Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

42-2. Phẩm Bát nạn (2)

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10965)
42-2. Phẩm Bát nạn (2)

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 3

XXXXII.2. Phẩm Bát nạn (2)

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, trong vườn Lộc Dã cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Lúc ấy, A-tu-la tên Ba-ha-la và Thiên tử Mâu-đề-luân phi thời đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Khi ấy đức Phật hỏi A-tu-la:

- Các Ông rất thích biển lớn, phải không?

A-tu-la bạch Phật:

- Rất thích! Không phải không thích.

Ðức Phật bảo:

- Trong biển lớn có pháp kỳ đặc gì mà các Ông thấy rồi vui thích ở trong ấy?

A-tu-la bạch Phật:

- Trong biển lớn có tám việc chưa từng có, các A-tu-la vui thích ở trong ấy. Thế nào là tám? Biển lớn rất sâu rộng, đó là việc chưa từng có thứ nhất.

Lại nữa, biển lớn có thân đức này, bốn sông lớn, mỗi sông dẫn theo năm trăm sông nhỏ chảy vào biển lớn, rồi mất tên riêng của sông; đó là pháp chưa từng có thứ hai.

Laị nữa, biển lớn đều có đồng một vị; đó là pháp chưa từng có thứ ba.

Lại nữa, biển lớn nước thủy triều đúng thời không mất thời tiết; đó là pháp chưa từng có thứ tư.

Lại nữa, biển lớn là nơi cư trú của các loài quỷ thầnhình tướng, hết thảy đều nằm trong biển lớn; đó là pháp chưa từng có thứ năm.

Lại nữa, biển lớn dung chứa những loài hình tướng to lớn, trăm do-tuần đến bảy ngàn do-tuần cũng không chật chội; đó là pháp chưa từng có thứ sáu.

Lại nữa, biển lớn xuất phát bao nhiêu trân bảo, xà cừ, mã não, trân châu, hổ phách, thủy tinh, lưu ly; đó là pháp chưa từng có thứ bảy.

Lại nữa, phía dưới biển lớn có cát vàng, lại có núi Tu-di làm bằng bốn thứ trân bảo; đó là điều chưa từng có thứ tám.

Ðây là tám pháp chưa từng có, khiến các A-tu-la vui thích trong ấy.

Lúc ấy, A-tu-la bạch Phật:

- Trong pháp Như Lai có gì kỳ đặc, khiến các Tỳ-kheo thấy rồi, vui thích trong ấy?

Phật bảo A-tu-la:

- Có tám pháp chưa từng có, khiến các Tỳ-kheo vui thích trong ấy. Thế nào là tám? Trong pháp của Ta đầy đủ giới luật, không có hạnh phóng dật; đó là pháp chưa từng có thứ nhất. Các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích trong ấy, như biển lớn kia rất sâu và rộng.

Lại nữa, trong pháp của Ta có bốn dòng họ đều làm Sa-môn trong pháp của Ta không gọi theo tên cũ để làm tên riêng, cũng như biển lớn kia, bốn sông lớn đều chảy về biển mà đồng một vị, không có tên khác; đó là pháp chưa từng có thứ hai.

Lại nữa, trong pháp của Ta lập bày cấm giới, cùng vâng theo không vượt qua điều qui định; đó là pháp chưa từng có thứ ba.

Lại nữa, trong pháp của Ta đều đồng một vị, đó là vị của Tám đạo phẩm của Hiền Thánh; đó là pháp chưa từng có thứ tư, như biển lớn kia thảy đồng một vị.

Lại nữa, trong pháp của Ta sung mãn các pháp. Ðó là Tứ ý đoạn, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác ý, Bát chơn chánh hạnh, các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích trong ấy, như biển lớn kia có các loài Thần ở trong; đó là pháp chưa từng có thứ năm.

Lại nữa, trong pháp của Ta có các thứ trân bảo, đó là trân bảo Niệm giác ý, trân bảo Trạch pháp giác ý, trân bảo Tinh tấn giác ý, trân bảo Hỷ giác ý, trân bảogiác ý (khinh an), trân bảo Ðịnh giác ý, trân bảo Hộ giác ý (xả); đó là điều chưa từng có thứ sáu. Các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích trong ấy, như biển lớn kia phát xuất các thứ trân bảo.

Lại nữa, trong pháp của Ta có các chúng sanh, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo. Nơi Vô dư Niết-bàn mà được diệt độ, nhưng pháp của Ta không tăng giảm, như biển lớn kia, các sông chảy vào, nước biển không tăng giảm; đó là pháp chưa từng có thứ bảy. Các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích ở trong ấy.

Lại nữa, trong pháp của Ta có Kim cang tam-muội, Diệt tận tam-muội, Nhất thiết quang minh tam-muội, Ðắc bất khởi tam-muội, các thứ tam-muội không thể tính kể, các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích. Như biển lớn kia phía dưới có cát vàng; đó là pháp chưa từng có thứ tám. Các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích trong ấy.

Trong pháp của Ta có tám pháp chưa từng có này, các Tỳ-kheo rất tự vui thích.

Lúc ấy, A-tu-la bạch Phật:

- Giả sử trong pháp của Như Lai chỉ có một pháp chưa từng có, cũng đã hơn tám việc chưa từng có của biển kia trăm lần, ngàn lần không thể so sánh: đó là Tám đạo phẩm Hiền Thánh. Lành thay! Thế Tôn hoan hỷ nói lời này.

Bấy giờ, Thế Tôn dần dần thuyết pháp, đó là luận về thí, về giới, về sanh thiên, dục là tưởng bất tịnh, lậu là hoạn lớn, xuất yếu là vui. Bấy giờ Thế Tôn thấy A-tu-la mở thông tâm ý, Ngài bèn đem các pháp chư Phật thường nói như Khổ, Tập, Tận (Diệt), Ðạo vì A-tu-la mà nói. A-tu-la bèn khởi ý niệm rằng: 'Ðáng lẽ có Năm đế, nay Thế Tôn chỉ nói Bốn đế, còn với chư Thiên thì nói Năm đế'

Khi ấy, Thiên tử ở tại chỗ ngồi được pháp nhãn tịnh. A-tu-la bạch Phật:

- Lành thay Thế Tôn! Hoan hỷ nói lời này, nay tôi muốn trở về chỗ mình.

Phật dạy:

- Nên biết đúng thời.

A-tu-la liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, theo đường mà đi. Khi ấy, Thiên tử bảo A-tu-la

- Nay ý niệm của Ông không tốt, nói rằng: 'Như Lai vì chư Thiên nói Năm đế, với ta chỉ nói Bốn đế'. Vì sao? Chư Phật Thế Tôn trọn không hai lời, chư Phật trọn không bỏ chúng sanh, nói pháp cũng không mỏi mệt, nói pháp với tâm bình đẳng mà nói pháp. Có Bốn đế là Khổ, Tập, Tận, Ðạo; nay Ông chớ nghĩ như vậy mà đỗ lỗi Như Lai nói có Năm đế.

A-tu-la trả lời:

- Nay tôi làm việc không tốt, tự sẽ sám hối. Cần phải đến chỗ Phật hỏi nghĩa này.

Bấy giờ, A-tu-la và Thiên tử nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Trời đất chấn động mạnh có tám nhân duyên. Thế nào là tám? Tỳ-kheo nên biết! Ðất của Diêm-phù-đề nầy, chiều Nam Bắc hai vạn một ngàn do-tuần, chiều Ðông Tây bảy ngàn do-tuần, bề dầy sáu vạn tám ngàn do-tuần. Nước sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, lửa dày tám vạn bốn ngàn do-tuần. Dưới lửa có lớp gió dày sáu vạn tám ngàn do-tuần. Phía dưới gió có lớp Kim cang luân xá-lợi của chư Phật Thế Tôn thời quá khứ đều ở đây.

Tỳ-kheo nên biết! Hoặc có khi gió lớn chấn động, lửa cũng động. Lửa đã động, nước liền động, nước đã động, đất liền động. Ðây là nhân duyên thứ nhất khiến đất chấn động mạnh.

Lại nữa, khi Bồ-tát từ cõi Trời Ðâu-suất giáng thần vào thai mẹ, lúc ấy đất cũng chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ hai khiến đất chấn động mạnh.

Lại nữa, khi Bồ-tát giáng thần ra khỏi thai mẹ, lúc ấy đất cũng chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ ba khiến đất chấn động mạnh.

Lại nữa, khi Bồ-tát xuất gia học đạo, thành đạo Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, lúc ấy trời đất chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ tư khiến đất chấn động mạnh.

Lại nữa, nếu Như Laicảnh giới Vô dư Niết-bàn diệt độ, lúc ấy trời đất chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ tư khiến đất chấn động mạnh.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo đại thần túc, tâm được tự tại, tùy ý muốn làm vô số biến hóa, hoặc phân thân ra trăm nghìn, rồi trở lại một thân, bay trên hư không, xuyên qua vách tường núi đá, ẩn hiện tự do, quán đất không có tướng đất, thảy đều rỗng không, lúc ấy đất chấn động mạnh. Ðây là nhân duyên thứ sáu đất chấn động mạnh.

Lại nữa, chư Thiên đại thần túc, thần đức vô lượng mệnh chung từ nơi ấy lại sanh trở về nơi ấy. Do phước đời trước tạo đầy đủ các đức, bỏ thân Trời cũ, được làm Ðế Thích hoặc Phạm thiên vương. Lúc ấy đất chấn động mạnh. Ðó là nhân duyên thứ bảy đất chấn động mạnh.

Lại nữa, nếu chúng sanh mệnh chung phước hết, khi ấy các quốc vương không vừa ý nước của mình. Các nước chinh phạt lẫn nhau, hoặc bị đói hiểm mà chết, hoặc bị đao bén mà chết. Lúc ấy trời đất chấn động. Ðó là nhân duyên thứ tám khiến đất chấn động mạnh.

Như thế Tỳ-kheo ! Có tám nhân duyên khiến trời đất chấn động mạnh.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Tôn giả A-na-luật ở tại bốn nơi Phật cư trú.

Lúc ấy, A-na-luật ở chỗ vắng khởi ý này: 'Trong hàng để tử của Phật Thích Ca Văn những bậc thành tựu giới đức trí tuệ, đều nương vào giới luật, ở trong Chánh pháp này mà được nuôi lớn. Người không đầy đủ giới luật trong hàng Thanh văn, những người này đều lìa Chánh pháp, không tương ứng với giới luật. Nay, như hai pháp này, Giới và Văn, pháp nào hơn ? Nay ta có thể đem cội gốc nhân duyên này, đến hỏi Như Lai, việc này thế nào?'

A-na-luật lại khởi ý niệm này: 'Pháp việc làm của người tri túc, không phải việc làm của người không biết đủ. Pháp này là việc làm của người thiểu dục, không phải việc làm của người đa dục. Pháp này là việc làm của người ở chỗ vắng, không phải việc làm của người ở chỗ ồn. Pháp này là việc làm của người trì giới, không phải việc làm của người phạm giới. Pháp này là việc làm của người định, không phải việc làm của người loạn. Pháp này là việc làm của người trí tuệ, không phải việc làm của người ngu si. Pháp này là việc làm của người đa văn, không phải việc làm của người ít học.'

Lúc ấy, A-na-luật, suy nghĩ về tám điều tâm niệm của bậc đại nhân rồi nghĩ rằng: 'Nay ta có thể đến chỗ Thế Tôn để hỏi nghĩa này'.

Bấy giờ, Thế Tôn ở tại thành Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Ðộc. Lúc ấy, vua Ba-tư-nặc thỉnh Phật và chư Tỳ-kheo Tăng-kiết hạ ba tháng, A-na-luật dẫn năm trăm Tỳ-kheo, dần dần du hóa trong nhân gian, lần đến nước Xá-vệ, đến chỗ đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, lui ngồi một bên.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Con ở nơi vắng lặng, suy nghĩ về nghĩa này. Giới và Văn, hai pháp này pháp nào tối thắng?

Khi ấy, đức Phật bèn vì A-na-luật nói kệ:

Giới hơn hay Văn hơn
Nay Ông khởi hồ nghi
Giới tối thắng hơn Văn
Trong đó có gì nghi.

Vì sao? A-na-luật nên biết! Nếu Tỳ-kheo thành tựu giới, liền được định ý. Ðã được định ý liền được trí tuệ. Ðã được trí tuệ liền được đa văn. Ðã được đa văn liền được giải thóat. Ðã được giải thoát liền được diệt độ nơi Niết-bàn vô dư. Do điều này biết rõ rằng giới là tối thắng.

Lúc ấy, A-na-luật hướng về Thế Tôn, nói tám điều tâm niệm của bậc đại nhân.

Phật bảo A-na-luật:

- Lành thay, lành thay, A-na-luật! Ðiều thầy suy nghĩ chính là điều suy nghĩ của bậc Ðại nhân: Ít muốn, biết đủ, ở chỗ vắng, thành tựu giới, thành tựu chánh định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu đa văn.

A-na-luật! Nay Thầy nên khởi ý này, suy nghĩ về tám điều tâm niệm của bậc Ðại nhân. Thế nào là tám? Pháp này là việc làm của người tinh tấn, không phải việc làm của người giải đãi. Vì sao? Bồ-tát Di-lặc đáng lẽ trong ba mươi kiếp sẽ thành đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, nhưng ta do sức tinh tấnthành Phật trước hơn.

A-na-luật biết đó, các đức Phật Thế Tôn đồng một bậc, đồng nhau về giới luật, giải thoát trí tuệ không khác; cũng lại đồng nhau về không, vô tướng, vô nguyện, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân, nhìn không chán, không thể thấy đảnh, thảy đều không khác, chỉ có tinh tấn không đồng. Ðối với chư Phật Thế Tôn thời quá khứ và tương lai, người tinh tấn hơn hết là Ta.

Cho nên, này A-na-luật! Ðiều tâm niệm thứ tám của bậc Ðại nhân này là tối thượng, là tôn quý, không có thí dụ nào sánh kịp. Cũng như do sữa có lạc, do lạc có tô, do tô có đề hồ nhưng trong đó đề hồ là hơn hết, không thể so sánh. Ðây cũng thế, ý niệm tinh tấn đối với trong tám điều tâm niệm của bậc Ðại nhân là tối thượng, thật không thể so sánh. Cho nên A-na-luật, nên vâng theo tám điều tâm niệm của bậc Ðại nhân, cũng nên vì bốn bộ chúng phân biệt nghĩa ấy. Nếu tám điều tâm niệm của Ðại nhân được lưu truyền tại thế gian thì khiến đệ tử Ta đều được thành tựu quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.

Vì sao? Pháp Ta là điều được làm của người thiểu dục, không phải là điều được làm của người đa dục. Pháp Ta là điều được làm của người tri túc, không phải điều được làm của người không biết đủ. Pháp Ta là điều được làm của người ở chỗ vắng, không phải là điều được làm của người ở trong chúng. Pháp Ta là điều được làm của người trì giới, không phải là điều được làm của người phạm giới. Pháp Ta là điều được làm của người định, không phải là điều được làm của người loạn. Pháp Ta là điều được làm của người trí, không phải là điều được làm của người ngu. Pháp Ta là điều được làm của người tinh tấn, không phải là điều được làm của người giải đãi.

Thế nên, A-na-luật! Bốn bộ chúng nên tìm cách thực hành tám điều tâm niệm của bậc Ðại nhân này. Như thế, A-na-luật nên học điều này.

Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật nghe Phật dạy xong vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe nhu vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có tám bộ chúng, các Thầy nên biết. Thế nào là tám? Ðó là chúng Sát-lợi, chúng Bà-la-môn, chúng Trưởng giả, chúng Sa-môn, chúng Tứ thiên vương, chúng Trời Ba mươi ba, chúng Ma vương, chúng Phạm thiên.

Tỳ-kheo nên biết! Từ trước đến nay Ta đi vào trong chúng Sát-lợi, cùng họ chào hỏi, nói năng đàm luận, cũng không người nào bằng Ta. Ta đi một mình không bạn bè, cũng không ai ngang hàng. Ta ít muốn, biết đủ, niệm không lầm loạn, thành tựu giới, thành tựu chánh định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu đa văn, thành tựu tinh tấn.

Lại tự nhớ nghĩ, Ta vào trong chúng Bà-la-môn, chúng Trưởng giả, chúng Sa-môn, chúng Tứ thiên vương, chúng Trời Ba mươi ba, chúng Ma vương, chúng Phạm thiên vương, cùng họ chào hỏi nói năng đàm luận, Ta đi một mình không bạn bè, cũng không ai ngang hàng, ở trong ấy tối tôn, cũng không người sánh bằng. Ta ít muốn biết đủ, ý không lầm loạn, thành tựu giới, thành tựu chánh định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu đa văn, thành tựu tinh tấn.

Bấy giờ, trong tám bộ chúng, Ta đi riêng một mình không bạn bè, vì bao chúng sanh làm tàn che lớn. Khi ấy tám bộ chúng không thể thấy đảnh, cũng không dám nhìn mặt, huống gì cùng luận nghị. Vì sao? Vì ta cũng không thấy trong cõi Trời, cõi Người, trong chúng Ma hoặc Thiên ma, chúng Sa-môn, Bà-la-môn có ai có thể thành tựu tám pháp này, trừ Như Lai không kể. Cho nên Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện thực hành tám pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-để đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên.

Lúc ấy, Thế Tôn bảo trưởng giả:

- Trong nhà trưởng giả bố thí rộng lớn, phải chăng?

Trưởng giả bạch Phật:

- Bố thí cho nhà nghèo, ngày đêm không ngừng, tại bốn cửa thành, và trong chợ lớn, trong nhà, nơi đường đi, Phật và Tỳ-kheo Tăng. Ðó là tám chỗ bố thí.

Như thế, bạch Thế Tôn! Người đời cần gì, cần y phục cho y phục, cần thức ăn cho thức ăn, trọn không vi phạm đến trân bảo nhà nước . Y phục, mền nệm, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh, trị ghẻ, thảy đều cấp thí cho.

Cũng có chư Thiên đến chỗ con, ở trên hư không bảo rằng: 'Nên phân biệt tôn ty! Người này trì giới, người này phạm giới; cho người này được phước, cho người nầy không được báo đền'.

Song tâm con không có bỉ thử, không khởi tâm tăng giảm; lòng từ bình đẳng khắp tất cả chúng sanh. Hơn nữa, chúng sanh nương mạng cănthân hình tồn tại, có ăn mới sống, không ăn thì mạng căn không cứu giúp. Bố thí cho tất cả chúng sanh, quả báo ấy vô lượng, thọ quả báo ấy không có tăng giảm.

Phật bảo trưởng giả:

- Lành thay, lành thay! Trưởng giả, bố thí bình đẳng, phước tôn quý bậc nhất. Song tâm của chúng sanh lại có hơn kém, như bố thí cho người trì giới hơn bố thí cho người phạm giới.

Lúc ấy trên hư không, chư Thiên thần khen ngợi vô lượng, liền nói kệ này:

Phật nói chọn thí hơn
Chúng ngu có tăng giảm
Muốn được ruộng phước tốt
Ai hơn chúng của Phật?

Nay lời Thế Tôn nói, rất là thích thay! Bố thí cho người trí giới hơn người phạm giới.

Bấy giờ Thế Tôn bảo trưởng giả A-na-bân-để:

- Nay Ta sẽ nói với Ông về chúng Hiền Thánh. Hãy khéo suy nghĩ ghi nhớ, giữ trong tâm: Hoặc bố thí ít được phước nhiều, hoặc bố thí nhiều được phước nhiều.

Trưởng gỉa A-na-bân-để bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn diễn bày nghĩa ấy. Thế nào là thí ít được phước nhiều? Thế nào là thí nhiều cũng được phước nhiều?

Phật bảo trưởng giả A-na-bân-để:

- Các vị hướng A-la-hán, đắc A-la-hán, hướng A-na-hàm, đắc A-la-hàm, hướng Tư-đà-hàm, đắc Tư-đà-hàm, hướng Tu-đà-hoàn, đắc Tu-đà-hoàn, Trưởng giả, đó gọi là chúng Hiền Thánh, bố thí ít thì được phước nhiều, bố thí nhiều được phước nhiều hơn.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Người thành tựu tứ hướng
Thành tựu Tứ quả thật
Ðây là chúng Hiền Thánh
Bố thí được phước rộng.

Các đức Phật Thế Tôn ở đời quá khứ lâu xa cũng có chúng Hhiền Thánh này như Ta ngày nay không khác. Giả sử đời vị lai. Các đức Phật Thế Tôn xuất hiện nơi đời, cũng có chúng Hiền Thánh như thế này. Cho nên, này Trưởng giả ! Hãy có tâm hoan hỷ vui mừng cúng dường Thánh Chúng.

Lúc ấy, đức PhậtTrưởng giả nói pháp vi diệu, để an lập địa vị bất thối chuyển. Trưởng giả nghe pháp xong, vui mừng vô lượng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, đi nhiễu ba vòng rồi lui ra.

Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-để nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn dùng tài vật bố thí thì sẽ được tám công đức. Thế nào là tám? Một là tùy thời bố thí, không phải là phi thời. Hai là thanh khiết bố thí, không phải là uế trược. Ba là tự tay đưa cho, không nhờ người khác. Bốn là tự nguyện bố thí, không có tâm kiêu tứ. Năm là giải thoátbố thí, không có hy vọng báo đáp. Sáu là bố thí cầu diệt độ, không cầu sanh Thiên. Bảy là bố thí tìm ruộng tốt, không bố thí đất hoang. Tám là đem công đức này bố thí chúng sanh, không tự vì mình.

Như thế, này các Tỳ-kheo! Thiên nam tử, thiện nữ nhơn dùng tài vật bố thí thì được tám công đức.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Người trí tùy thời thí
Không có tâm tham tiếc
Ðã làm công đức rồi
Ðem thí hết cho người
Thí này là tối thắng
Ðược chư Phật khen ngợi
Hiện thân thọ quả báo
Chết ắt thọ phước Trời.

Cho nên, các Tỳ-kheo! Người muốn tìm quả báo kia, nên làm tám việc này, phước báo ấy vô lượng không thể tính kể, được báu cam lồ, dần dần đến diệt độ. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vười Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói về con đường dẫn đến Nê-lê (địa ngục) và con đường hướng đến Niết-bàn: Tà kiến dẫn đến Nê-lê, chánh kiến hướng đến Niết-bàn. Tà chí (tà tư duy), hướng đến đường Nê-lê, chánh chí (chánh tư duy) là đường hướng đến Niết-bàn. Tà ngữ dẫn đến đường Nê-lê, chánh ngữ hướng đến Niết-bàn, Tà nghiệp dẫn đến đường Nê-lê, chánh nghiệp hướng đến Niết-bàn. Tà mạng dẫn đến đường Nê-lê, chánh mạng hướng đến Niết-bàn. Tà phương tiện hướng đến đường Nê-lê, chánh phương tiện hướng đến Niết-bàn. Tà niệm dẫn đến đường Nê-lê, chánh niệm hướng đến Niết-bàn. Tà định dẫn đến đường Nê-lê, chánh định hướng đến Niết-bàn.

Này các Tỳ-kheo! Ðó là đường dẫn đến Nê-lê, đường hướng đến Niết-bàn. Pháp mà chư Phật Thế Tôn thường nói, nay đã rốt ráo. Các Thầy nên ở chỗ vắng vẻ, ngồi dưới gốc cây, nơi đồng trống, nghĩ nhớ làm pháp lành, đừng khởi tâm giải đãi, kiêu mạn. Hôm nay không siêng năng, sau hối không kịp.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Phi thời, Nê-lê, Ðạo
Tu-la, Trời, Ðất động
Tám điều niệm đại nhơn chúng
Thiện nam tử thọ, Ðạo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33332)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6574)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11322)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30426)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30454)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8005)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12233)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12275)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11634)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12872)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34832)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9863)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52291)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10773)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10544)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10740)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10488)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13103)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16311)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21883)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9643)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7145)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10407)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12793)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12818)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16259)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16556)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13890)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16620)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12153)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13862)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14347)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9230)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11771)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11295)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16364)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14377)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16219)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12707)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12107)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11815)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15693)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11538)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14039)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12030)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12686)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15014)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11981)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13151)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14578)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20752)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13253)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10986)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20741)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14387)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20419)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17682)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14046)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31876)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12035)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant