sinh. Đó là Đại hội Pháp thí.’

«Nghĩa là sao? - Con hỏi.

«Ông mới đáp: ‘Nghĩa là, vì bồ-đề mà phát khởi từ tâm; vì cứu độ chúng sinh mà khởi bi tâm; vì để duy trì Chánh pháp mà khởi hỷ tâm;[77] vì để nhiếp trí tuệ[78] mà hành xả tâm; để vượt thắng lòng tham lam bủn xỉn[79] mà khởi bố thí ba-la-mật; để giáo hoá người phạm giới mà tu giới ba-la-mật; vì vô ngã mà khởi nhẫn nhục ba-la-mật; vì lìa tướng thân tâm mà khởi tinh tấn ba-la-mật; vì Bồ-đề tướng[80] mà khởi thiền ba-la-mật; nhất thiết trí mà khởi bát-nhã ba-la-mật; vì giáo hóa chúng sinh mà khởi Không;[81] không xả hữu vi[82] mà phát khởi Vô tướng. Thị hiện thọ sinh[83] mà khởi Vô tác;[84] vì hộ trì chánh Pháp mà khởi phương tiện lực; vì cứu độ chúng sinh mà khởi bốn nhiếp pháp;[85] vì kính thờ tất cả mà quyết tâm quét sạch kiêu mạn; ở nơi thân, mạng, tài sản mà khởi ba pháp chắc thật;[86] ở trong sáu niệm[87] mà khởi pháp tư niệm; ở nơi sáu điểm hòa kính mà khởi tâm chất trực;[88] vì chân chánh tu hành pháp thiện mà khởi tịnh mạng; vì tịnh tâm hoan hỷ mà khởi lên sự gần gũi Hiền Thánh trí; vì để không ghét bỏ người xấu mà khởi lên sự chế ngự tâm; vì pháp xuất gia mà khởi thâm tâm; vì như thuyết mà hành[89] mà khởi đa văn; vì pháp vô tránh[90] mà phát khỏi đời sống nhàn tĩnh;[91] vì thú hướng Phật đạophát khởi đời sống độc cư; vì cởi trói chúng sinhphát khởi các giai đoạn tu hành;[92] vì để được các hình tướng tốt đẹp đất Phật thanh tịnhphát khởi nghiệp phước đức; vì biết tâm niệm hết thảy chúng sinh để tùy nghi nói Pháp mà phát khởi nghiệp của trí;[93] vì hiểu rõ các pháp vốn không thủ cũng không xả, để thâm nhập cánh cửa nhất tướng,[94] mà phát khởi nghiệp của tuệ;[95] vì tận diệt mọi phiền não, mọi chướng ngạibất thiện pháp, mà phát khởi tất thảy thiện nghiệp; vì chứng nghiệm tất cả trí tuệ và tất cả thiện phápphát khởi các pháp trợ Phật đạo.[96] Hết thảy những điều trên, này Thiện nam tử, là Đại hội Pháp thí. Nếu Bồ tát an trú nơi Đại hội Pháp thí, đó là Đại thí chủ, và cũng là ruộng phước cho hết thảy thế gian.’

«Bạch Thế Tôn, khi Duy-ma-cật giảng Pháp này xong, trong chúng Bà-la-môn có hai trăm người lắng nghe đã phát tâm tầm cầu giác ngộ tối thượng. Bản thân con lúc đó cảm thấy tâm lắng đọng, thanh tịnh, tán thán là chưa từng có. Con bèn làm lễ bái tạ dưới chân ông và cởi ra vòng trân châu vô giá dâng tặng ông. Nhưng ông không nhận. Con nói: ‘Thưa Cư sĩ, xin ngài nhận lấy tặng phẩm này rồi muốn sử dụng sao tùy ý.’ Ông lấy vòng trân châu, chia ra hai phần, cho người ăn xin tồi tàn nhất một phần; phần kia cho đức Nan Thắng Như Lai.[97] Hết thảy chúng hội hiện diện đều có thể nhìn thấy Nan Thắng Như Lai trong quốc độ Quang minh.[98] Lúc ấy họ cũng thấy phía trên đức Phật kia nửa vòng trân châu ấy biến thành đài báu trang nghiêm trên bốn cột trụ, bốn mặt đều được trang nghiêm, rõ ràng không che khuất nhau. 

«Sau thị hiên biến hóa thần kỳ này, Duy-ma-cật nói: ‘Ai bố thí cho người hành khất nghèo hèn nhất với tâm bình đẳng, là hành động không khác với phước báo của Như Lai, vì nó xuất phát từ lòng đại bi không mong đáp trả. Đó chính là viên mãn Pháp thí vậy.’

«Sau khi chứng kiến thần lực và nghe giảng Pháp của Duy-ma-cật, người hành khất thấp hèn nhất trong thành cũng đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng. Cho nên, con không đủ năng lực đến thăm Duy-ma-cật để vấn an sức khỏe ông.»

Các Bồ tát, từng mỗi vị, trình bày những lần gặp Duy-ma-cật như vậy, đều nói không có khả năng đi thăm bệnh ông.

 

[1] CDM. Đại 38, tr.360b28; VCS. Đại 38, tr.1057b2. 

[2] DMC: Di-lặc 彌勒. VCX: Tiếng Phạn là Mỗi-đát-lị-da 梅呾利耶, dịch là Từ Thị 慈氏. Xưa phiên là Xưng (Di?)-đế-lị 稱帝麗 hay Di-lặc 彌勒, thảy đều nhầm. Skt. Maitreya .

[3] Đâu suất Thiên vương 兜率天王. VCX: Đổ-sử-đa Thiên vương 睹史多天王. Skt. Tuṣita-devarājā. VCS: «Tầng thư tư trong sáu tầng trời Dục giới. Đây dịch là Tri túc 知足. Nghĩa là, hưởng thụ các dục lạc nhưng biết đủ một cách sâu xa.» Pali: cõi trời Tusita. Thiên vương ở đây là Santusita (D.i. 218; A. iv. 243). Bồ tát Mettaya, Phật tương lai, hiện ở trên cung trời Tusita, với danh hiệu là Nathadeva (Skt. Maitreyanātha)

[4] CDM (Đại 38, tr.360c20), Thập nói: «Tức là vô sinh pháp nhẫn.» VCS: «… Hoặc đây chỉ Pháp yếu thuộc giai đoạn của phát luân bất thối ở địa thứ tám (Bất động địa).» Skt. avivartika-bhūmi/ avinivartanīya-dharmā.

[5] Thọ ký 授記. Skt. vyākaraṇa, cũng dịch là ký thuyết 記說, ký biệt 記別; nguyên nghĩa,chỉ sự xác nhận của Phật về chỗ tái sinh của một Thánh đệ tử. Ở đây, nói đủ là thọ a-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề ký 授 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 記, dự ngôn của Phật về sự thành Phật trong tương lai của Thánh đệ tử hay Bồ tát.

[6] CDM, Thập nói: «Thật tướng thường định, nên nói là chính vị.» VCX: sở nhập chính tính 所入正性. VCS. «Nhập tức là chứng. Chính tính, là chân tính của pháp.» Skt. samyaktvaniyāmāvakrānta Câu-xá 23 (Đại 29, tr. 121b4); «Kinh nói, chính tính là Niết-bàn.» Chỉ trạng thái từ địa vị phàm phu bước vào địa vị Thánh giả.

[7] DMC: nhất sinh 一生. VCX nhất sinh sở hệ . Skt. ekajātibaddha.

[8] Như 如, tức chân như. Skt. tathatā. Cf. Đại Bát-nhã 447 (Đại 7, tr. 252a7): «Hoặc Chân như của sắc, hoặc Chân như của Trí nhất thiết trí, hoăc Chân như của tất cả pháp; thảy đều là một Chân như, không hai, không khác, cũng không cùng tận ...» Cf. Tiểu phẩm Bát-nhã 5 (Đại 8, tr. 558b13): «Tu-bồ-đề,... Như (tính) của năm uẩn tức thị Như (tính) của hết thảy pháp. Như của hết thảy pháp tức thị Như của Tu-đà-hoàn. Như của Tu-đà-hoàn là Như của Tư-đà-hàm... Như của Bích-chi-phật đạo là Như của Như Lai. Các Như ấy đều là một Như, không hai, không khác, vô tận, vô lượng

[9] Bồ-đề tướng 菩提相. VCX: «Bồ đề (bodhi), là điều được giác tri (anubuddha) một cách đồng đẳng bởi tất cả hữu tình

[10] VCX: bát-niết-bàn.

[11] VCX: «Tính tịch tĩnh tự bản chất của hết thảy hữu tình tức là yếu tính của Niết-bàn, vì vậy Phật nói Chân như là Bát-niết-bàn.»

[12] CDM, «Thập nói: Dụ 誘, bản Phạn nói là cuống 誑 (dối gạt).» Jhuy Cơ giải: «Dạy người sơ học, gọi là dụ.»

[13] VCX: «Vì tướng của hết thảy hữu tình, hết thảy pháp thảy đều tịch diệt

[14] VCX: «Không tăng (gia) là bồ-đề, vì hết thảy sở duyên (đối tượng) vốn không tăng íchKhuy Cơ (T38n1782_p1059c05) giải thích: «Ngã và pháp, khi là đối tương cho nhận thức, thì có sự tăng gia. Chân lý thì không như vậy... Cựu dịch bất quán 不觀, vì không thể quán sát bằng tâm biến kế

[15] Bất hành… vô ức niệm 不行… 無憶念. VCX: «Vì hết thảy hý luận, hết thảy tác ý đều không (hiện) hành.»

[16] VCX: xả ly các thủ trước.

[17] CDM, «Triệu nói: Đạo chân chính là vô dục, vì ngăn cản các nguyện cầu.» Bản La-thập hình như có nhảy sót. Đối chiếu VCX: «ly hệ 離繫 là Bồ đềvĩnh viễn dứt lìa hết thảy các pháp động loạn. Tịch tĩnhBồ đề vì hết thảy phân biệt hoàn toàn vắng bặt. Quảng đạiBồ đề, vì hết thảy hoằng nguyện đèu không thể trắc lượng.» Có lẽ nguyên Skt. trong bản La-thập là nīvaraṇa (chướng ngại), trong bản Huyền Trang là nirāvaraṇa (ly chướng).

[18] DMC: bất nhập 不入. VCX: bất tránh 不諍. VCS: bất chứng 不證. 

[19] VCX: «Hết thảy thủ trước, hết thảy tranh luận đều xa lìa

[20] VCX: tùy chí 隨至 , đến theo sau; Skt. anvāgata. Khuy Cơ (T38n1782_p1059c27) giải: «Trí an trụ pháp giới. Đi theo Chân như mà đến chỗ cùng cực.»

[21] VCX: chân như. Skt. tathatā.

[22] VCX: trụ pháp giới.

[23] VCX: «kiến lập là Bồ đềkiến lập thật tế

[24] VCX: «vì xa lìa pháp tính sai biệt

[25] VCX: «vì con mắt và sắc, cho đến ý và pháp, thảy đều bình đẳng như hư không.» So với đoạn này, hình như trong bản dịch La-thập có bị nhảy sót.

[26] VCX: sinh, trụ, dị, diệt.

[27] VCX: biến tri. Skt. parijñā, nhận thức toàn diện hay tường tận. Cf. Câu-xá 22 (Đại 29, tr. 112a17): biến tri có hai: trí biến tri (jñānaparijñā) và đoạn biến tri (prahānaparijñā). Trí biến tri (nhận thức toàn diện bằng trí tuệ) tức là trí vô lậu (anāsrava jñāna).“

[28] Bất hội 不會. VCX: «Vô gián 無間 là Bồ đề, vì không bị xen tạp bởi sáu nội xứ.» Khuy Cơ: «Cựu dịch là bất hội. Có thể nhầm lẫn.»

[29] Các nhập; VCX: sáu nội xứ (Skt. saḍ adhyāmikāny āyatanāni).

[30] VCX: không tạp.

[31] Bất hiệp 不合. VCX: vô tạp 無雜. Khuy Cơ: «Trí thể vô lậu không bị xen tạp bởi phiền não

[32] Phiền não tập 煩惱習. VCX: tập khí của tương tục phiền não.

[33] VCX: «vì trong Chân như, hết thảy phương vị, xứ sở đều xa lìa.» VCX còn thêm: « Vô trụBồ đề, vì không thể thấy trong tất cả xứ.»

[34] Giả danh 假名. VCX: duy danh 唯名. Skt. nāma-mātra.

[35] VCX: «vì danh tự không có tác dụng đối với Bồ đề

[36] Như hoá. CDM: «Triệu nói, như cái vô tâm của con người huyễn hoá (Skt. nirmitaka).» VCX: không gợn sóng 無浪. (Skt. nistaraṅga) .

[37] Thiện tịch 善寂. Skt. suśānta, hoàn toàn (phi thường) tĩnh lặng. 

[38] Phan duyên 攀緣. Skt. ālamba.

[39] Vô dị, không dị biệt, tức đồng nhất tính. Skt. ananya.

[40] VCX: «Vì tính bình đẳng của các pháp được chứng giác

[41] VCX nói ngược lại: «Không có thí dụBồ đề, vì không thể so sánh

[42] VCX còn thêm một đoạn nữa: «Biến hành (phổ biến, phổ quát) là Bồ dề, vì tự tính phổ biến như hư không. Lên đến đỉnh cao là Bồ đề, vì là tối thượng thủ của tất cả pháp. Vô nhiễmBồ đề, vì hết thảy thế pháp không thể làm cho nhiễm ô. Như vậy, Bồ đề không được chứng bởi thân, không được chứng bởi tâm.»

[43] Tác lễ. Khuy Cơ (VCS, Đại 38, tr.1060c8): «Đoạn trên, Duy-ma-cật cúi chào Di-lặc; vì Di-lặc hiện thân tướng xuất gia. Ở đây, Thiếu niên Quang Nghiêm cúi chào Duy-ma-cật; vì Quang Nghiêm hiện thân tướng thế tục. Người nhỏ tuổi cúi chào người lớn tuổi hơn.»

[44] Đạo tràng 道場(Skt. bodhimaṇḍa.); VCX: diệu Bồ đề 妙菩提. Khuy Cơ: «Bồ đề.. là tuệ, thông cả nhân và quả. Cựu dịchđạo tràng, hiển bày nhân Bồ đề. »

[45] VCX: phát khởi gia hành 發起加行. Skt. prayoga-prasthāna.

[46] VCX: tăng thượng ý lạc 增上意樂. Skt. adhy-āśaya, ý hướng, ước vọng, nguyện vọng.

[47] VCX: «Vì rốt ráo chứng hội pháp thù thắng

[48] VCX: thanh tịnh bố thí.

[49] VCX: tâm không sân nhuế. Skt. pratighāta, có nghĩa sân hại; cũng có nghĩa hay gây trở ngại.

[50] Bội xả 背捨. CDM: giải thoát ở đây chỉ tám giải thoát, cũng gọi là tám bộ xả (Skt. aṣṭau vimokṣāḥ), xem Trường A-hàm 10 (Kinh Chúng tập, Đại 1, tr. 52b12); Cf. Pali, Saṅgīti, D.iii. tr.261: aṭṭha vimokkhā. VCX: vì lìa phân biệt động 分別動. Skt. vikalpa-vikṣepa.

[51] Bốn nhiếp pháp, hay bốn nhiếp sự . Skt. catvāri saṅgraha-vastāni, bốn nền tảng cho sự đoàn kết.

[52] CDM: đế 諦, trong Tiểu thừa là bốn Thấnh đế. Trong Đại thừa, là một đế, tức Thật tướng. Skt. satya: sự thật.

[53] VCX: mười hai duyên khởi.

[54] Tri như thật 知如實. VCX: như thực hiện chứng chân pháp tính 如實現證真法性. 

[55] VCX: vì dụng tự tính làm vô ngã.

[56] VCX: «Không lìa ngoài ba cõi (Dục, Sắc và Vô sắc giới).»

[57] Vô sở thú 無所趣. VCX: phát thú sự 發趣事, mục đích hướng đến.

[58] Đây chỉ mười lực, bốn vô sở úy và mười tàm páhp bất cộng của Phật.

[59] VCX: một sát-na tâm. Skt. ekakṣaṇa/ cittakṣaṇa.

[60] Bồ tát Trì Thế 持世. Skt. Lokadhāra (hoặc Lokadhātṛ).

[61] Ma Ba-tuần 魔波旬. CDM, Triệu nói: «Ba-tuần, tiên Tần gọi là Sát giả hay Cực ác, vì là nguyên nhân đoạn thiện căn, và tội lớn nhất là chống Phật, nhiễu loạn Tăng.» VCX: ác ma oán 惡魔怨. Skt. Māra-Papiyas. 

[62] Kiều-thi-ca 憍尸迦. Skt. Kauṣika. CDM, «Thập nói: Kiều-thi là họ, tên chữ là Ma-ca-đà (Skt. Maghavā).»

[63] Đạo ý 道意. VCX: vô thượng chính đẳng giác tâm 無上正等覺心.

[64] Pháp lạc 法樂. VCX: đại pháp uyển lạc 大法苑樂 (lạc thú trong khu vườn pháp vĩ đại). VCS (Đại 38, tr.1062c29): «Đó là Chân như thanh tịnh. Nhân bởi pháp này mà sinh lạc, nên nói là đại pháp uyển lạc.»

[65] VCX có thêm hai lạc: «vui vì vĩnh viễn xuất ly ba cõi; vui vì không còn y trú nơi các sở duyên (tức không còn lệ thuộc các đối tượng ngoại giới).»

[66] Đối với các giới 界; Khuy Cơ (VCS), đây chỉ 18 giới (dhātu), phù hợp ngữ cảnh (uẩn, xứ, giới).

[67] Đạo ý 道意. VCX: Bồ đề tâm 菩提心.

[68] Bản dịch La-thập nhảy một đoạn so với VCX: «Vui vì chính thực hướng đến đối tượng là Niết-bàn. Vui vì không quán sát khi không đúng thời.»

[69] Bản La-thập nhảy một đoạn, VCX: «Vui vì thấy công đức nơi đồng loại sinh nên thường gần gũi. Vui vì bỏ qua lỗi lầm nơi dị loại sinh mà không ghét, không hận.» VCS giải thích: «Đồng loại sinh 同類生 (Skt. sabhāga-jāti?), đồng loại với những người tu phạm hạnh xuất thế

[70] Bản La-thập nhảy một đoạn, VCX: «Vui vì khéo vận dụng phương tiện thiện xảo

[71] VCX: «Vui vì ở nơi các pháp mà có tín hoan hỷ

[72] Vô tận đăng 無盡燈. VCST38n1782_p1065c23 : «Vì để sự lưu truyền Chánh pháp không bị gián đoạn mà nói Vô tận đăng

[73] Trưởng giả tử Thiện Đức 長者子善德. VCX: Tô-đạt-đa 蘇達多. Skt. Sudatta gṛhaptiputra; Cùng tên với Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍada). VCS: «Tô-đạt-đa, đây nói là Thiện Thí 善施 , vì hay giúp đỡ những người cùng khổ

[74] Đại thí hội 大施會 . VCX: Đại tự hội 大祠會. CDM, «Thập nói, Đại thí hội có hai loại: 1. Chỉ bố thí chứ không dùng lễ pháp (tức nghi thức tế tự); 2. tổ chứ tế tự theo nghi thức ghi trong các sách ngoại đạo, kiêm cả việc bố thí.» Skt. mahāyajña, đại tế đàn, co 5 loại: bhūta-yajña (hiến tế sinh vật), manuṣya-yajña (hiến tế con người), pitṛ-yajña (tế tự tổ tiên), deva-yajña (tế tự chư thiên), brahma-yajña (tế tự phạm thiên). Đề cập ở đây là loại thứ ba, tế tự để dâng cúng các Tổ phụ.

[75] Pháp thí hội 法施會. VCX.: pháp thí tự hội 法施祠會, Đại tế đàn (hiến tế) bằng sự bố thí. Skt. dharmadāna-yajña, hay dharma-yajña, nguyên chỉ tế đàn hay lễ hiến sinh không máu; theo nghĩa đen, ở đây chuyển thành lễ hiến sinh bằng sự bố thí pháp.

[76] CDM, «Thập nói: Sự phân phát tài vật phải theo thứ tự kẻ trước người sau. Không thể phát một lần cho tất cả.»

[77] VCX: Vì hành tướng (trạng thái) tùy hỷ của các hữu tình mà dẫn phát đại hỷ.”

[78] VCX: «Vì hành tướng tích hợp trí tuệ để hộ trì Chánh pháp…»

[79] VCX: «Vì hành tướng tịch tĩnh điều phục…»

[80] VCX: «Bằng hành tướng của giác chi tối thắng…»

[81] VCX: tu Không 修空, và tiếp theo sau: tu Vô tướng 修無相, tu Vô nguyện 無願; tức tu ba giải thoát môn.

[82] VCX: «Bằng hành tướng đối trị tất cả hữu vi…»

[83] VCX: «Bằng hành tương của sự tái sinh do cố tác ý…»

[84] VCX: vô nguyện.

[85] VCX: «Bằng hành tướng của sự tu tập bốn nhiếp sự mà dẫn phát mạng căn

[86] Thân, mạng và tài sản, nếu thuộc xuất thế vô lậu, là ba pháp chắc thật.

[87] VCX: sáu tùy niệm (Skt. saḍ anusmṛtayaḥ). Tức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới và niệm chư thiên.

[88] VCX: «Bằng hành tướng của sự tu tập các pháp tịnh diệu mà dẫn phát ý lạc.»

[89] VCX: «Bằng hành tướng của sự thường tu tập trung đạo…»

[90] Skt. araṇā-vihārin, chị vị đắc vô tránh tâm muội, đồng thời cũng chỉ vị chỉ sống ẩn cư trong rừng.

[91] Không nhàn xứ 空閑處. VCX: a-luyện-nhã xứ 阿練若處. VCS (T38n1782_p1067a19), »A-luyện-nhã xứ 阿練若處 (Skt. araṇyātana), đây gọi nhàn tịch sở 閑寂所. Cựu dịch là a-lan-nhã 阿蘭若. Tức chỗ trống vắng cách thôn xóm trên 2 dặm. Sống ở đây, không cùng vật đua chen, có thể tu vô tránh

[92] Tu hành địa 修行地. VCX: du-già sư địa 瑜伽師地, chỉ trình độ tu tập. Skt. yogācārabhūmi.

[93] Trí nghiệp 智業. Triệu nói, «Đại thừa vạn hạnh phân làm 2 nghiệp. Lấy trí để nêu hành, lập riêng trí nghiệp. Các tùy tùng của hành lập chung làm đức nghiệp.» VCX: quảng đại diệu trí tư lương 廣大妙智資糧 (chất liệu cho trí quảng đại). 

[94] Nhập nhất tướng môn . VCX: nhất chính lý môn ngộ nhập 一正理門悟入.

[95] Tuệ nghiệp 慧業. VCX: quảng đại diệu trí tư lượng 廣大妙慧資糧 (chất liệu cho tuệ quảng đại). VCS (T38n1782_p1067b03), « Trí (jñāna) là ba-la-mật thứ mười. Trí này có hai: 1. thọ pháp lạc; 2. thành hữu tình...Tuệ (prajñā), là ba-la-mật thứ sáu, tuệ vô sai biệt

[96] VCX: Bồ-đề phần pháp.

[97] Nan Thắng Như Lai 難勝如來. Skt. Durjaya-tathāgata.

[98] Quang minh quốc độ 光明國土. VCX: Dương diệm thế giới 陽焰世界. VCS: «Thế giới hư huyễn, cho nên nói là Dương diệm.»

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11655)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11975)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11130)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11375)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12084)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12580)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10786)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18014)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11743)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9967)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10202)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12367)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15378)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11266)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14346)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12125)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15389)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12022)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12429)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11206)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12108)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10640)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12571)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13189)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14861)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12716)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16600)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19687)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13127)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12680)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12279)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11874)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10911)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13552)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11970)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11857)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11652)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12784)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14537)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12642)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15686)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13643)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12920)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9897)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18033)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11195)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9104)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12210)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13074)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10329)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12216)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15333)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16624)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12236)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11500)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14287)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19721)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14173)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24628)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10713)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant