Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Phẩm Lợi dưỡng

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10872)
13. Phẩm Lợi dưỡng

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 1

XIII. Phẩm Lợi dưỡng

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nhận lợi dưỡng của người thật chẳng dễ, khiến người chẳng đến được chỗ vô vi. Vì sao thế? Nếu Tỳ-kheo Tu-la-đà không tham lợi dưỡng thì đã không ở trong pháp mà xa ba pháp y để làm cư sĩ. Tỳ-kheo Ta-lu-đà vốn tu hạnh A-lan-nhã, đến giờ khất thực, ở một nơi, ngồi một chỗ, hoặc ăn chính ngọ, ở dưới gốc cây, ngồi ngoài trời, thích chỗ nhàn cư, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc thích ở gò mả, khắc khổ thân thể, hành hạnh đầu đà này. Lúc này, Tỳ-kheo Tu-la-đà thường nhận sự cúng dường của quốc vương Mãn Hô, hàng ngày cung cấp món ăn trăm vị.

Bấy giờ Tỳ-kheo kia ý nhiễm thức ăn này, dần dần bỏ hạnh A-lan-nhã, đến giờ khất thực, ở một nơi, ngồi một chỗ, ăn chính ngọ, ở dưới gốc cây, ngồi ngoài trời, ở chỗ nhàn cư, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc thích ở gò mả, khắc khổ thân thể. Bỏ hết những điều này, bỏ ba pháp y; vị ấy trở lại làm người bạch y, giết trâu sát sanh chẳng thể tính kể, khi thân hoại mạng chung sanh vào địa ngục.

Các Tỳ-kheo, do phương tiện này mà biết lợi dưỡng rất nặng, khiến người chẳng đắc đạo Vô thượng Chánh chân. Nếu chưa sanh lợi dưỡng, hãy chế ngự khiến cho chẳng sanh; đã sanh thì tìm phương tiện khiến tiêu diệt liền. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Hãy diệt một pháp, Ta sẽ chứng cho các Thầy thành quả thần thông, các lậu được dứt. Thế nào là một pháp? Ðó là tham đắm mùi vị. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy diệt sự tham vị này, Ta sẽ chứng cho Thầy thành quả thần thông, các lậu được dứt.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Chúng sanh đắm vị này.
Chết đọa trong đường ác,
Nay nên xả dục này,
Liền thành A-la-hán.

Thế nên, các Tỳ-kheo thường nên xả bỏ ý tưởng tham đắm vị này. Như vậy, các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ trong thành Xá-vệ có một Trưởng giả vừa chết một đứa con trai mà ông rất yêu thương chưa hề xa lìa. Ông ta thấy con chết liền phát cuồng, đi lang thang khắp nơi, gặp ai cũng hỏi:

- Có thấy con tôi không?

Bấy giờ ông ta đi dần dần đến Tinh xá Kỳ Hoàn, đến chỗ Thế Tôn và đứng một bên. Bấy giờ, ông ta bạch Thế Tôn rằng:

- Sa-môn Cù-đàm! Có thấy con tôi không?

Thế Tôn bảo Trưởng giả:

- Vì sao mặt mày không vui, các căn rối loạn?

Bấy giờ Trưởng giả thưa đức Cù-đàm:

- Không như vầy sao được? Vì sao? Tôi chỉ có một đứa con, nó lại bỏ tôi mà chết. Tôi rất nhớ thương nó, chưa hề rời mắt, vì thương xót đứa con ấy nên tôi phát cuồng. Nay tôi hỏi Sa-môn, có thấy con tôi không?

Thế Tôn dạy rằng:

- Ðúng vậy, Trưởng giả. Như lời Ông hỏi: sanh, già, bịnh, chết là phép thường ở đời; ân ái biệt ly khổ; oán ghét gặp gỡ khổ. Ðứa con vì vô thường mà bỏ Ông há không nghĩ đến được sao?

Bấy giờ ông ta nghe Thế Tôn nói, không bằng lòng bèn bỏ đi; đi đường gặp người ông liền nói:

- Sa-môn Cù-đàm nói rằng: 'Ái ân biệt ly liền có khoái lạc'. Sa-môn nói như vậy, xét có đúng không?

Người kia đáp:

- Ân ái biệt ly mà vui cái gì?

Ngay lúc đó, cách thành Xá-vệ không xa, có nhiều người đang đánh bạc với nhau. Bấy giờ, ông ta liền nghĩ rằng: 'Các ông này thông minh trí tuệ, không việc gì chẳng biết. Nay ta nên đem nghĩa này hỏi họ'.

Bấy giờ ông ta đến chỗ đánh bạc hỏi mọi người rằng:

- Sa-môn Cù-đàm bảo tôi rằng: 'Ân ái biệt ly khổ, oán ghét gặp gỡ khổ. Ðây là khoái lạc'. Nay các Ông nghĩ sao?

Bấy giờ những người đánh bạc đáp ông ta:

- Ân ái biệt ly có gì vui? Nói là khoái lạc, nghĩa này không đúng.

Bấy giờ ông ta liền nghĩ: 'Xét lời Như Lai trọn không hư dối. Sao nói xa lìa ân ái lại có vui ư?' Nghĩa này không đúng.

Bấy giờ người kia vào thành Xá-vệ, đến ngoài cửa cung kêu lên:

- Sa-môn Cù-đàm dạy rằng: 'Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp. Ðây là khoái lạc.'

Bấy giờ cả thành Xá-vệ và người trong cung truyền lời này khắp nơi. Ngay lúc đó, đại vương Ba-tư-nặc và phu nhân Mạt-lợi đang ở trên lầu vui vầy với nhau. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc bảo phu nhân Mạt-lợi:

- Sa-môn Cù-đàm thật có lời này: 'Ân ái ly biệt, oán ghét gặp gỡ. Ðây đều là khoái lạc chăng?'

Phu nhân đáp:

- Tôi nghe Như Lai dạy lời này, nhưng nếu đúng Như Lai có dạy như thế, cũng chẳng phải là việc hư dối.

Vua Ba-tư-nặc bảo:

- Ví như thầy dạy đệ tử: 'Làm điều này, bỏ điều này'. Ðệ tử đáp rằng: 'Xin vâng, Ðại sư'. Nay phu nhân Mạt-lợi, Bà cũng như thế. Sa-môn Cù-đàm kia tuy nói lời này mà Bà ưng thuận nói rằng như thế chẳng khác, không có hư vọng. Vậy Bà hãy đi mau, đừng có đứng trước mặt ta.

Bấy giờ phu nhân Mạt-lợi bảo Bà-la-môn Trúc-bác:

- Nay Ông đến Tinh xá Kỳ Hoàn, tới chỗ Như Lai, đem tên của ta, quỳ dưới chân Như Lai lấy nghĩa này bạch đầy đủ cho Thế Tôn rằng: 'Trong thành Xá-vệ và người trong cung có luận bàn điều mà Sa-môn Cù-đàm nói: 'Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp. Ðây đều là khoái lạc'. Chẳng rõ Thế Tôn có dạy như thế chăng?'. Nếu Thế Tôn có dạy điều gì, Ông hãy khéo nhận lời rồi về nói lại cho ta.

Bấy giờ Bà-la-môn Trúc-bác nhận sắc lịnh của phu nhân, tìm đến Tinh xá Kỳ Hoàn. Ðến chỗ Thế Tôn chào hỏi, chào hỏi xong ngồi một bên. Rồi Phạm chí kia bạch Thế Tôn:

- Phu nhân Mạt-lợi cúi lạy Thế Tônthăm hỏi Như Lai có được nhẹ nhàng dễ chịu, đi đứng có mạnh khỏe không, Giáo hóa người mê muội có mệt nhọc không. Rồi lại nói rằng: 'Trong thành Xá-vệ này loan truyền rằng Sa-môn Cù-đàm dạy: 'Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp. Ðây đều là khoái lạc'. Chẳng rõ Thế Tôn có dạy như thế chăng?'

Bấy giờ Thế Tôn bảo Bà-la-môn Trúc-bác rằng:

- Ở trong thành Xá-vệ này có một Trưởng giả bị chết mất một đứa con. Ông ta nhớ đứa con này đến cuồng loạn mất tánh, chạy khắp Ðông Tây gặp ai cũng hỏi: 'Ai thấy con tôi?'. Vậy thì, Bà-la-môn! Ân ái biệt ly, oán ghét tụ hội khổ. Ðây đều không có hoan lạc.

Ngày xưa trong thành Xá-vệ này, lại có người mất mẹ già, cũng cuồng loạn chẳng biết gì cả. Lại có người mất cha già; lại cũng có anh em, chị em thảy đều vô thường. Họ thấy sự biến đổi vô thường này sanh ra cuồng loạn chẳng biết Ðông Tây.

Này Bà-la-môn! Ngày xưa trong thành Xá-vệ này, có một người vừa rước một người vợ đoan chánh vô song về. Bấy giờ ông ta không bao lâu bị nghèo cùng. Cha mẹ vợ ông ta thấy ông ta nghèo liền nghĩ:

- 'Ta hãy đoạt con gái về gả cho người khác'.

Người kia rình nghe cha mẹ vợ muốn đoạt vợ mình để gả cho người khác. Bấy giờ, ông ta dắt dao bên trong áo rồi đến nhà vợ. Bà vợ ông ta đang ngồi dệt ở ngoài vách. Ông ta bước vào nhà cha mẹ vợ hỏi:

- 'Nay vợ tôi ở đâu?'

Mẹ vợ đáp:

- 'Vợ con đang dệt ở bóng mát ngoài bờ tường'.

Ông ta liền đến chỗ vợ hỏi:

- 'Cha mẹ nàng muốn đoạt nàng để gả cho người khác phải không?'

Vợ đáp:

- 'Thật có lời này, nhưng tôi không ưa nghe nói vậy.'

Bấy giờ người kia rút dao bén đâm chết vợ, rồi lại tự đâm vào bụng mình và nói:

- 'Cả hai ta cùng chết'.

Này Bà-la-môn, hãy dùng phương tiện này mà biết ân ái biệt ly, oán ghét hội họp khổ. Ðây đều là buồn lo thật chẳng thể nói được.

Bấy giờ Bà-la-môn Trúc-bác bạch Thế Tôn:

- Ðúng vậy Thế Tôn! Có các thứ khổ não này thực chẳng vui. Vì sao thế? Xưa con có một đứa con trai nó chết đi, bỏ con, ngày đêm con nhớ mãi chẳng rời tâm. Rồi con vì nhớ con, tâm ý cuồng hoặc, chạy khắp Ðông Tây, gặp người liền hỏi: 'Ai thấy con tôi?' Này Sa-môn Cù-đàm nói thật đúng như thế. Việc nước bận rộn, con muốn về nhiệm sở.

Thế Tôn dạy:

- Nay là đúng lúc.

Bà-la-môn Trúc-bác liền từ chỗ ngồi đứng lên, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi đi. Ðến chỗ phu nhân Mạt-lợi đem việc này tâu đầy đủ cho phu nhân. Phu nhân Mạt-lợi liền đến chỗ vua Ba-tư-nặc thưa:

- Bây giờ tôi có chỗ muốn hỏi, mong Ðại vương nghe rồi trả lời từng việc một. Thế nào? Ðại vương có nhớ vương tử Lưu Ly chăng?

Vua đáp:

- Rất nhớ, thương xót không rời lòng.

Phu nhân hỏi:

- Nếu vương tử chết đi, Ðại vương có lo chăng?

Vua lại đáp;

- Ðúng vậy, phu nhân! Như lời bà nói.

Phu nhân hỏi:

- Ðại vương nên biết ân ái biệt ly đều gây sầu lo. Thế nào? Ðại vương có nhớ Vương tử Y La chăng?

Vua đáp:

- Ta rất yêu kính.

Phu nhân hỏi:

- Ðại vương! Nếu vương tử chết đi, Ðại vương có sầu lo chăng?

Vua đáp:

- Rất sầu lo.

Phu nhân bảo rằng:

- Hãy lấy phương tiện này mà biết ân ái biệt ly không có hoạn lạc. Thế nào? Ðại vương có nhớ Tát-la-đà dòng Sát-lợi không?

Vua đáp:

- Rất yêu kính, nhớ nghĩ.

Phu nhân nói:

- Thế nào Ðại vương, giả sử phu nhân Tát-la-đà có sự biến đổi, Ðại vương có lo không?

Vua đáp:

- Có lo sầu chứ!

Phu nhân nói:

- Ðại vương nên biết ân ái biệt ly, đây đều là khổ.

Phu nhân lại nói:

- Vua nhớ thiếp chăng?

Vua nói:

- Ta yêu nhớ Ái khanh.

Phu nhân nói:

- Giả sử thân thiếp biến đổi, Ðại vương có buồn lo không?

Vua nói:

- Nếu thân Khanh có gì biến đổi, thì ta buồn lo ngay.

- Đại vương, hãy dùng phương tiện này mà biết ân ái biệt ly, oán ghét gặp gỡ không có vui vẻ gì.

Phu nhân lại nói:

- Thế nào Ðại vương? Có nhớ nhân dân Ca-thi Câu-tát-la không?

- Ta rất yêu nhớ nhân dân Ca-thi Câu-tát-la.

Phu nhân nói:

- Nhân dân Ca-thi Câu-tát-la giả sử biến đổi, Ðại vương có buồn lo không?

Vua nói:

- Nhân dân Ca-thi Câu-tát-la nếu có biến đổi thì mạng ta cũng chẳng còn, huống là chỉ buồn lo. Vì sao thế? Ta nhờ sức của nhân dân nước Ca-thi Câu-tát-la mới được tồn tại. Dùng phương tiện này biết mạng cũng chẳng còn, hà huống chẳng sanh buồn lo!

Phu nhân nói:

- Lấy đây mà biết: ân ái biệt ly đều có cái khổ não, không có vui vẻ.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng về Thế Tôn mà nói:

- Thật kỳ lạ! Thật kỳ lạ! Thế Tôn nói được pháp này. Nếu Sa-môn Cù-đàm đến đây, tôi sẽ cùng bàn luận.

Vua lại bảo phu nhân:

- Từ đây về sau, ta sẽ lại xem trọng Khanh hơn ngày thường, cho mang đồ phục sức không khác ta.

Bấy giờ Thế Tôn nghe phu nhân Mạt-lợi cùng Ðại vương lập căn bản luận này, liền bảo các Tỳ-kheo:

- Phu nhân Mạt-lợi rất thông minh. Nếu vua Ba-tư-nặc hỏi Ta lời này, Ta cũng lấy nghĩa này mà nói cho vua ấy giống như phu nhân đã nói không khác. Ngài lại bảo các Tỳ-kheo:

- Trong hàng Thanh văn của Ta, Ưu-bà-di chứng đắc lòng tin kiên cố thuần thành bậc nhất là phu nhân Mạt-lợi.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Bạt-kỳ, trong vườn Nai rừng Quỷ, núi Thi-mục-ma-la.

Bấy giờ Trưởng giả Na-ưu-la-công đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên, chốc lát lui ngồi bạch Thế Tôn:

- Nay con già cả lại thêm bệnh tật, nhiều điều ưu não, cúi mong Thế Tôn tùy thời dạy dỗ khiến chúng sanh được an ổn lâu dài.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Trưởng giả rằng:

- Ðúng như lời Ông nói, thân có nhiều sợ hãi, đau đớn, đâu thể nương cậy, chỉ có một lớp da mỏng che đậy bên ngoài. Này Trưởng giả, nên biết người ỷ lại thân này, chính là được cái vui trong chốc lát. Ðây là tâm ngu ngốc, chẳng phải điều người trí tuệ quí. Thế nên Trưởng giả, tuy thân có bệnh hãy khiến tâm không bệnh. Như thế, Trưởng giả, hãy học điều này!

Bấy giờ Trưởng giả nghe lời nói như thế liền từ chỗ ngồi đứng dậy cúi lạy Thế Tôn rồi lui ra.

Bấy giờ Trưởng giả lại nghĩ: 'Nay ta có thể đến hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất nghĩa này'.

Tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi dưới gốc cây cách đó không xa. Bấy giờ Na-ưu-la-công đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, quỳ lạy rồi ngồi một bên.

Tôn giả Xá-lợi-phất bèn hỏi Trưởng giả:

- Nhan mạo Ông vui hòa, các căn tịch tĩnh ắt có lý do. Này trưởng giả, chắc Ông đã nghe Phật nói pháp phải không?

Trưởng giả bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Thế nào Tôn giả Xá-lợi-phất? Làm sao nhan mạo không vui vẻ được? Vì sao thế? Vì tôi được Thế Tôn đem pháp cam lồ tưới rót vào lòng.

Trưởng giả đáp tiếp:

- Tôn giả Xá-lợi-phất, tôi đến chỗ Thế Tôn quỳ lạy rồi ngồi một bên. Bấy giờ tôi bạch Thế Tôn; 'Con tuổi già sức yếu hằng ốm bệnh tật, khổ đau rất nhiều không thể tính kể, cúi mong Thế Tôn, phân biệt thân này khiến khắp chúng sanh đạt được an ổn'. Bấy giờ Thế Tôn bảo tôi rằng: 'Ðúng vậy Trưởng giả! Thân này có nhiều suy mòn đau khổ, chỉ có lớp da mỏng che đậy bên ngoài. Trưởng giả nên biết, người nương cậy thân này, chính có thể vui chốc lát mà chẳng biết bị khổ vô lượng lâu dài. Thế nên, Trưởng giả, thân này tuy có hoạn nạn, nên khiến cho tâm đừng lo hoạn. Như thế Trưởng giả, nên học điều này'. Thế Tôn dùng pháp cam lộ này tưới rót cho tôi.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

- Thế nào Trưởng giả? Sao không hỏi lại Thế Tôn nghĩa này: Thế nào là thân có hoạn mà tâm không hoạn? Thế nào là thân có bệnh, tâm không bệnh?

Trưởng giả bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Thật sự tôi đã không đem việc này hỏi lại Thế Tôn là thân có hoạn, tâm không hoạn; thân có bệnh, tâm không bệnh. Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả chắc rõ việc này, mong phân biệt đầy đủ cho.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

- Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ giảng rộng nghĩa này cho Ông.

- Xin vâng, Tôn giả Xá-lợi-phất.

Trưởng giả vâng lời dạy rồi, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Ông ta:

- Ở đây, Trưởng giả! Người phàm phu chẳng gặp Thánh nhân, chẳng được Thánh giáo, chẳng theo sự dạy dỗ này, cũng chẳng gặp Thiện tri thức, chẳng theo hầu Thiện tri thức, họ chấp sắc là ngã, sắc là của ngã, ngã là của sắc, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, sắc kia sắc ta hội họp một chỗ. Sắc kia sắc ta đã hội họp một chỗ rồi, sắc liền bại hoại, dời đổi chẳng dừng, trong đó lại khởi sầu lo khổ, não; cũng vậy đối với thọ, tưởng, hành thức đều quán ngã có thức, trong thức có ngã, trong ngã có thức, thức kia thức ta hội họp một chỗ. Thức kia thức ta đã họp một chỗ rồi, thức liền bại hoại, dời đổi chẳng dừng, trong đó lại khởi sầu, lo, khổ, não. Như thế Trưởng giả, thân cũng có hoạn, tâm cũng có hoạn.

Trưởng giả hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Thế nào là thân có hoạn, tâm không có hoạn?

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

- Ở đây, Trưởng giả! Ðệ tử bậc Hiền Thánh thừa sự Thánh Hiền, tu hành cấm pháp, theo hầu Thiện tri thức, thân cận Thiện tri thức. Người đó không quán ngã có sắc, chẳng thấy trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, chẳng thấy sắc là của ngã, ngã là của sắc. Sắc kia dời chuyển chẳng dừng. Sắc kia đã chuyển đổi, chẳng sanh hoạn sầu, lo, khổ, não theo sắc, cũng lại không thấy thọ, tưởng, hành thức; chẳng thấy trong thức có ngã, trong ngã có thức, cũng chẳng thấy thức là của ngã, cũng chẳng thấy ngã là của thức. Thức kia thức ngã đã hội một chỗ, thức liền bại hoại, trong đây không khởi buồn, lo, khổ, não. Như vậy Trưởng giả! Thân có hoạn mà tâm không hoạn. Thế nên Trưởng giả, hãy học tập như thế, trừ thân bỏ tâm, cũng không nhiễm trước. Này Trưởng giả, nên học điều này.

Bấy giờ Na-ưu-la-công nghe Xá-lợi-phất dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp cho vài ngàn muôn chúng vây quanh trước sau. Lúc đó Bà-la-môn Giang Trắc thân gánh một gánh nặng đến chỗ Thế Tôn, đến rồi đặt gánh xuống đến một bên Thế Tôn, và đứng lặng yên. Bấy giờ Bà-la-môn đó suy nghĩ thế này: 'Hôm nay Sa-môn Cù-đàm vì mấy ngàn muôn chúng vây quanh trước sau mà thuyết pháp. Ta nay thanh tịnh không khác gì Sa-môn Cù-đàm. Vì sao thế? Sa-môn Cù-đàm ăn lúa gạo tốt, các thứ ngon lành. Nay ta ăn quả trái để tự nuôi mạng sống'.

Bấy giờ Thế Tôn đã biết tâm niệm Bà-la-môn liền bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có chúng sanh đem hai mươi mốt kiết làm dính mắc tâm, nên biết người đó ắt đọa đường ác chẳng sanh cõi lành. Thế nào là hai mươi mốt kiết? Ðó là sân tâm kiết, nhuế hại tâm kiết, thùy miên tâm kiết, điều hý tâm kiết, nghi tâm kiết, nộ tâm kiết, kỵ tâm kiết, não tâm kiết, tật tâm kiết, tắng tâm kiết, vô tàm tâm kiết, vô quý tâm kiết, huyễn tâm kiết, gian tâm kiết, ngụy tâm kiết, tranh tâm kiết, kiêu tâm kiết, mạn tâm kiết, đố tâm kiết, tăng thượng mạn tâm kiết, tham tâm kiết. Này các Tỳ-kheo, nếu người có hai mươi mốt kiết làm dính mắc tâm này, nên biết người đó ắt đọa đường ác chẳng sanh cõi lành. Ví như áo lông dạ trắng mới, lâu ngày cũ nát có nhiều bụi bặm, ý muốn nhuộm thành màu xanh, vàng, đỏ, đen trọn chẳng thành được. Vì sao? Vì có bụi bặm. Như thế, này Tỳ-kheo, nếu có người đem hai mươi mốt kiết làm dính mắc tâm này, hãy quán người này ắt đọa đường ác chẳng sanh cõi lành. Nếu lại có người không có hai mươi mốt kiết làm dính mắc tâm này, nên biết người đó ắt sanh lên trời, không rơi trong địa ngục; ví như dạ trắng sạch, mới tùy ý muốn nhuộm màu nào: xanh, vàng, đỏ, đen ắt thành màu đó, trọn chẳng bại hoại. Vì sao như thế? Vì nó sạch vậy. Ðây cũng như thế, ai không có hai mươi mốt kiết này làm dính mắc tâm bên biết người này ắt sanh lên Trời, không rơi đường ác. Nếu bậc Hiền Thánh kia khởi sân nhuế tâm kiết, quán rồi liền có thể dừng được; khởi nhuế hại tâm kiết, khởi thùy miên tâm kiết, khởi điều hý tâm kiết, khởi nghi tâm kiết, khởi nộ tâm kiết, khởi kỵ tâm kiết, khởi não tâm kiết, khởi tắng tâm kiết, khởi vô tàm tâm kiết, khởi vô úy tâm kiết, khởi huyễn tâm kiết, khởi gian tâm kiết, khởi ngụy tâm kiết, khởi tranh tâm kiết, khởi kiêu tâm kiết, khởi mạn tâm kiết, khởi đố tâm kiết, khởi tâm thượng mạn tâm kiết, khởi tham tâm kiết. Nếu bậc Hiền Thánh kia không sân, không nhuế, không có ngu hoặc; tâm ý vui hòa, dùng tâm từ rải khắp một phương mà tự vui thú: phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư cũng lại như thế; bốn phía trên, dưới, đối với một trong tất cả cũng thế. Tất cả thế gian vô hạn vô lượng không thể tính kể; tâm không giận dữ mà tự du hí, tâm từ này rải khắp trong đó, được hoan hỉ rồi, tâm ý liền chính.

Lại dùng tâm bi rải khắp một phương mà tự vui thú phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư cũng lại như thế; bốn phía trên, dưới, một trong tất cả cũng vậy. Tất cả thế gian dùng vô lượng, vô hạn cũng không thể tính kể; tâm không giận dữ mà tự du hí, đem tâm bi rải khắp trong đó, được hoan hỉ rồi, tâm ý liền chính.

Lại dùng tâm hỉ rải khắp một phương mà tự vui thú; phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư cũng vậy; bốn phía, trên, dưới, một trong tất cả cũng vậy. Tất cả thế gian dùng vô lượng, vô hạn không thể tính kể; tâm không giận dữ mà tự du hí, dùng tâm hỉ này rải khắp trong đó, được hoan hỉ rồi, tâm ý liền chính.

Lại dùng tâm xả (hộ) rải khắp một phương mà tự vui thú; phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư cũng vậy; bốn phía, trên, dưới, một trong tất cả cũng vậy. Tất cả thế gian dùng vô lượng, vô hạn không thể tính kể; tâm không giận dữ mà tự du hí, đem tâm hỉ này tràn khắp trong đó, được hoan hỉ rồi, tâm ý liền chính.

Lại đối với Như Lai thành tựu tín căn, căn bản không dời, dựng cờ cao hiển không thể di động. Chư Thiên, Long Thần, A-tu-la, Sa-môn, Bà-la-môn hoặc Người đời, trong đây được hoan hỉ, tâm ý liền chính. Ðây là Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo PHáp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, trong đây được hoan hỉ, tâm ý liền chính.

Cũng lại thành tựu đối với pháp. Pháp của Như Lai rất là thanh tịnh, không thể dời đổi, được người yêu kính. Như vậy người trí nên quán điều này, liền ở trong đó được hoan hỉ, tâm ý liền chính.

Cũng lại thành tựu đối với chúng. Thánh chúng của Như Lai rất là thanh tịnh, tánh hạnh thuần hòa, pháp pháp thành tựu, giới thành tựu, tam-muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát kiến tuệ thành tựu. Thánh chúng gồm bốn đôi tám bậc. Ðây là Thánh chúng của Như Lai, đáng yêu, đáng quý, thật đáng thừa sự, trong đây được hoan hỷ, tâm ý liền chính.

Người ấy lại dùng tam-muội này, tâm được thanh tịnh không có vết nhơ. Các kiết liền dứt sạch, cũng không nhiễm ô, tánh hạnh nhu nhuyến, có được thần thông, liền tự biết được việc của vô lượng đời trước. Từ nơi nào đến đều biết hết, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời; kiếp thành bại, kiếp không thành, hoại, vô số kiếp thành, hoại, vô số kiếp không thành, hoại. 'Ta từng ở chỗ kia, tự là gì, tên gì, họ gì, sanh như thế, ăn như thế, chịu khổ vui như thế, thọ mạng ngắn hay dài. Từ chỗ kia chết sanh ở đây.' Như thế tự biết việc vô số kiếp trước.

Lại do tam-muội này, tâm thanh tịnh không có vết nhơ, biết tâm chúng sanh nghĩ việc gì. Người đó lại dùng Thiên nhãn xem có người sanh, có người chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường lành, đường ác, hoặc tốt hoặc xấu tùy hạnh của chúng sanh, đã tạo quả báo thảy đều biết hết. Hoặc có chúng sanh thân làm ác, miệng làm ác, tâm làm ác, phỉ báng Hiền Thánh, tạo hạnh tà kiến, thân hoại mạng chung sanh trong ba đường ác, trong địa ngục. Hoặc lại có chúng sanh thân làm thiện, miệng nói thiện, tâm nghĩ thiện, không phỉ báng Hiền Thánh, chánh kiến không có tà kiến, thân hoại mạng chung sanh chỗ lành, lên Trời. Ðó là thiên nhãn thanh tịnh xem các loài chúng sanh, có người sanh, có người chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường lành, đường ác, hoặc tốt, hoặc xấu tùy hạnh chúng sanh, quả báo tạo ra thảy đều biết hết.

Người đó lại dùng tam-muội này, tâm thanh tịnh không vết nhơ, không có kiết sử, tâm tánh nhu nhuyến được thần thông. Lại dùng lậu tận thông mà tự vui thú. Người đó quán khổ này, biết như thực. Lại quán khổ tập, lại quán khổ tận, lại quán khổ xuất yếu, biết như thực. Người đó quán như thế xong, tâm dục lậu được giải thoát, tâm hữu lậu, tâm vô minh lậu được giải thoát. Ðược giải thoát rồi liền được trí giải thoát: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân sau nữa', biết như thực.

Như thế, này Tỳ-kheo, bậc Hiền Thành tâm được giải thoát, tuy có ăn cao lương mỹ vị, các thứ ngon lành nhiều như Tu-di cũng trọn không tội. Vì sao? Vì không dục ái, đã dứt sạch dục ái vậy; vì không sân, đã dứt sân vậy, vì không ngu si, đã dứt ngu si vậy. Ðây là Tỳ-kheo ở trong Tỳ-kheo, đã tắm rửa sạch sẽ hoàn toàn bên trong.

Bấy giờ Bà-la-môn ở cạnh bờ sông bạch Thế Tôn rằng:

- Sa-môn Cù-đàm có thể đến bên sông Tôn-đà-la tắm rửa.

Thế Tôn bảo rằng:

- Thế nào Bà-la-môn, sao gọi đó là nước sông Tôn-đà-la?

Bà-la-môn bạch Thế Tôn:

- Nước sông Tôn-đà-la, phước của nó rất thâm sâu, là ánh sáng của đời. Nếu có nhân vật nào tắm tại nước sông đó, tất cả các ác đều trừ sạch cả.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Thân này vố số kiếp,
Từng đến tắm sông kia,
Và các ao vũng nhỏ,
Không đâu không trải khắp.
Người ngu thường thích đó,
Mờ ám không thanh tịnh,
Tội cũ đầy trong thân,
Sông kia sao cứu được.
Người tịnh thường an lạc,
Người giữ giới cũng vậy,
Người sạch làm hạnh sạch,
Kìa nguyện tất quả thành,
Hộ trì, không chấp thủ
Hành từ không sát sanh,
Giữ thành thật không dối,
Tâm bi không tăng giảm.
Nay Ông tắm ở đây,
Ắt được chỗ an ổn,
Sông kia đến chỗ nào,
Như mù nhảy vào tối.

Bấy giờ Bà-la-môn bạch Thế Tôn:

- Thật đầy đủ, thật đầy đủ! Thưa Cù-đàm! Ví như người gù được thẳng, người tối được sáng, người mê được thấy đường, như đèn sáng trong nhà tối, làm con mắt cho người không mắt. Như vậy, Sa-môn Cù-đàm đã dùng vô số phương tiện thuyết diệu pháp này. Nguyện xin cho con hành đạo.

Bấy giờ Bà-la-môn ở cạnh bờ sông liền được nhập đạo, thọ giới cụ túc. Cũng như người nào có tâm xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh vô thượng mong đạt đến: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân sau nữa', vị ấy như thực rõ biết. Lúc này, Tôn giả Tôn-đà-la-đế-lợi thành bậc A-la-hán.

Bấy giờ Tôn giả Tôn-đà-la-đế-lợi nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành la-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật cùng chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân lúc trời đã về chiều liền đến chỗ Thế Tôn, quỳ lạy rồi ngồi một bên. Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân liền dùng kệ tụng hỏi nghĩa Như Lai:

Hay thuyết, hay tuyên bố,
Vượt dòng thành vô lậu,
Ðể qua vực sanh tử,
Nay hỏi nghĩa Cù-đàm.
Con quán chúng sanh này,
Việc tạo nghiệp phước đức,
Tạo các hạnh dường ấy,
Thí ai, phước tối tôn?
Nay con tại Linh Thứu,
Xin mong giảng nghĩa này,
Biết ý thú của Ngài,
Cũng vì người thí nói.
Bấy giờ Thế Tôn dùng kệ đáp:
Bốn đường tạo phước khm
Bốn quả đầy đủ thánh,
Các người học được vết,
Nên tin phụng pháp này.
Không dục cũng không giận,
Hết si thành vô lậu,
Vượt hết tất cả vực,
Thí kia thành quả lớn.
Các loại chúng sanh này,
Chỗ tạo nghiệp phước đức,
Tạo hạnh bao nhiêu thứ,
Thí Tăng, được phước nhiều,
Chúng này độ vô lượng,
Như biển xuất trân bảo,
Thánh chúng cũng như vậy,
Diễn pháp tuệ quang minh.
Cù-đàm chỗ lành kia,
Người hay thí chúng Tăng,
Ðược phước không thể kể,
Bậc tối thắng đã nói.

Khi Thích-đề-hoàn-nhân nghe Phật dạy xong, quỳ lạy Phật rồi lui ra.

Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề, cũng tại thành Vương Xá, bên cạnh núi Kỳ-xà-quật, làm riêng một thất lợp lá để tự thiền tư. Khi ấy, Tôn giả Tu-bồ-đề thân bị khổ hoạn rất trầm trọng, liền nghĩ rằng: 'Các thống khổ của ta đây sanh ra từ đây, từ đâu diệt, rồi đi về đâu?'

Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề liền ở ngoài trời trải tọa cụ, chánh thân chánh ý, chuyên chú nhất tâm, ngồi kiết-già, suy nghĩ các nhập, dục hại thống khổ.

Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân, biết ý nghĩ của Tôn giả Tu-bồ-đề, liền dùng kệ sai Ba-giá-tuần rằng:

Thiện nghiệp, thoát trói buộc,
Ở tại núi Linh Thứu,
Nay bị bịnh rất nặng,
Vui không, các căn định.
Mau đến thăm hỏi bịnh,
Săn sóc tôn thượng nhân,
Sẽ thâu được phước lớn,
Trồng đức không gì hơn.

Ba-giá-tuần đáp:

- Xin vâng, Tôn giả.

Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân đem năm trăm Thiên nhân và Ba-giá-tuần; ví như trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh tay, liền biến mất khỏi cõi trời Ba mươi ba; hiện đến núi Linh Thứu, cách Tôn giả Tu-bồ-đề không xa, lại dùng kệ bảo Ba-giá-tuần rằng:

Nay Ông biết Thiện Nghiệp,
Vui Thiền định tam-muội,
Tiếng nhu hòa thanh tịnh,
Nay khiến từ thiền dậy.

Ba-giá-tuần đáp:

- Xin vâng!

Bấy giờ Ba-giá-tuần nghe lời Thích-đề-hoàn- nhân, liền đem đàn lưu ly đến trước Tu-bồ-đề, rồi dùng kệ này khen Tu-bồ-đề rằng:

Kiết tận trọn vô dư,
Các niệm không lầm lẫn,
Các trần cấu đếu dứt,
Nguyện mau từ Thiền tỉnh.
Tâm dừng, qua sông hữu,
Hàng ma độc các kiết,
Công đức như biển lớn,
Nguyện mau từ Ðịnh khởi.
Mắt sạch như hoa sen,
Các uế trọn chẳng vướng,
Vô quy cùng tác quy,
Không Định, hãy mau dậy.
Vượt bốn dòng vô vi.
Khéo giải không giả bệnh,
Ðể thoát nạn hữu vi,
Cúi mong giờ Ðịnh tính (giác).
Năm trăm trời ở trên,
Thích chủ cũng thân đến,
Muốn hầu Thánh tôn nhan,
Giải không! Hãy mau dậy!

Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề liền từ tòa đứng dậy, rồi khen Ba-giá-tuần rằng:

- Lành thay! Ba-tuần! Nay tiếng Ông cùng tiếng đàn hòa, đàn cùng tiếng hòa, không khác. Mà tiếng đàn không rời tiếng ca, tiếng ca không rời tiếng đàn, hai việc hợp với nhau mới thành tiếng hay.

Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhân liền đến chỗ Tôn giả Tu-bồ-đề, quỳ lạy rồi ngồi một bên. Lúc ấy, Thích-đề-hoàn-nhân bạch Tu-bồ-đề:

- Ngài Thiện Nghiệp bị bịnh khổ có tăng giảm không? Nay thân này bịnh từ đây sanh, từ thân sanh chăng, ý sanh chăng?

Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề bảo Thích-đế-hoàn-nhân rằng:

- Lành thay, Câu Dực! Pháp pháp tự sanh, pháp pháp tự diệt; pháp pháp cùng động, pháp pháp tự dừng. Ví như, này Câu Dực, có độc dược, lại có hại độc dược. Thiên Ðế Thích! Ðây cũng là thế, pháp pháp cùng loạn, pháp pháp tự dừng; pháp có thể sanh pháp, pháp đen dùng pháp trắng trị, pháp trắng dùng pháp đen trị. Thiên Ðế Thích! Người bịnh tham dục dùng bất tịnh trị, người bịnh sân giận dùng tâm từ trị, người bịnh ngu si dùng trí tuệ trị. Như thế, này Thích-đế-hoàn-nhân, tất cả pháp có đều quy về không, không ngã, không nhân, không thọ, không mạng, không sĩ, không phu, không hình, không tượng, không nam, không nữ. Ví như, này Thích-đế-hoàn-nhân! Gió làm gãy đại thị cành lá xác xơ, mưa đá làm hại mầm, hoa quả vừa tốt không nước bị héo, trời giáng mưa xuống nẩy mầm được tồn tại. Như thế, Thiên Ðế Thích! Pháp pháp cùng loạn, pháp pháp tự định. Ta vốn bịnh hoạn đau khổ não. Hôm nay đã trừ không còn hoạn khổ nữa.

Bấy giờ Thích-đế-hoàn-nhân bạch Tu-bồ-đề rằng:

- Tôi cũng có sầu, lo, khổ, não. Nay nghe pháp này không còn sầu, lo nữa. Các việc bận rộn, muốn trở về Trời, việc mình cũng có và các việc Trời đều rất nhiều.

Tôn giả Tu-bồ-đề nói:

- Nay chính là lúc nên đi.

Bấy giờ Thích-đế-hoàn-nhân liền từ chỗ ngồi đứng lên, quỳ lạy Tôn giả Tu-bồ-đề, nhiễu ba vòng rồi đi.

Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề liền nói kệ:

Năng nhân nói lời này,
Căn bản đều đầy đủ,
Người trí được an ổn,
Nghe pháp dứt các bịnh.

Bấy giờ Thích-đế-hoàn-nhân nghe Tôn giả Tu-bồ-đề nói xong, vui vẻ vâng làm.

Diều-đạt và hai kinh,
Da và Lợi-sư-la
Trúc-bác, Tôn-đà-lợi
Thiện Nghiệp, Thích-đế-hoàn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33325)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6570)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11320)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30424)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30450)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8001)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12228)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12274)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11628)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12861)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34825)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9863)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52289)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10768)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10541)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10735)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10481)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13100)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16310)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21874)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9641)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7142)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12788)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12811)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16256)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16554)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13883)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16617)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12147)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13858)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14346)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9228)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11770)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11292)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16357)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14374)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16215)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12706)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12100)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11811)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15691)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11531)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14035)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12684)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15007)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11978)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13147)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14573)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20748)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10981)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20738)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14383)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20414)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17679)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14041)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31872)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12032)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant