Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

II. Thế nào là Tổ sư thiền?

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15456)
II. Thế nào là Tổ sư thiền?

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

TỔ SƯ THIỀN

II. THẾ NÀO LÀ TỔ SƯ THIỀN?

Đúng ra, đặt câu hỏi này là chưa biết gì về Tổ Sư Thiền. Tại sao? Bởi có thế nào là không phải rồi! Vì Tổ Sư Thiền không phải là cái để hiểu. Như Thôi Tề Công hỏi Thiền sư Thần Hội:

- Thiền sư ngồi thiền, một phen định thì về sau bao lâu sẽ được xuất định?
Sư đáp:
- Thần không có chỗ nơi, có gì là định ư?
Ông lại hỏi:
- Đã nói không có định, sao gọi là dụng tâm?
Sư đáp:
- Nay tôi ở trên định còn chẳng lập, ai nói là dụng tâm?
Ông hỏi:
- Tâm và định đều không, vậy thế nào là đạo?
Sư đáp:
- Đạo là "đạo như thế", cũng không có "đạo thế nào".
Ông hỏi tiếp:
- Đã nói là "không có thế nào" thì chỗ nào có được "đạo như thế" ?
Sư đáp:
- Nay nói “đạo như thế” là vì có “đạo như thế nào”; nếu nói không có “thế nào”, thì “như thế” cũng không còn.

Hỏi: “Đạo thế nào?” là muốn hiểu nó, muốn định nghĩa nó ra, nhưng đạo đâu phải là chỗ bị hiểu, mà nói thế này, thế nọ càng xa. Cho nên Sư chỉ đáp: “Đạo như thế”. Nói như thế cũng là tạm nói, không cho có thêm chút gì trong đó. Vì nó như thế là như thế thôi, có thêm là hết như thế. Cuối cùng nói “như thế” cũng là đối với “thế nào” mà tạm lập. Nếu bám vào lời đó để sanh hiểu cũng là cách xa. Trong đây, chỉ phải tự mình chứng nghiệm thôi. Thế gian thì cứ muốn định gnhĩa để hiểu, đã định nghĩa tức đóng khung nó vào trong chữ nghĩa, làm sao thấy được chân thật?

Hãy xem, Thủy Lạo hỏi Mã Tổ:
- Thế nào ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ bảo:
- Lễ bái đi!

Thủy Lạo vừa lễ bái, Mã Tổ bèn tống cho một đạp té nhào. Sư bỗng đại ngộ, đứng dậy vỗ tay cười to ha hả bảo:

- Trăm ngàn Tam muội, vô lượng diệu nghĩa, chỉ nằm trên đầu sợi lông nhận biết được cội nguồn tất cả.

"Ý Tổ" mà hỏi thế nào, tức muốn hiểu nó. Nếu hiểu được liền thành ý chúng sanh rồi! Vì vậy cho một đạp té nhào, cho ông biết thế nào! Ngay khi té nhào đó, quên hết thế nào, cũng bật luôn niệm kia đây, không còn nhớ có ta nữa, tức liền đại ngộ ý Tổ, đứng dậy vỗ tay cười to vui sướng. Không thể ngờ!

Một vị tăng hỏi Thiền sư Khế Trù:
- Thế nào là nghĩa đệ nhất?
Sư đáp:
- Đâu nhọc hỏi lại.

Nghĩa đệ nhất tức chỗ rốt ráo không hai, thì trước khi động niệm liền nhận ngay là xong. Chỗ này không cho hỏi tới hỏi lui, không phải là chỗ mua bán trả giá rẻ mới chịu mua. Trong đó, vừa hỏi lại tức thành nghĩa đệ nhị rồi. Tổ Sư Thiền là như thế.

Lâm Tế một hôm đang làm công tác cuốc đất, thấy Hoàng Bá đến, Sư liền chống cuốc mà đứng. Hoàng Bá bảo:
- Gã này mệt ư?
Sư thưa:
- Cuốc cũng chưa dở lên, mệt cái gì?
Hoàng Bá liền đánh. Sư chụp cứng cây gậy, cho một đạp té nhào. Hoàng Bá gọi:
- Duy Na! Duy Na! Đỡ ta dậy!
Duy Na tới trước đỡ Hoàng Bá dậy và nói:
- Hòa thượng đâu dung được gã điên này vô lễ!
Hoàng Bá vừa đứng dậy, liền đánh Duy Na.
Sư cuốc đất, nói:
- Các nơi thì hỏa táng, còn tôi trong đây một lúc chôn sống.

Với Lâm Tế là thẳng tắt dùng liền, tự có chỗ sống sáng ngời không do dự. Hỏa táng, tức đợi chết rồi mới thiêu, thì thiêu đó là thiêu xác chết thôi. Chôn sống là ngay hiện tiền đây đập liền, thẳng vào sức sống chân thật, không phải đợi qua rồi, theo sau cái chết, tức dấu vết ngôn ngữ, chữ nghĩa để lại, không qua trung gian nghĩ ngợi. Người học làm sao có thời giờ để hiểu?

Đến Hòa thượng Triệu Châu, vị tăng hỏi:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Sư đáp:
- Cây bách trước sân.
Tăng thưa:
- Hòa thượng chớ đem cảnh chỉ người.
Sư bảo:
- Ta chẳng đem cảnh chỉ người.
Tăng hỏi lại:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Sư đáp:
- Cây bách trước sân.
Trong đây, người hiểu theo thức tình dễ lầm với ông tăng. Xem Sư, hỏi ra liền đáp ngay không chút nghỉ ngợi thì có cảnh gì? Chính Sư trong lòng rỗng rang, không một niệm, không một vật lưu dấu, rõ ràng đang đối diện sờ sờ đó không thêm thắt chút gì! Tiếc thay, ông tăng trong lòng còn chứa đựng các niệm, bị kiến giải trong đầu sanh hiểu, nghĩ đó là mượn cảnh để đánh thức lại tâm, hẳn rơi vào KHÁI NIỆM rồi. Có Khái niệm tức bị đóng khung trong quá khứ cũ xưa, chết cứng làm sao thấy được sức sống sáng ngời? Chỗ này phải thực sự trống sạch mọi KHÁI NIỆM về thiền, ngay đó liền thấy Tổ sư hiện tiền, rất thực tế!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13455)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 13360)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 12749)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 12941)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 13733)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 14400)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 12257)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 19599)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 13316)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 11368)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11325)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 13933)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 16938)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 15898)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 13740)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 17994)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 13435)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 13832)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 12505)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 13671)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 12033)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 13964)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 14734)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 17474)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 14231)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 18613)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 22125)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 14500)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 14197)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 14223)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13514)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 12369)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 15493)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 13306)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 13282)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 13441)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 14383)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 16297)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 14090)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 17289)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 15528)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 14659)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 11139)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 19855)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 12557)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 10356)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 13674)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 14802)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 11568)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 13543)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 17573)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 18378)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 13835)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 13089)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 15848)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 22236)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 15677)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 27188)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 12037)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant