Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

36. Phẩm Thính pháp

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10218)
36. Phẩm Thính pháp

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 2

XXXVI. Phẩm Thính pháp (Dhammasavana)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Tùy thời nghe pháp có năm công đức. Tùy thời lãnh thọ chẳng mất thứ lớp. Thế nào là năm? Ðiều chưa từng nghe sẽ được nghe; điều đã được nghe, đọc tụng lần nữa; cái thấy không bị tà, lệch; không có hồ nghi; liền hiểu nghĩa thậm thâm.

Tùy thời nghe pháp có năm công đức. Thế nên các Tỳ-kheo nên tìm phương tiện tùy thời nghe pháp. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Tạo phòng tắm có năm công đức. Thế nào là năm? Trừ phong, bịnh được lành, trừ bỏ cáu bẩn, thân thể nhẹ nhàng, được mập trắng.

Ðó là, này Tỳ-kheo! Tạo nhà tắm có năm công đức này. Thế nên các Tỳ-kheo, nếu có bốn bộ chúng muốn cầu năm công đức này, nên tìm phương tiện tạo lập phòng tắm. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Bố thí tăm xỉa răng cho người có năm công đức. Thế nào là năm? Trừ phong, trừ nước miếng, sanh tạng được tiêu, trong miệng không hôi, mắt được trong sạch.

Ðó là, này Tỳ-kheo! Cho người tăm xỉa răng có năm công đức. Nếu Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn nào cầu năm công đức này, nên nhớ đem tăm xỉa răng bố thí. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy có thấy người giết trâu do tạo nghiệp này mà sau được cỡi xe, ngựa, voi lớn chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

- Thưa không, Thế Tôn!

Thế Tôn bảo:

- Lành thay! Các Tỳ-kheo! Ta cũng chẳng thấy, chẳng nghe người mổ giết hại trâu, rồi lại được cỡi xe, ngựa, voi lớn. Sở dĩ như thế vì Ta cũng chẳng thấy người mổ trâu được cỡi xe, ngựa, voi lớn, trọn không có lý này. Thế nào, Tỳ-kheo! Các Thầy có thấy người giết dê, giết heo, người săn bắn nai, những người như thế tạo việc ác này rồi được có tài sản, sau được cỡi xe, ngựa, voi lớn chăng?

Các Tỳ-kheo đáp:

- Thưa không, Thế Tôn!

Thế Tôn bảo:

- Lành thay! Các Tỳ-kheo! Ta cũng chẳng thấy, chẳng nghe người giết dê, sát hại các sinh vật, rồi được cỡi xe, ngựa, voi lớn, trọn không có lý này. Tỳ-kheo các Thầy! Nếu thấy người giết trâu cỡi xe, ngựa, đây là phước đời trước chẳng phải phước đời này, đều là việc làm cũ của đời trước đưa đến. Các Thầy nếu thấy người giết dê được cỡi xe, ngựa, nên biết người này gieo trồng phước cũ ở đời trước. Vì sao thế? Vì tâm sát chẳng trừ. Vì cớ sao? Nếu có người gần gũi người ác, ưa thích sát sanh, gieo trồng tội địa ngục thì nếu trở lại làm người, thọ mạng sẽ rất ngắn. Nếu lại có người ưa thích trộm cắp, gieo trồng tội địa ngục thì cũng như người mổ trâu kia, mua rẻ bán đắt, dối gạt người đời, chẳng theo Chánh pháp. Người giết trâu cũng lại như thế, do tâm sát nên gây tội lỗi này; chẳng được cỡi xe, ngựa, voi lớn. Thế nên các Tỳ-kheo nên khởi tâm từ đối với tất cả chúng sanh. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn cùng chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội. Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân, như trong khoảng co duỗi cánh tay, đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên. Thích-đề-hoàn-nhân bạch Thế Tôn:

- Như Lai cũng nói, phàm Như Lai ra đời ắt sẽ vì năm việc. Thế nào là năm? Sẽ chuyển Pháp luân; sẽ độ cha mẹ; người không tin, lập lòng tin; người chưa phát tâm Bồ-tát khiến phát tâm Bồ-tát; ở trong ấy sẽ truyền trao Phật quyết. Như Lai xuất hiện sẽ vì năm nhân duyên này. Nay Phật mẫucõi trời Ba mươi ba muốn được nghe pháp. Nay Như Lai ở trong Diêm-phù-đề, bốn bộ chúng vây quanh, Quốc vương, nhân dân đều tụ hội. Lành thay! Thế Tôn nên đến trời Ba mươi ba thuyết pháp cho mẹ.

Khi ấy, Thế Tôn làm thinh nhận lời. Long vương Nan-đà, Ưu-bàn-nan-đà liền nghĩ: 'Các Sa-môn trọc đầu này, bay ở trên ta, nên tìm phương tiện cho họ không di chuyển được'.

Khi ấy, Long-vương nổi giận phóng gió lửa lớn khiến trong cõi Diêm-phù-đề lửa cháy hừng hực. Khi ấy A-nan bạch Phật:

- Trong Diêm-phù-đề này, vì sao có lửa khói này?

Thế Tôn bảo:

- Ðây là hai Long-vương nghĩ rằng: 'Sa-môn trọc đầu thường bay ở trên ta, chúng ta nên khống chế họ đừng cho lấn chiếm hư không'; rồi nổi giận phóng lửa khói này. Do nhân duyên này nên có sự biến hiện ấy.

Khi ấy Ðại-ca-diếp liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Thế Tôn:

- Nay con muốn đến đánh nhau với họ.

Thế Tôn bảo:

- Hai Long vương này rất là hung ác, khó thể chịu giáo hóa. Thầy về chỗ ngồi đi.

Tôn giả A-na-luật liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Thế Tôn:

- Nay con muốn đến hàng phục rồng dữ kia.

Thế Tôn bảo:

- Hai rồng dữ này rất là hung bạo, khó thể chịu giáo hóa. Thầy trở về chỗ ngồi đi.

Tôn giả Ly-việt, Tôn giả Ca-chiên-diên, Tôn giả Tu-bồ-đề, Tôn giả Ưu-đà-di, Tôn giả Ba-kiệt (Sa-kiệt) mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Thế Tôn:

- Nay con muốn đến hàng phục rồng dữ.

Thế Tôn bảo:

- Hai Long vương này rất là hung ác, khó thể chịu giáo hóa. Thầy về chỗ đi.

Bấy giờ, Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên từ chỗ ngồi đứng dậy, bày lộ vai phải, quỳ gối chắp tay bạch Phật:

- Con muốn đến đó hàng phục rồng dữ.

Thế Tôn bảo:

- Hai Long vương này rất là hung ác, khó thể chịu giáo hóa, nay Thầy làm sao cảm hóa Long vương kia?

Mục-liên bạch Phật:

- Trước tiên con đến đó hóa hình hết sức lớn làm rồng kia khủng khiếp. Sau đó con lại hóa hình hết sức nhỏ rồi mới dùng phép tắc thường mà hàng phục.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay Mục-liên! Nay Thầy đủ sức hàng phục rồng dữ. Nhưng này Mục-liên! Kiên trì tâm ý chớ khởi loạn tưởng. Vì sao thế? Rồng kia hung ác, đủ xúc nhiễu Thầy.

Mục-liên liền lễ chân Phật, trong khoảng co duỗi cánh tay biến mất; đến trên núi Tu-di. Bấy giờ Long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà lượn quanh núi Tu-di bảy vòng, cực kỳ sân giận phun khói lửa lớn. Khi ấy Mục-liên tự ẩn mình, hóa làm Ðại Long vương có mười bốn đầu, lượn quanh núi Tu-di mười bốn vòng, phun khói lửa mạnh, trụ ở ngay trên hai Long vương.

Bấy giờ Long vương Nan-đà, Ưu-bàn-nan-đà thấy Ðại Long vương có mười bốn đầu liền sanh lòng sợ hãi, nói với nhau:

- Hôm nay chúng ta nên thử oai lực của Long vương này, xét xem có thắng ta hay không?

Long vương Nan-đà, Ưu-bàn-nan-đà lấy đuôi quậy trong biển lớn, lấy nước rảy khắp trời Tam thập tam cũng không trúng nhằm thân Mục-liên. Khi ấy Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên lại lấy đuôi quậy trong nước biển lớn, nước bèn lên đến trời Phạm-ca-di và lại tưới trên thân hai Long vương. Hai Long vương nói với nhau:

- Chúng ta dùng hết thế lực, lấy nước tưới trời Ba mươi ba mà Ðại Long vương này lại hơn quá chúng ta. Chúng ta chính có bảy đầu, nay Long vương này mười bốn đầu. Chúng ta nhiễu núi Tu-di bảy vòng, nay Long vương này nhiễu núi Tu-di mười bốn vòng. Nay hai Long vương mình nên chung sức chiến đấu với hắn.

Khi ấy hai Long vương hết sức giận dữ nổi sấm chớp sét rền, phun lửa rực lớn. Tôn giả Mục-liên liền nghĩ: 'Phàm rồng chiến đấu dùng lửa sấm sét, nếu ta dùng lửa sấm sét chiến đấu thì nhân dân trong cõi Diêm-phù-đề và trời Ba mươi ba đều sẽ bị hại. Nay ta hóa hình cực nhỏ để chiến đấu'.

Mục-liên liền hóa hình nhỏ xíu, chui vào miệng rồng rồi chun ra lỗ mũi, hoặc vào lỗ mũi rồi chui ra lỗ tai, hoặc vào lỗ tai rồi chui ra con mắt, đã ra khỏi mắt lại đi trên lông mi.

Khi đó hai Long vương hết sức sợ hãi, liền nghĩ rằng:

- Ðại Long vương này rất có oai lực, có thể vào miệng ra mũi, vào mũi ra mắt. Hôm nay chúng ta thật chẳng bằng. Loài rồng chúng ta nay có bốn loại: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, nhưng không ai vượt qua nổi chúng ta. Nay long vương này uy lực như thế, chẳng thể đánh nhau nổi. Tánh mạng chúng ta chết trong chốc lát.

Cả hai sợ hãi, áo lông dựng đứng. Mục-liên đã thấy Long vương sanh lòng sợ hãi, lại ẩn hình, trở lại hình dung bình thường đi trên mí mắt rồng. Khi ấy hai Long vương thấy Ðại Mục liên, tự nói với nhau:

-Ðây là Sa-môn Mục-liên, cũng chẳng phải Long vương. Thật là kỳ lạ ! Vị này có đại oai lực, có thể đánh nhau với ta !

Bấy giờ hai Long vương bạch Mục-liên rằng:

-Tôn giả sao lại xúc nhiễu ta như thế ? Muốn răn dạy điều gì ?

Mục-liên bảo:

-Các Ông hôm qua nghĩ rằng: ' Làm sao mà Sa-môn trọc đầu lại bay trên ta. Nay ta sẽ chế ngự' phải không ?

Long vương đáp:

- Ðúng thế, Mục-liên !

Mục-liên bảo:

-Long vương nên biết ! Núi Tu-di này là đường đi của chư thiên, chẳng phải chỗ ở của Ông. 

Long vương thưa:

- Cúi mong tha thứ, chúng con chẳng biết tội nặng, từ nay về sau sẽ không dám xúc nhiễu, nổi loạn tưởng ác. Cúi mong nhận chúng con làm đệ tử.

Mục-liên đáp:

- Các ông chớ quy y ta. Nơi ta quy y, các Ông hãy quy y.

Long vương bạch Mục-liên:

-Các Ông không thể ở núi Tu-di này mà quy y Thế Tôn. Nay nên cùng ta đến thành Xá-vệ mới quy y được.

Mục-liên dẫn hai Long vương, như trong khoảng co duỗi cánh tay, từ trên núi Tu-di đến thành Xá-vệ. Bấy giờ Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số chúng. Mục-liên bảo hai vua rồng:

- Các Ông nên biết. Hôm nay Thế Tôn thuyết pháp cho vô số chúng, các Ông không thể để thân hình này mà đến chỗ Phật.

Long vương bảo:

- Ðúng vậy, Mục-liên !

Long vương liền ẩn hình rồng, hóa hình thành người không cao, không thấp, dung mạo đoan chánh như màu hoa đào. Mục-liên đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên. Khi ấy Mục-liên bảo Long vương:

- Nay chính là lúc nên tiến đến !

Long vương nghe Mục-liên nói, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ xuống chấp tay, bạch Thế Tôn:

- Hai chúng con, một tên là Nan-đà, hai là Ưu-bàn-nan-đà xin quy y Như Lai, thọ trì ngũ giới. Cúi mong Thế Tôn cho phép chúng con làm Ưu-bà-tắc, trọn đời không sát sanh nữa.

Thế Tôn búng ngón tay chấp nhận. Hai Long vương trở về chỗ muốn được nghe pháp.

Lúc ấy, vua Ba-tư-nặc liền nghĩ: 'Có nhân duyên gì khiến trong cõi Diêm-phù-đề khói lửa như thế?'. Vua Ba-tư-nặc liền cỡi xe kiệu ra khỏi thành Xá-vệ đến chỗ Thế Tôn. Khi ấy, nhân dân từ xa thấy vua đến, đều cùng đứng dậy tiếp đón:

- Kính chào Ðại vương, hãy đến đây ngồi.

Hai Long vương làm thinh chẳng đứng lên. Vua Ba-tư-nặc cúi lạy Thế Tôn rồi ngồi một bên. Khi ấy Ðại vương bạch Thế Tôn:

- Nay con muốn hỏi. Cúi mong Thế Tôn diễn bày từng việc cho.

Thế Tôn bảo:

- Muốn hỏi gì, nay chính phải lúc.

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

- Có nhân duyên gì khiến trong cõi Diêm-phù-đề này khói lửa đến thế?

Thế Tôn bảo:

- Do Long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà tạo nên. Nhưng Ðại vương chớ sợ hãi, ngày nay không còn biến ra khói lửa nữa.

Vua Ba-tư-nặc liền nghĩ: 'Nay ta là Ðại vương của nước. Nhân dân sùng kính, danh vang bốn phương. Hai người này từ đâu tới, thấy ta đến cũng không đứng dậy đón rước? Nếu ở trong nước ta, ta sẽ bắt giam, nếu ở nước khác đến ta sẽ giết chết'.

Khi ấy Long vương biết tâm vua Ba-tư-nặc nghĩ như thế liền tức giận. Long vương liền nghĩ: 'Chúng ta chẳng có lỗi gì với vua này, thế mà vua này muốn hại ngược lại ta. Cần phải đem Quốc vương và dân nước Ca-di giết hết'.

Long vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy Thế Tôn rồi đi; lìa Kỳ Hoàn chẳng xa thì biến mất. Vua Ba-tư-nặc thấy người này đi, chưa bao lâu bạch Thế Tôn:

- Quốc sự bận rộn, con muốn về cung.

Thế Tôn bảo:

- Nên biết phải thời!

Vua Ba-tư-nặc từ chỗ ngồi đứng lên lui đi; bảo quần thần:

- Hai người vừa rồi đi theo đường nào? Mau bắt lấy!

Quần thần nghe vua ra lệnh liền đuổi theo tìm mà chẳng biết chỗ, liền trở về cung.

Khi đó Long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà, mỗi người nghĩ rằng: 'Chúng ta không có lỗi với vua đó, vừa rồi vua đó lại muốn bắt chúng ta để hại. Chúng ta nên làm hại hết nhân dân của ông ta không sót một ai'.

Khi ấy Long vương lại nghĩ rằng: 'Nhân dân trong nước có tội lỗi gì? Nên bắt nhân dân trong thành Xá-vệ hại đi'. Rồi lại nghĩ nữa: 'Dân nước Xá-vệ có lỗi gì với chúng ta. Nên đem các quan lại thuộc hạ trong Vương cung giết sạch'.

Bấy giờ Thế Tôn đã biết trong lòng Long vương nghĩ gì, liền bảo Tôn giả Mục-liên: 

- Nay Thầy nên cứu vua Ba-tư-nặc, chớ để cho Long vương Nan-đà và Ưu-bàn-nan-đà làm hại.

Mục-liên đáp:

- Xin vâng, Thế Tôn!

Mục-liên vâng lời Phật dạy, cúi lạy rồi lui đi, ở trên Vương cung ngồi kiết-già, chẳng hiện thân. Hai Long vương kéo sấm sét vang rền, gió mưa dồn dập trên Vương cung. Hoặc mưa ngói đá, hoặc mưa đao kiếm, chưa rơi xuống đất đã thành hoa sen Ưu-bát trong hư không. Khi ấy Long vương càng thêm giận dữ, mưa ra núi cao lớn ở trên cung điện, Mục-liên lại hóa thành các thức ăn uống. Khi ấy Long vương nổi giận đùng đùng, mưa các đao kiếm, Mục-liên lại khiến biến thành y phục thật đẹp. Long vương càng giận dữ, mưa cát đá lửa trên cung Ba-tư-nặc, cát đá chưa rớt xuống đất lại hóa thành bảy báu. Vua Ba-tư-nặc thấy trong cung điện mưa các thứ bảy báu, vui mừng hớn hở không thể tự kềm, liền nghĩ: 'Trong cõi Diêm-phù-đề, người có đức không ai hơn ta, chỉ trừ Như Lai. Vì sao thế? Trong nhà ta, trên một gốc lúa thu thập được mười đấu lúa; nấu cơm với nước mía hết sức thơm ngon. Nay lại ở trên cung điện mưa bảy báu. Ta có lẽ được làm Chuyển luân Thánh vương ư?

Vua Ba-tư-nặc ra lệnh các thể nữ thu lượm bảy báu. Khi ấy hai Long vương bảo nhau:

- Hôm nay sắp có ý gì? Chúng ta lúc đến muốn hại vua Ba-tư-nặc, nay biến hóa ra thế. Bao nhiêu thế lực hôm nay hiện hết còn chẳng động đến vua Ba-tư-nặc được mảy may.

Khi ấy Long vương thấy Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên ở trên cung điện ngồi kiết-già, chính thân chính ý, thân không xiêu vẹo. Thấy rồi liền nghĩ: 'Ðây chắc là do ngài Mục-liên làm'.

Hai Long vương thấy Mục-liên rồi liền lui đi. Mục-liên thấy Long vương đi liền xả thần túc, về chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Khi đó vua Ba-tư-nặc liền nghĩ rằng: 'Nay các thức ăn uống này chẳng nên ăn trước. Nên trước hết dâng lên Như Lai rồi sau mới đến mình'.

Vua Ba-tư-nặc lấy xe chở trân bảo và các thức ăn uống đến chỗ Thế Tôn rồi bạch:

- Hôm qua trời mưa bảy báu và các thức ăn uống này. Cúi mong Thế Tôn nạp thọ.

Bấy giờ Ðại Mục-kiền-liên cách Thế Tôn chẳng xa. Phật bảo vua rằng:

- Nay Ðại vương nên đem thức ăn uống và bảy báu cúng cho Ðại Mục-liên. Vì sao thế? Nhờ ơn Mục-liên mà Ðại vương được sống lại trên đất Thánh hiền.

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

- Có nhân duyên gì mà nói là con sống lại?

Thế Tôn bảo:

- Khi sớm chẳng phải vua đến chỗ Ta định nghe pháp đó sao? Lúc ấy có hai người cũng đến nghe pháp. Vua sanh niệm này: 'Ta ở nước này là bậc hào quý đệ nhất, được mọi người kính nể. Nhưng hai người này từ đâu tới, thấy ta chẳng đứng dậy tiếp đón'.

Vua bạch Phật:

- Thực vậy Thế Tôn!

Thế Tôn bảo:

- Ðây chẳng phải là người mà là Long vương Nan-đà, Ưu-bàn-nan-đà. Họ biết ý vua nên nói với nhau rằng: 'Chúng ta không có lỗi đối với nhân vương này, cớ sao ngược lại muốn hại ta? Cần nên tìm cách diệt nước này'. Ta biết được ý của Long vương bèn sai Mục-liên: 'Nay nên cứu vua Ba-tư-nặc, chẳng để bị rồng hại'. Thầy ấy vâng lời Ta dạy, ở trên cung điện ẩn hình chẳng hiện, tạo sự biến hóa này. Khi ấy Long vương hết sức giận dữ, mưa cát, ngói, đá ở trên cung điện, lúc chưa rơi xuống đất đã hóa thành các thứ ẩm thực, y phục, bảy báu. Do nhân duyên này, hôm nay Ðại vương coi như sống lại.

Khi ấy, vua Ba-tư-nặc kinh sợ, lông áo dựng đứng, quỳ gối đi đến trước Như Laibạch Phật:

- Cúi mong Thế Tôn, rũ ơn thâm hậu, cứu giúp sinh mạng của con.

Vua lại dạy Tôn giả Mục-liên, cung kính:

- Mong nhờ ơn của Tôn giả được cứu mạng sống.

Bấy giờ Quốc vương liền nói kệ:

Chí Tôn thọ vô cùng,
Luôn luôn hộ mạng con,
Ðộ thoát khổ nguy cùng,
Nhờ Ngài được thoát nạn.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc dùng hương hoa trời rải trên thân Như Lai và nói:

- Nay con đem bảy báu này dâng lên Tam bảo. Cúi mong thâu nhận.

Vua cúi lạy, nhiễu Phật ba vòng rồi lui đi. Khi ấy Thế Tôn liền nghĩ rằng: 'Bốn bộ chúng này có nhiều giải đãi, đều chẳng nghe pháp, cũng không cầu phương tiện thân chứng, cũng lại không cầu điều chưa được khiến được, điều chưa đắc khiến đắc. Nay Ta nên làm cho bốn bộ chúng khát ngưỡng pháp'.

Bấy giờ Thế Tôn chẳng báo cho bốn bộ chúng, cũng chẳng đem thị giả, như trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay biến mất khỏi Kỳ Hoàn, đến cõi trời Tam thập tam. Khi ấy Thích-đề-hoàn-nhân xa thấy Thế Tôn đến, liền dẫn Thiên chúng đến trước rước Thế Tôn, cúi lạy và thỉnh đến tòa ngồi, cùng nói rằng:

- Kính chào Thế Tôn! Ly biệt đã lâu không đến thăm.

Khi ấy Thế Tôn tự nghĩ: 'Nay Ta sẽ dùng sức thần túc tự ẩn hình khiến mọi người không thấy Ta ở đâu'.

Bấy giờ Thế Tôn lại nghĩ: 'Nay Ta ở cõi trời Tam thập tam hóa thân hết sức to lớn'.

Khi ấy giảng đường Thiện Pháp trên trời có tảng đá vàng to rộng một do-tuần, Thế Tôn ngồi kiết-già khắp kín trên đá. Bà Ma-gia, dẫn các Thiên nữ đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên và nói rằng:

- Không phụng sự Ngài quá lâu, nay Ngài đến đây thực là đại hạnh; mong mỏi nhớ nghĩ gặp Phật, hôm nay Phật mới đến.

Khi ấy bà Ma-gia cúi lạy rồi ngồi một bên. Thích-đề-hoàn-nhân cũng lạy Như Lai rồi ngồi một bên. Lúc đó, chúng của chư Thiên thấy Như Lai, ở đó tăng thêm Thiên chúng, giảm bớt chúng A-tu-la. Bấy giờ Thế Tôn dần dần thuyết diệu luận cho chúng chư Thiên kia. Những luận về thí luận, giới luận, luận sanh thiên; dục là tưởng bất tịnh; dâm là uế ác; xuất yếu là vui.

Bấy giờ Thế Tôn đã thấy các chúng đến nghe, và chư Thiên tâm ý khai mở. Pháp chư Phật Thế Tôn thường thuyết: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo; Ngài đều thuyết hết cho chư Thiên. Mọi người đều ở tại tòa, các trần cấu hết, được pháp nhãn thanh tịnh. Lại có mười tám ức Thiên nữ thấy đạo tích; ba vạn sáu ngàn Thiên chúng được pháp nhãn tịnh. Khi ấy bà Ma-gia liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy rồi trở về cung. Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:

- Nay con nên dùng thức ăn gì để dọn cho Như Lai? Dùng thức ăn của nhân gian hay dùng thức ăn tự nhiên của Trời?

Thế Tôn bảo:

- Nên dùng thức ăn của nhân gian dọn cho Như Lai.Vì sao vậy? Thân Ta sanh ở nhân gian, lớn lên ở nhân gian, thành Phậtnhân gian.

Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:

- Xin vâng Thế Tôn!

Thích-đề-hoàn-nhân lại bạch Phật:

- Dùng thời tiết trên trời hay dùng thời tiết nhân gian?

Thế Tôn bảo:

- Dùng thời tiết nhân gian.

- Xin vâng, Thế Tôn.

Khi ấy Thích-đề-hoàn-nhân liền lấy thức ăn của nhân gian, lại dùng thời tiết nhân gian dọn ăn cho Như Lai.

Bấy giờ Trời Tam thập tam bảo nhau rằng:

- Nay chúng ta thấy Như Lai trọn ngày ăn cơm.

Thế Tôn liền nghĩ: 'Nay Ta nên nhập Như thị tam-muội muốn khiến chư Thiên đến thì đến, muốn cho chư Thiên lui thì lui'. Khi ấy, Thế Tôn nhập vào tam-muội này làm chư Thiên đến lui tùy thời.

Bốn bộ chúngnhân gian đã lâu không thấy Như Lai, đi đến chỗ Tôn giả A-nan bạch:

- Như Lai nay ở đâu? Chúng con mong mỏi được thấy.

Tôn giả A-nan đáp:

- Chúng tôi cũng chẳng biết Như Lai ở đâu.

Khi ấy vua Ba-tư-nặc, vua Ưu-điền đến chỗ A-nan, hỏi A-nan rằng:

- Hôm nay Như Lai ở đâu?

Tôn giả A-nan đáp:

- Ðại vương! Tôi cũng chẳng biết chỗ Như Lai ở.

Hai vua nhớ mong, muốn gặp Như Lai bèn đau khổ. Bấy giờ quần thần đến chỗ vua Ưu-điền, tâu vua rằng:

- Nay bị bịnh gì?

Vua đáp:

- Nay ta vì sầu lo thành bệnh.

Quần thần tâu vua:

- Vì sao mà sầu lo thành bệnh?

Vua đáp:

- Do chẳng thấy Như Lai, nếu ta không thấy Như Lai, ta sẽ chết mất!

Quần thần liền nghĩ: 'Phải dùng cách gì cho vua Ưu-điền không mạng chung. Chúng ta nên làm hình tượng Như Lai.

Quần thần tâu vua:

- Chúng tôi muốn làm hình tượng, cũng có thể cung kính, thừa sự, lễ bái.

Vua nghe xong, vui mừng hớn hở không dừng được, bảo quần thần:

- Lành thay! Các Khanh nói rất hay!

Quần thần tâu vua nên lấy báu gì làm hình tượng Như Lai. Vua liền ra lệnh các thầy thợ kỹ xảo trong nước rằng:

- Nay ta muốn làm hình tượng.

Thợ khéo đáp:

- Xin vâng, Ðại vương!

Vua Ưu-điền liền lấy Ngưu-đầu Chiên-đàn làm hình tượng Như Lai cao năm thước.

Vua Ba-tư-nặc nghe vua Ưu-điền làm hình tượng Phật cao năm thước để cúng dường. Vua Ba-tư-nặc liền mời thợ khéo trong nước mà bảo:

- Nay ta muốn làm hình tượng Như Lai. Các người phải làm cho xong ngay!

Vua Ba-tư-nặc nghĩ: 'Nên dùng báu gì làm hình tượng Như Lai?' Chốc lát lại nghĩ: 'Hình thể Như Lai vàng như thiên kim, nên lấy vàng làm hình tượng Như Lai'.

Vua Ba-tư-nặc, lấy toàn vàng tử-ma làm tượng Như Lai cao năm thước. Bấy giờ cõi Diêm-phù-đề mới có hai hình tượng Như Lai này. Khi ấy bốn bộ chúng đến chỗ Tôn giả A-nan bạch:

- Chúng tôi khát ngưỡng Như Lai, nhớ muốn thăm viếng Ngài. Nay Như Lai ở đâu?

A-nan đáp:

- Chúng tôi cũng chẳng biết chỗ Như Lai ở. Nhưng nay hãy cùng đến chỗ A-na-luật mà hỏi nghĩa này. Vì sao vậy? Tôn giả A-na-luật thiên nhãn đệ nhất, thanh tịnh không vết nhơ. Tôn giả dùng thiên nhãn thấy một ngàn thế giới, hai ngàn thế giới, ba ngàn đại thiên thế giới. Tôn giả có thể thấy biết.

Bốn bộ chúng cùng A-nan đến chỗ Tôn giả A-na-luật, bạch A-na-luật:

- Nay bốn bộ chúng này đến chỗ tôi hỏi:

'Hôm nay Thế Tôn ở đâu?'. Cúi mong Tôn giả dùng thiên nhãn xem Như Lai ở chỗ nào?

Tôn giả A-na-luật bảo:

- Các Ông hãy chờ. Nay tôi muốn xem Như Lai trọn ở chỗ nào?

Khi ấy, A-na-luật chánh thân, chánh ý, buộc niệm ở trước, dùng thiên nhãn xem trong cõi Diêm-phù-đề mà chẳng thấy. Tôn giả lại dùng thiên nhãn xem Cù-da-ni, Phật-vu-đại, Uất-đơn-việt mà chẳng thấy; lại xem trời Tứ thiên vương, trời Tam thập tam, Diệm thiên, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại, cho đến xem Phạm thiên mà chẳng thấy đâu; lại xem ngàn Diêm-phù-đề, ngàn Cù-da-ni, ngàn Uất-đơn-việt, ngàn Phất-vu-đãi, ngàn Tứ thiên vương, ngàn Diệm thiên, ngàn trời Ðâu-suất, ngàn trời Hóa tự tại, ngàn trời Tha hóa tự tại, ngàn Phạm thiên mà chẳng thấy Như Lai; lại xem ba ngàn đại thiên cõi nước mà chẳng thấy.

Tôn giả A-na-luật liền từ tòa đứng dậy, nói với Tôn giả A-nan:

- Nay tôi đã xem ba ngàn đại thiên cõi nước mà không thấy.

Bấy giờ A-nan và bốn bộ chúng đứng lặng thinh. A-nan nghĩ: 'Như Lai sẽ không nhập Niết-bàn chứ?'.

Khi đó, Trời Tam thập tam mỗi người tự bảo nhau:

- Chúng ta mừng được lợi lành. Cúi mong bảy Phật thường hiện ở đời. Trời và Người đời được nhiều lợi ích.

Hoặc có vị Trời bảo rằng:

- Hãy gác bảy Phật, chỉ cho có sáu Phật cũng rất tốt.

Hoặc có vị Trời nói:

- Chỉ cho có năm Phật.

Hoặc chư vị nói bốn Phật, hoặc nói ba Phật, hoặc nói hai Phật xuất hiện ở đời, có nhiều lợi ích.

Thích-đề-hoàn-nhân bảo chư Thiên:

- Hãy gác bảy Phật cho đến hai Phật. Chỉ khiến ngày nay Phật Thích-ca-văn trụ lâu ở đời, thì được nhiều lợi ích.

Bấy giờ ý Như Lai muốn chư Thiên đến, chư Thiên liền đến, ý muốn cho chư Thiên đi, chư Thiên liền đi. Lúc ấy, Trời Tam thập tam bảo nhau:

- Như Lai cớ sao trọn ngày một lần ăn?

Thích-đề-hoàn-nhân bảo Trời Tam thập tam:

- Nay Như Lai ăn theo thời tiết của nhân gian, chẳng dùng thời tiết trên trời.

Thế Tôn trải qua ba tháng, liền nghĩ: 'Người trong bốn bộ chúng ở Diêm-phù-đề chẳng thấy Ta đã lâu, có lòng rất mong. Nay Ta nên bỏ thần túc khiến các Thanh văn biết Như Lai ở trời Tam thập tam'.

Khi ấy Thế Tôn liền xả thần túc. Tôn giả A-nan đến chỗ Tôn giả A-na-luật mà thưa rằng:

- Nay bốn bộ chúng rất khát ngưỡng mong thấy Như Lai. Nhưng nay Như Lai không phải diệt độ chứ?

A-na-luật bảo A-nan:

- Ðêm qua có vị Trời đến chỗ tôi nói rằng: Như Laigiảng đường Thiện Pháp cõi trời Tam thập tam. Nay Thầy hãy chờ. Tôi muốn xem chỗ Như Lai ở.

Tôn giả A-na-luật liền ngồi kiết-già, chính thân chính ý, tâm không di động, dùng thiên nhãn xem trời Tam thập tam, thấy Thế Tôn ngồi trên tảng đá vuông vắn một do-tuần. Khi ấy A-na-luật từ tam-muội dậy bảo A-nan:

- Nay Như Lai ở trời Tam thập tam thuyết pháp cho mẹ.

Tôn giả A-nan và bốn bộ chúng hoan hỉ hớn hở không thể kềm được. A-nan hỏi bốn bộ chúng:

- Ai có thể đảm nhận đến trời Tam thập tam thăm hỏi Như Lai?

Tôn giả A-na-luật nói:

- Nay Tôn giả Mục-liên, thần túc đệ nhất, mong dùng sức thần đến thăm hỏi Như Lai.

Khi ấy bốn bộ chúng bạch Tôn giả Mục-liên:

- Hôm nay Như Laicõi trời Tam thập tam. Cúi mong Tôn giả đem danh tánh bốn chúng thăm hỏi Như Lai, lại đem nghĩa này đến bạch Như Lai: 'Thế Tôn ở tại Diêm-phù-đề, nơi thế gian đắc đạo. Mong rũ oai thần trở về thế gian'.

Mục-liên bảo:

- Rất tốt, chư Hiền!

Mục-liên nhận lời bốn bộ chúng, trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay lên đến trời Tam thập tam, tới chỗ Như Lai. Thích-đề-hoàn-nhân và Trời Tam thập tam xa thấy Mục-liên đến. Chư Thiên mỗi người nghĩ: 'Ðây chắc là sứ giả của Tăng, cũng như sứ giả của các vua'. Bấy giờ chư Thiên đều đứng lên, đến đón.

- Kính chào Tôn giả!

Tôn giả Mục-liên xa thấy Thế Tôn thuyết pháp cho vô số chúng; thấy rồi nghĩ rằng: 'Thế Tôn ở trong cõi trời này cũng lại phiền phức, ồn ào'. Mục-liên đến chỗ Thế Tôn cúi lạy, đứng một bên. Bấy giờ Mục-liên bạch Phật:

- Thế Tôn! Chúng bốn bộ thăm hỏi Như Lai được mạnh khỏe, nhẹ nhàng thư thái.

Tôn giả bạch việc này:

- Như Lai sanh trưởng trong Diêm-phù-đề, ở thế gian đắc đạo. Cúi mong Thế Tôn trở lại thế gian. Bốn bộ chúng khao khát muốn gặp Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

- Chúc bốn bộ chúng tiến tu đạo nghiệp, không có mệt mỏi. Thế nào Mục-liên! Bốn bộ chúng du hóa mệt chăng? Không tranh tụng chăng? Ngoại đạo dị học không xúc nhiễu chăng?

Mục-liên đáp:

- Bốn bộ chúng hành đạo không mỏi mệt.

- Nhưng này Mục-liên! Vừa rồi Thầy nghĩ rằng Như Lai ở đây cũng phiền não. Việc này chẳng đúng. Vì sao thế? Thời thuyết pháp của Ta không lâu, nếu Ta nghĩ rằng muốn khiến chư Thiên đến, họ liền đến; muốn khiến chư Thiên chẳng đến, họ liền chẳng đến. Mục-liên! Thầy trở về thế gian, sau bảy ngày nữa, Như Lai sẽ đến nước Tăng-ca-thi bên ao nước lớn.

Lúc ấy, Mục-liên trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay trở về thành Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc, đến bốn bộ chúng mà nói rằng:

- Chư Hiền nên biết! Sau bảy ngày Như Lai sẽ xuống cõi Diêm-phù-đề bên ao nước lớn Tăng-ca-thi.

Bấy giờ bốn bộ chúng nghe xong vui mừng hớn hở không thể tự kềm. Vua Ba-tư-nặc, vua Ưu-điền, vua Ác-sanh, vua Ư-đà-diên, vua Tần-bà-sa-la nghe Như Lai sau bảy ngày sẽ đến bên ao nước lớn Tăng-ca-thi, hết sức vui mừng không thể kềm được. Khi ấy dân chúng Tỳ-xá-ly, họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ, dân chúng Câu-di-la-việt nghe Như Lai sẽ đến đất Diêm-phù-đề, vui mừng hớn hở không thể kềm được. Bấy giờ vua Ba-tư-nặc tập họp bốn bộ binh đến bên ao nước muốn gặp Thế Tôn. Năm vua đều tập họp binh lính đến chỗ Thế Tôn muốn được thăm viếng Như Lai. Dân chúng họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ đều đến chỗ Thế Tôn. Và bốn bộ chúng đều đến chỗ Thế Tôn, muốn gặp Như Lai.

Ðúng bảy ngày, Thích-đề-hoàn-nhân bảo Thiên tử Tự Tại:

- Nay Ông từ đỉnh núi Tu-di đến ao nước Tăng-ca-thi làm ba con đường, xem Như Lai chẳng dùng thần túc đến đất Diêm-phù.

Thiên tử Tự Tại đáp:

- Việc này rất hay. Ðúng lúc ấy sẽ làm xong.

Bấy giờ Thiên tử Tự Tại liền hóa ra ba con đường bằng vàng, bạc, thủy tinh. Con đường vàng ở giữa, đường bạc một bên, đường thủy tinh một bên, hóa làm cây vàng. Ngay lúc ấy, chư thần diệu tôn thiên, trong bảy ngày đều đến nghe pháp. Khi ấy Thế Tôn thuyết pháp cho mấy ngàn vạn chúng vây quanh trước sau, thuyết năm thạnh ấm khổ. Thế nào là năm? Nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Thế nào là sắc ấm? Nghĩa là thân tứ đại, là tứ đại tạo sắc, gọi là sắc ấm.

Thế nào gọi là thọ ấm? Nghĩa là khổ thọ, lạc thọ, bất khổ, bất lạc thọ; gọi là thọ ấm.

Sao gọi là tưởng ấm? Nghĩa là ba đời cùng hội; gọi là tưởng ấm.

Sao gọi là hành ấm? Nghĩa là thân hành, khẩu hành, ý hành; gọi là hành ấm.

Sao gọi là thức ấm? Nghĩa là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức; gọi là thức ấm.

Thế nào gọi là sắc? Sắc nghĩa là lạnh cũng là sắc, nóng cũng là sắc, đói cũng là sắc, khát cũng là sắc.

Thế nào gọi là thọ? Thọ gọi là giác. Giác vật gì? Giác khổ, giác vui, giác chẳng khổ chẳng vui; gọi là giác.

Thế nào gọi là tưởng? Tưởng cũng là biết. Biết xanh, vàng, trắng, đen, biết khổ vui, nên gọi là biết.

Thế nào gọi là hành? Hành là có thể thành tựu nên gọi là hành. Là thành việc gì? Hoặc thành ác hạnh, hoặc thành thiện hạnh; nên gọi là hành.

Thế nào gọi là thức? Biết phân biệt đúng sai, cũng biết các vị; đây gọi là thức.

Chư Thiên tử nên biết, có năm thạnh ấm này thì biết có ba ác đạo, thiên đạo, nhân đạo. Năm thạnh ấm này diệt liền biết có đạo Niết-bàn.

Bấy giờ, lúc thuyết pháp này có sáu vạn Thiên nhân được pháp nhãn thanh tịnh. Thế Tôn thuyết pháp cho các Thiên nhân xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến đỉnh núi Tu-di nói kệ:

Các Ông nên siêng học,
Ðối với Phật, Pháp, Tăng, 
Nên diệt con đường chết,
Như người điều phục voi.
Nếu được ở pháp này,
Không có sự lười biếng,
Liền sẽ hết sanh tử,
Không còn nguồn gốc khổ.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ này rồi, liền đến đường giữa. Khi ấy Phạm thiên ở đường bạc bên mặt Thế Tôn và Thích-đề-hoàn-nhân ở bên đường thủy tinhchư Thiên nhơn ở trên hư không rải hoa, đốt hương, xướng kỹ nhạc làm vui lòng Như Lai.

Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Liên-hoa-sắc nghe hôm nay Như Lai sẽ đến bên ao nước lớn Tăng-ca-thi, nghe rồi liền nghĩ: 'Bốn bộ chúng, Quốc vương, đại thần, nhân dân trong nước không ai không đến. Nếu ta theo lối thường đi đến, điều này không nên. Ta hãy biến làm thân Chuyển luân Thánh vương đến gặp Thế Tôn'. Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc liền ẩn hình, hóa thành Chuyển luân Thánh vương bảy báu đầy đủ. Bảy báu là: xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, điển binh báu, điển tạng báu. Ðó là bảy báu.

Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề ở trong núi Kỳ-xà-quật thành La-duyệt, tại một mé núi vá y. Tu-bồ-đề nghe Thế Tôn hôm nay sẽ đến đất Diêm-phù-đề, bốn bộ chúng đều đến gặp, liền nghĩ: 'Nay ta nên đến thăm hỏi lễ bái Như Lai'. Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề liền bỏ việc vá y, từ chỗ ngồi đứng lên, chân phải đặt xuống đất. Khi ấy ngài lại nghĩ rằng: 'Thân Như Lai là gì? Thế Tôn có phải là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chăng? Người đến gặp lại là đất, nước, gió, lửa chăng?' Tất cả các pháp thảy đều không tịch, không tạo, không tác. Như bài kệ của Thế Tôn nói:

'Nếu người muốn lễ Phật,
Và những bậc Tối Thắng,
Ấm, trì, nhập các thứ,
Thảy đều quán vô thường.
Phật quá khứ lâu xa,
Và các Phật vị lai,
Như nay Phật hiện tại,
Tất cả đều vô thường.
Nếu người muốn lễ Phật,
Quá khứ và tương lai, 
Nếu ở trong hiện tại,
Nên quán ở pháp không.
Nếu người muốn lễ Phật,
Quá khứ và tương lai,
Cùng chư Phật hiện tại,
Nên quán ở vô ngã.

'Trong đây vô ngã, vô mạng, vô nhân, vô tạo tác, cũng không hình dung, có dạy, có truyền. Các pháp đều không tịch. Cái gì là ta? Ta là không chủ, nay ta quy mạng chân pháp tụ'.

Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề trở lại chỗ ngồi vá y. Khi đó Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc làm Chuyển luân Thánh vương dẫn theo bảy báu đến chỗ Thế Tôn.

Năm Quốc vương xa thấy Chuyển luân Thánh vương đến, vui mừng hớn hở không thể tự kềm, nói với nhau rằng:

- Thật là kỳ đặc! Thế gian xuất hiện hai trân bảo: Như LaiChuyển luân Thánh vương.

Bấy giờ Thế Tôn dẫn mấy vạn Thiên nhân, từ đỉnh núi Tu-di đến bên ao nước. Thế Tôn giở chân đạp đất, tam thiên đại thiên thế giới này sáu phen chấn động. Khi ấy, Hóa Chuyển luân Thánh vương dần dần đến chỗ Thế Tôn, các Tiểu quốc vươngnhân dân đều tránh ra. Hóa Chuyển luân Thánh vương biết và đã gần Thế Tôn, liền trở lại hình cũ thành Tỳ-kheo-ni cúi lạy Thế Tôn. Năm vua thấy rồi, kêu oán, bảo nhau rằng:

- Hôm nay chúng ta thật là sơ sót. Chúng ta đáng lẽ gặp Như Lai trước; mà nay gặp Tỳ-kheo-ni trước.

Khi ấy Tỳ-kheo-ni đến chỗ Thế Tôn cúi lạy bạch Phật:

- Nay con lễ đấng Tối thắng! Hôm nay con được thăm viếng đầu tiên. Con, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắcđệ tử của Như Lai.

Bấy giờ Thế Tôn dùng kệ bảo Liên Hoa Sắc:

Thiện nghiệp, đã lễ trước,
Ðầu tiên không ai hơn,
Không - Vô - Giải thoát môn,
Ðây là nghĩa lễ Phật.
Nếu người muốn lễ Phật,
Tương lai và quá khứ,
Nên quán pháp Không - Vô,
Ðây là nghĩa lễ Phật.

Khi ấy, năm vua và dân chúng đông vô kể, đến chỗ Thế Tôn tự xưng tên:

- Con là Ba-tư-nặc, vua nước Ca-thi. Con là vua nước Bạt-kỳ tên là Ưu-điền; con là chúa của nhân dân Ngũ-đô tên là Ác-sanh. Con là chúa Nam-hải tên là Ưu-đà-diên. Con là vua Tần-bà-sa-la nước Ma-kiệt.

Bấy giờ mười một Na-thuật nhân dân tụ tập và các bậc tôn trưởng được tôn trọng nhất của bốn bộ chúng, một ngàn hai trăm người đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên.

Bấy giờ vua Ưu-điền tay bưng tượng Ngưu-đầu-chiên-đàn, dùng kệ hướng Như Lai thuyết:

Nay con muốn thưa hỏi,
Từ bi hộ tất cả,
Người tạo hình tượng Phật,
Sẽ được những phước gì?
Ðức Thế Tôn dùng kệ đáp:
- Nay Ðại vương hãy nghe,
Giảng ít nhiều nghĩa này,
Người tạo hình tượng Phật,
Nay sẽ nói sơ đó,
Nhãn căn trước chẳng hoại,
Sau lại được thiên nhãn,
Trắng đen thấy phân minh,
Ðức tạo hình tượng Phật.
Thân thể sẽ đầy đủ,
Ý chính không mê hoặc,
Thế lực hơn người thường.
Người tạo hình tượng Phật
Trọn không vào đường ác,
Trọn sẽ sanh lên Trời,
Ở đó làm Thiên vương,
Phước tạo hình tượng Phật.
Phước khác không thể kể,
Phước này bất tư nghì,
Tiếng đồn khắp bốn phương,
Phước tạo hình tượng Phật.

Lành thay! Lành thay! Ðại vương có nhiều lợi ích trời người nhớ ơn.

Bấy giờ vua Ưu-điền cực kỳ hoan hỷ không thể kềm được.

Thế Tôn diễn thuyết diệu luận cho bốn bộ chúng và năm vua. Những luận là Thí luận, Giới luậnSanh thiên luận, dục là tưởng bất tịnh, lậu là hoạn lớn, xuất yếu là diệu.

Khi ấy, Thế Tôn biết bốn bộ chúng tâm ý khai mở. Chư Phật Thế Tôn thường thuyết pháp Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, nay thuyết hết cho họ. Bấy giờ, trời và nhân dân hơn sáu vạn người, ngay tại chỗ ngồi, các trần cấu sạch, được pháp nhãn thanh tịnh.

Bấy giờ năm vua bạch Thế Tôn:

- Xứ này phước đức vi diệu, thật là thần địa. Như Lai mới từ trời Ðâu-suất xuống đây thuyết pháp. Nay con muốn kiến lập đất này khiến cho còn mãi không hoại.

Thế Tôn bảo:

- Năm Ðại vương! Ở đất này hãy lập thần tự, mãi mãi hưởng phước trọn không hư bại.

Các vua đáp:

- Nên tạo lập thần tự ra sao?

Bấy giờ Thế Tôn duỗi tay phải, từ dưới đất xuất hiện chùa của Phật.

Ca-diếp nhìn năm vua bảo:

- Muốn tạo thần tự nên lấy đây làm phép tắc.

Khi đó, năm vua ở chỗ ấy dựng đại thần tự. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Hằng sa Như Lai đời quá khứ, tùy tùng nhiều ít, cũng như hôm nay không khác. Ngay đến chư Phật Thế Tôn tương lai, tùy tùng nhiều ít, cũng như hôm nay không khác.

Nay kinh này tên là 'Pháp Bổn Du Thiên'. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ bốn bộ chúng và năm Quốc vương nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11654)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11974)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11130)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11366)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12083)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12578)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10784)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18012)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11741)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9964)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10191)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12366)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15365)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11262)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14345)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12124)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15387)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12022)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12429)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11202)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10633)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12571)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13187)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14859)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12711)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16595)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19686)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13123)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12679)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12278)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11872)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13551)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11969)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11857)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11649)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12783)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14536)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12631)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15685)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13642)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12918)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9886)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18033)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11192)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9094)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12199)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13073)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10327)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12212)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15331)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16622)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12235)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11499)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14286)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19719)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14170)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24628)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10712)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant