Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

49-2. Phẩm Chăn trâu (2)

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 12169)
49-2. Phẩm Chăn trâu (2)

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 3

XXXXIX.2. Phẩm Chăn trâu (2)

Bấy giờ, Thế Tôn bèn đưa lưỡi liếm lỗ tai bên mặt và bên trái rồi thâu vào. Và Ngài liền nhập chánh định, khiến Phạm chí ấy thấy được tướng mã âm tàng. Khi Phạm chí thấy Phật đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp thì vui mừng phấn khởi không thể tự kềm. Phạm chí Thí-la bạch Phật:

- Nay tôi là Bà-la-môn, Sa-môn dòng Sát-lợi, song Sa-môn hay Bà-la-môn đều một đạo, cầu một giải thoát. Sa-môn chấp nhận chúng ta đồng một đạo chăng?

Phật bảo Phạm chí:

- Ông có kiến chấp này.

Phạm chí thưa:

- Tôi có kiến chấp ấy.

Phật bảo Phạm chí:

- Ông nên khởi ý hướng về một giải thoát. Ðó là chánh kiến.

Phạm chí bạch Phật:

- Chánh kiến tức là một giải thoát, lại có giải thoát chăng?

Thế Tôn bảo:

- Phạm chí! Có giải thoát được Niết-bàn. Việc ấy có tám. Ðó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Này Phạm chí, đó là Tám đạo phẩm đưa đến Niết-bàn.

Phạm chí bạch Phật:

- Có chúng sanh nào biết được Tám đạo phẩm nầy chăng?

Phật bảo:

- Chẳng phải một, trăm, nghìn. Phạm chí nên biết! Có vô số trăm nghìn chúng sanh được biết Tám đạo phẩm này.

Phạm chí bạch Phật:

- Lại có chúng sanh nào không hiểu được Tám đạo phẩm này chăng?

Phật bảo:

- Chúng sanh không hiểu điều này chẳng phải một người.

Phạm chí bạch Phật:

- Có chúng sanh nào không được pháp này chăng?

Phật bảo:

- Có chúng sanh không được đạo này gồm mười một hạng người như thế này. Thế nào là mười một? Ðó là những người gian ngụy, ác ngữ, khó can gián, không biết ơn, tánh ưa ganh ghét, giết hại cha mẹ, giết A-la-hán, đoạn dứt căn lành, việc lành trở lại làm ác, chấp ngã, khởi ý ác đối với Như Lai. Phạm chí! Ðó là mười một hạng người không thể đạt được Tám đạo phẩm này.

Khi đức Phật đang nói Tám đạo phẩm, Phạm chí ấy dứt sạch các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh.

Bấy giờ Phạm chí Thí-la bảo năm trăm đệ tử:

- Các Ông đều học được điều tốt, mỗi người tự tụng tập. Ta muốn ở chỗ Phật tu Phạm hạnh.

Các đệ tử thưa:

- Chúng con cũng muốn xuất gia học đạo.

Bấy giờ, Phạm chí và năm trăm đệ tử mỗi mỗi quỳ xuống bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho chúng con xuất gia học đạo.

Phật bảo các Phạm chí:

- Thiện lai Tỳ-kheo! Ở nơi Như Lai khéo tu Phạm hạnh thì dần dần sẽ chấm dứt gốc khổ.

Khi Phật nói lời ấy, năm trăm Phạm chí liền thành Sa-môn. Thế Tôn dần dần vì năm trăm người giảng dạy về luận vi diệu. Ðó là luận bố thí, trì giới, sanh thiên, dục tưởng bất tịnh, xuất yếu là an vui. Như các pháp mà chư Phật Thế Tôn thường dạy Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Thế Tôn cũng vì các Thầy ấy giảng nói rộng. Khi ấy, năm trăm Sa-môn vĩnh viễn dứt sạch các lậu hoặc, được pháp hơn người.

Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh lại bạch:

- Ðến thời, xin Thế Tôn quang lâm.

Phật bảo Thí-la và năm trăm Tỳ-kheo.

- Các Ông hãy đắp y mang dĩa.

Một nghìn vị Tỳ-kheo vây quanh, đi vào thành đến nhà Phạm chí, lên tòa ngồi.

Phạm chí Sí-ninh thấy năm trăm Bà-la-môn đều làm Sa-môn liền bảo rằng:

- Lành thay các Vị! Ðiều cần yếu hướng về đạo không gì hơn việc này.

Tỳ-kheo Thí-la vì Sí-ninh nói kệ:

Ngoài đây không có pháp
Hay hơn điều cần ấy,
So sánh như thế ấy,
Ðiều lành không gì hơn.

Phạm chí Sí-ninh bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn đợi giây lát, chính lúc này lại dọn thêm thức ăn.

Phật bảo:

- Các thức ăn đã xong, đúng giờ cứ đem đến, đừng sợ không đủ.

Phạm chí Sí-ninh vui mừng vô lượng, đích thân tự san sớt thức ăn cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Khi Thế Tôn thọ trai xong, Ông dọn rửa bát, đem bao nhiêu thứ hoa rải lên Phật và Tỳ-kheo Tăng, và đến trước bạch Phật:

- Xin thưa Thế Tôn! Hết thảy người lớn nhỏ, nam nữ trong nhà con đều xin làm Ưu-bà-tắc.

Bấy giờ, phu nhân của Phạm chí đang có thai, bèn bạch Phật:

- Con đang mang thai, không biết là nam hay nữ, cũng xin tự quy y, xin Như Lai nhận cho làm Ưu-bà-di.

Phật vì đại chúng nói pháp vi diệu, liền ngồi trên tòa, nói kệ này:

Lành thay phước báo này,
Sở nguyện ắt được quả,
Dần lên chỗ an lạc,
Trọn không lo nguy tai,
Chết được sanh lên trời,
Cũng không thể khiến cho
Người làm phước bị tội.
Họ cũng tìm phương tiện,
Ðược trí tuệ Hiền Thánh,
Sẽ dứt sạch gốc khổ,
Xa bỏ hẳn tám nạn.

Thế Tôn nói kệ ấy rồi, rời tòa mà đi.

Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta thường ngồi ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng, khí lực mạnh mẽ. Tỳ-kheo các Thầy cũng nên ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng khí lực mạnh mẽ, dễ tu Phạm hạnh.

Bấy giờ, Bạt-đề-bà-la bạch Phật:

- Con không thể ăn một bữa. Vì sao? Vì khí lực yếu kém.

Phật bảo:

- Cho phép Thầy đến nhà đàn-việt, ăn một phần, đem về một phần.

Bạt-đề-bà-la bạch Phật:

- Con cũng không thể làm pháp này.

Phật bảo:

- Cho phép Thầy bỏ ngọ trai, ăn trong ngày.

Bạt-đề-bà-la thưa:

- Con cũng không thể làm theo pháp này.

Thế Tôn im lặng không nói nữa.

Bấy giờ, Ca-lưu-đà-di vào buổi chiều mặt trời lặn, đắp y mang bát vào thành khất thực. Khi đó, trời rất tối, Ca-lưu-đà-di dần dần đi đến nhà một trưởng giả. Phu nhân của trưởng giả ấy đang mang thai, nghe Sa-môn khất thực ngoài cửa, liền tự đem cơm ra cho. Song Thầy Ca-lưu-đà-di sắc mặt rất đen, lại khi ấy trời sắp mưa, sấm chớp giăng đầy; phu nhân của trưởng giả ra cửa, thấy sa-môn mặt đen thui, bèn kinh hoàng kêu là quỷ, và tự hô hoán lên:

- Chao ôi! Ta gặp quỷ.

Liền khi đó đọa thai mà chết. Khi ấy, Ca-lưu-đà-di trở về tinh xá, lo buồn không vui, ngồi tư duy hối hận không kịp.

Khi ấy, trong thành Xá-vệ có tiếng ác này: "Sa-môn Thích tử trù rủa làm đọa thai con của người". Nam nữ trong thành đều bảo nhau rằng: "Hiện nay Sa-môn hành động không tiết độ, ăn chẳng đúng thời, như hàng cư sĩ tại gia chẳng khác". Bấy giờ, phần đông các Tỳ-kheo đều nghe dân chúng bàn luận điều này: "Sa-môn dòng Thích không biết tiết độ, đi đứng không kiêng dè". Trong đó, các Tỳ-kheo giữ giới, những người đầy đủ giới luật cũng tự oán trách: "Thật chẳng phải là oai nghi của chúng ta, ăn không chừng mực, đi không đúng thời, thật là điều quấy của chúng ta". Các vị ấy dẫn nhau đến chỗ đức Phật, cúi đầu lễ chân Phật, đem hết mọi chuyện bạch Phật.

Phật bảo một Tỳ-kheo:

- Thầy đi kêu Ca-lưu-đà-di đến đây.

Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, liền đi kêu Ca-lưu-đà-di. Ca-lưu-đà-di nghe Phật gọi, liền đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, lui ngồi một bên.

Thế Tôn hỏi:

- Phải ngày hôm qua, vào buổi chiều Thầy vào thành khất thực, đến nhà trưởng giả khiến vợ trưởng giả đọa thai chăng?

Ca-lưu-đà-di bạch Phật:

- Thưa vâng, Thế Tôn.

Phật bảo:

- Vì sao Thầy không phân biệt thời tiết, lại vào lúc trời sắp mưa vào thành khất thực? Ðó không phải là oai nghi của Thầy. Thầy đã là hàng quý tộc, xuất gia học đạo mà còn tham trước ăn uống.

Ca-lưu-đà-di bèn đứng dậy, bạch Phật:

- Từ nay về sau không dám phạm lại. Cúi xin Thế Tôn nhận cho con sám hối.

Phật bảo Tôn giả A-nan mau đánh kiền chùy, nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ Hội, A-nan vâng lời Phật dạy, liền nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường, rồi đến trước Phật, bạch rằng:

- Các Tỳ-kheo đã nhóm, xin Thế Tôn biết đúng thời.

Thế Tôn liền đến giảng đường ngồi vào tòa chính giữa, bảo các Tỳ-kheo:

- Các đức Phật ở đời quá khứ lâu xa đều ăn một bữa. Các hàng Thanh văn cũng ăn một bữa. Các đức Phật tương lai và chúng đệ tử cũng sẽ chỉ ăn một bữa. Vì sao thế? Ðó là pháp yếu để hành đạo, nên ăn một bữa. Nếu có thể ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng, tâm được khai mở. Tâm đã mở bèn được các căn lành. Ðã được căn lành liền được chánh định. Ðã được chánh định thì biết đúng như thật. Thế nào gọi là biết đúng như thật? Nghĩa là Khổ đế, biết như thậtKhổ đế; Khổ tập đế, biết như thậtKhổ tập đế; Khổ tận đế biết như thật là Khổ tận đế; Khổ xuất yếu đế (đạo đế) biết như thật là Khổ xuất yếu đế.

Các Thầy là dòng hào quý, đã xuất gia học đạo, bỏ tám nghiệp ở thế gian mà không biết thời tiết thì khác gì người tham dục kia? Phạm chí có pháp riêng của Phạm chí, ngoại đạo có pháp riêng của ngoại đạo.

Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật:

- Chư Phật ở quá khứ và tương lại đều ăn một bữa. Cúi xin Thế Tôn nên vì các Tỳ-kheo hạn chế thời gian ăn uống.

Thế Tôn bảo:

- Như Lai cũng biết như thế, nhưng chưa có người phạm trước mắt. Có phạm tội mới chế giới cấm.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta chỉ ăn một bữa, các Thầy cũng nên ăn một bữa. Nay các Thầy ăn vào giờ ngọ, không được quá thời.

Các Thầy cũng phải học pháp khất thực. Thế nào là Tỳ-kheo học pháp khất thực? Khi Tỳ-kheo chỉ vì mạng sống thì xin được thức ăn cũng không vui, không được cũng không lo. Nếu khi được thức ăn, tư duy quán tưởng mà ăn, không có tâm tham đắm, chỉ muốn thân này được sống, trừ được bệnh cũ lại không tạo mới, khiến cho khí lực đầy đủ. Như thế, này các Tỳ-kheo, gọi là khất thực.

Tỳ-kheo các Thầy nên ngồi ăn một bữa. Thế nào là Tỳ-kheo ngồi ăn một bữa? Nếu đứng lên thì phạm, ăn rồi không nên ăn nữa. Như thế gọi là Tỳ-kheo ngồi ăn một bữa.

Tỳ-kheo các Thầy cũng nên được thức ăn mà ăn. Thế nào là Tỳ-kheo được thức ăn mà ăn? Khi Tỳ-kheo đã được thức ăn, lại có trai chủ cúng thêm lần nữa, do thức ăn nầy là được lại, không nên ăn. Như thế, Tỳ-kheo được thức ăn chỉ một lần.

Tỳ-kheo các Thầy cũng nên mặc ba y, ngồi dưới cội cây, ngồi chỗ vắng, nên khổ hạnh ngồi nơi đất trống, nên mặc y cũ vá, nên ở chỗ gò mả, nên mặc áo cũ xấu. Vì sao thế? Vì khen ngợi người thiểu dục.

Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo Ca-diếp. Vì sao thế? Tỳ-kheo Ca-diếp tự hành mười một pháp đầu đà, cũng dạy người làm theo pháp yếu này.

Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo Diện Vương. Vì sao? Tỳ-kheo Diện Vương mặc y cũ xấu không mặc y đẹp.

Tỳ-kheo! Ðây là lời dạy của Ta, nên ghi nhớ tu tập. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, Tỳ-kheo Bạt-đề-bà-la suốt ba tháng không đến chỗ thế Tôn. A-nan vừa hết ba tháng an cư, đến chỗ Tỳ-kheo Bạt-đề-bà-la nói rằng:

- Nay chúng Tăng đều may vá y áo, như thế Thế Tôn sẽ đi du hóa nhân gian. Bây giờ Thầy không đến, sau hối hận vô ích.

Khi ấy, A-nan dẫn Bạt-đề-bà-la đến chỗ đức Thế Tôn, Bạt-đề-bà-la lễ Phậtbạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho con sám hối, từ nay về sau không dám phạm lại. Như Lai chế cấm giới mà con không thọ trì. Cúi xin rũ lòng tha thứ.

Thưa như thế ba lần. Phật bảo:

- Cho phép Thầy hối lỗi, sau chớ phạm lại. Vì sao? Ta tự suy nghĩ trong vô số kiếp sanh tử, hoặc có khi làm thân lừa, la, lạc đà, voi, ngựa, heo, dê, ăn cỏ để nuôi thân; hoặc ở trong địa ngục nuốt hoàn sắt nóng; hoặc làm ngạ quỷ thường ăn máu mủ; hoặc làm thân người ăn ngũ cốc; hoặc làm thân trời ăn những vị cam lồ tự nhiên; trong vô số kiếp thân mạng cùng tranh không biết chán.

Bạt-đề-bà-la! Như lửa cháy củi không đủ, như biển lớn nuốt các dòng không đủ, nay người phạm cũng như vậy, tham ăn không biết chán đủ.

Thế Tôn bèn nói kệ này:

Sanh tử không đoạn dứt,
Ðều do từ tham dục,
Oán ghét nuôi ác ấy,
Người ngu tập theo đó.

Thế nên, này Bạt-đề-bà-la nên ghi nhớ ít muốn, biết đủ, chớ khởi tưởng tham, dấy các niệm tán loạn. Như thế, Bạt-đề-bà-la, nên học điều này.

Bấy giờ, Bạt-đề-bà-la nghe Phật giáo giới, đã ở chỗ vắng tự khắc trách mình. "Vốn dòng hào tộc, xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đã hết, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ thân sau, như thật mà biết". Bạt-đề-bà-la liền thành A-la-hán.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Trong hàng đệ tử Ta, người ăn uống nhiều đệ nhất trong số Thanh văn là Tỳ-kheo Cát-Hộ.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thôn Ương Nghệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Dân chúng đều gọi các Thầy là Sa-môn, giả sử có ai hỏi các Thầy có phải Sa-môn chăng thì các thầy cũng đáp là Sa-môn. Nay Ta bảo càc Thầy về hạnh Sa-môn, sau ắt thành quả như thật không khác. Vì sao thế? Có hai hạng Sa-môn: tập hạnh Sa-môn, thệ nguyện Sa-môn.

Thế nào gọi là tập hạnh Sa-môn? Là Tỳ-kheo tới lui, đi đứng, nhìn ngó, dung mạo, đắp y mang bát, thảy đều đúng như pháp, không đắm trước vào tham dục, sân nhuế, ngu si, chỉ trì giới tinh tấn không phạm phi pháp, học tập các giới. Ðó là tập hạnh Sa-môn.

Thế nào gọi là thệ nguyện Sa-môn? Ở đây, hoặc có Tỳ-kheo oai nghi giới luật, đi đứng ra vào, dung mạo, nhìn ngó, cử động thảy đều như pháp, chấm dứt hữu lậu thành tựu vô lậu, ở trong hiện pháp tự thân chứng đắc và đi du hóa, sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ thân sau, mà biết như thật. Ðó là thệ nguyện Sa-môn.

Tỳ-kheo, đó là hai hạng Sa-môn.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Thế nào gọi là pháp hạnh Sa-môn, pháp hạnh Bà-la-môn?

Phật bảo A-nan:

- Ở đây, Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ, ngày đêm đi kinh hành, tu tập các đạo phẩm không để mất thời tiết. Thế nào gọi là Tỳ-kheo các căn vắng lặng? Ở đây, Tỳ-kheo mắt thấy sắc không khởi tưởng đắm trước, không dấy các loạn niệm, trong ấy mà nhãn căn được thanh tịnh, trừ các niệm ác, không nghĩ nhớ pháp bất thiện, hoặc khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết cảm giác, ý biết pháp không khởi tưởng đắm trước, không dấy các loạn niệm, nơi ý căn được thanh tịnh. Như thế gọi là Tỳ-kheo sáu căn được thanh tịnh.

Thế nào là Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ? Ở đây, Tỳ-kheo ăn uống vừa đủ lượng, không cầu mập, trắng, chỉ muốn thân này sống mà thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh, chỉ muốn thân này sống mà thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh, được tu Phạm hạnh. Cũng như người nam nữ, thân sanh ghẻ, tùy thời dùng thuốc thoa xức điều trị, vì muốn vết thương lành. Nay Tỳ-kheo cũng lại như thế, lượng vào sức mà ăn. Sở dĩ dùng dầu bôi vào xe vì muốn đi xa, Tỳ-kheo ăn vừa đủ lượng là muốn duy trì mạng sống. Như thế gọi là Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ.

Thế nào là Tỳ-kheo thường biết tỉnh thức? Ở đây, Tỳ-kheo vào đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm biết tỉnh thức, tư duy Ba mươi bảy đạo phẩm; ngày thời kinh hành trừ bỏ niệm ác, các tưởng kiết sử, lại vào đầu đêm, cuối đêm kinh hành trừ bỏ kiết sử, các tưởng bất thiện, vào giữa đêm nằm nghiêng hông bên mặt, hai chân duỗi xếp lên nhau, chỉ tưởng về ánh sáng, rồi vào cuối đêm kinh hành tới lui, trừ bỏ niệm bất thiện. Như thế là Tỳ-kheo biết thời tỉnh thức.

Như thế, này A-nan! Ðây là hạnh cần yếu của Sa-môn.

Thế nào gọi là hạnh cần yếu của Bà-la-môn? Ở đây, Tỳ-kheo Khổ đế biết như thậtKhổ đế; Khổ tập, Khổ tận, Khổ xuất yếu, như thật biết như thế. Sau do mở được tâm dục lậu, tâm hữu lậu, tâm vô minh lậu nầy mà được giải thoát. Ðã được giải thoát liền được giải thoát tri kiến, sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã xong, không thọ thân lại, mà biết như thật. Ðây là hạnh cần yếu của Bà-la-môn. A-nan nên biết! Ðây là ý nghĩa của hạnh cần yếu.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Sa-môn tên tâm dứt,
Các ác vĩnh viễn tận,
Phạm chí tên thanh tịnh,
Trừ bỏ các loạn tưởng.

Thế nên A-nan! Nên ghi nhớ tu hành pháp hạnh của Sa-môn, pháp hạnh của Bà-la-môn. Chúng sanh nào làm các pháp này, sau mới xưng là Sa-môn.

Lại vì có gì gọi là Sa-môn? Vì các kết vĩnh viễn chấm dứt nên gọi là Sa-môn. Lại vì có gì gọi là Bà-la-môn? Trừ sạch các ngu hoặc nên gọi là Phạm chí, cũng gọi là Sát-lợi. Lại vì cớ gì gọi là Sát-lợi? Do đoạn trừ dâm, nộ, si nên gọi là Sát-lợi; cũng gọi là tắm gội. Thế nào gọi là tắm gội? Do tẩy sạch hai mươi mốt kết nên gọi là tắm gội; cũng gọi là giác. Vì cớ gì gọi là giác? Do biết rõ pháp ngu, pháp tuệ nên gọi là giác; cũng gọi là bỉ ngạn. Vì cớ gì gọi là bỉ ngạn? Do từ bờ này đến bờ kia nên gọi là bỉ ngạn.

Này A-nan! Hãy hành trì pháp này, sau mới gọi là Sa-môn, Bà-la-môn. Ðây là nghĩa như thế, nên ghi nhớ vâng làm.

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành Thích-si Ca-tỳ-la việt vườn Ni-câu-lưu, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, vương tử Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, Ðề-bà-đạt-đa bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho con được làm Sa-môn.

Phật bảo Ðề-bà-đạt-đa:

- Ông nên ở tại gia làm việc bố thí, làm Sa-môn thật chẳng dễ.

Khi ấy, Ðề-bạt-đạt-đa lại ba phen bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho phép con theo Ngài.

Phật lại bảo:

- Ông nên ở nhà, không nên xuất gia tu hạnh Sa-môn.

Ðề-bà-đạt-đa khởi nghĩ rằng: "Sa-môn này có lòng tật đố, nay ta có thể tự cạo tóc, tu Phạm hạnh, đâu cần Sa-môn ấy làm gì?" Ðề-bà-đạt-đa liền lui về, tự cạo bỏ râu tóc, mặc cà sa, tự xưng: "Ta là hàng Thích tử".

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo tên Tu-la-đà, hành hạnh đầu đà, khất thực, mặc y vá, thông suốt ngũ thông. Ðề-bà-đạt-đa liền đến chỗ Tỳ-kheo ấy, cúi đầu lễ dưới chân, bạch rằng:

- Cúi xin Tôn giả nói giáo pháp cho tôi khiến cho được an ổn lâu dài.

Tỳ-kheo Tu-la-đà liền nói pháp cho, các oai nghi lễ độ, suy nghĩ về pháp này, bỏ điều này được điều này. Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa như lời Tỳ-kheo ấy dạy không để sai sót. Ðề-bà-đạt-đa lại bạch với Tỳ-kheo ấy rằng:

- Cúi xin Tôn giả dạy cho tôi về pháp thần túc, tôi có thể tu hành theo pháp ấy.

Bấy giờ, Tỳ-kheo lại dạy pháp thần túc cho ông:

- Nay Ông nên học về tâm ý khinh trọng, đã biết tam ý khinh trọng, lại nên phân biệt về tứ đại địa, thủy, hỏa, phong khinh trọng. Ðã biết được tứ đại khinh trọng, lại nên tu hành về chánh định tự tại. Ðã thực hành chánh định tự tại, lại nên tu chánh định dũng mãnh. Ðã thực hành chánh định dũng mãnh, lại nên tu về chánh định tâm ý. Ðã thực hành chánh định tâm ý, lại nên hành chánh định tự giới, đã tu hành chánh định tự giới, như thế không bao lâu sẽ thành tựu thần túc.

Ðề-bà-đạt-đa vâng lời Tỳ-kheo ấy dạy, tự biết về tâm ý khinh trọng, lại biết về tứ đại khinh trọng, tu hết các chánh định không sai sót; không bao lâu liền thành tựu được thần túc. Như thế, Ðề-bà-đạt-đa có vô số phương tiện tiến hóa vô lượng. Bấy giờ danh tiếng Ðề-bà-đạt-đa lưu truyền lan xa bốn phương.

Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa dùng sức thần túc bay lên cõi trời Ba mươi ba, hái các thứ hoa như hoa sen ưu-bát-la, hoa câu-mâu-đầu, đem về dâng thái tử A-xà-thế, và bảo:

- Hoa này từ cõi trời Ba mươi ba, Thích-đề-hoàn-nhân đem đến tặng Thái tử.

Thái tử thấy Ðề-bà-đạt-đa có thần túc như thế, liền tùy thời cúng dường, cung cấp vật cần dùng. Thái tử lại khởi nghĩ: "Ðề-bà-đạt-đa lại tự ẩn thân, biến thành đứa bé ngồi trên đùi gối thái tử. Các thể nữ đều khởi nghĩ: "Ðây là người gì? Là Quỷ ư? Là Trời ư?". Bàn tán chưa xong, Ðề-bà lại hóa thân trở lại như cũ. Khi đó, thái tử và các cung nhân đều khen rằng: "Ðây là Ðề-bà-đạt-đa", liền cung cấp vật cần dùng, lại truyền tụng lời này: "Ðề-bà-đạt-đa danh đức không thể nói hết được".

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe điều này, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ Phật, bạch:

- Ðề-bà-đạt-đa có thần túc rất lớn, thường nhận được y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc men.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy chớ khởi ý niệm này, tham đắm lợi dưỡng của Ðề-bà-đạt-đa; lại cũng đừng khen ngợi sức thần túc của ông ấy. Ông ấy do thần túc này rơi trong ba đường ác. Lợi dưỡng của Ðề-bà-đạt-đa, và thần túc của ông ấy sẽ chấm dứt. Vì sao thế? Ðề-bà sẽ tự tạo nghiệp thân, khẩu, ý.

Khi đó, Ðề-bà-đạt-đa lại khởi nghĩ rằng: "Sa-môn Cù-đàm có thần túc, ta cũng có thần túc; Sa-môn Cù-đàm có tri thức, ta cũng có tri thức; Sa-môn Cù-đàm dòng họ cao quý, ta cũng dòng họ cao quý. Nếu Sa-môn Cù-đàm hiện một thần túc, ta sẽ hiện hai; Sa-môn Cù-đàm hiện hai, ta sẽ hiện bốn, kia hiện tám, ta hiện mười sáu; kia hiện mười sáu, ta hiện ba mươi hai; tùy theo sức hóa hiện của Sa-môn ấy, ta sẽ tăng gấp đôi".

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe Ðề-bà-đạt-đa nói như vậy, hơn năm trăm Tỳ-kheo đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa và năm trăm Tỳ-kheo nhận sự cúng dường của thái tử A-xá-thế.

Khi ấy, hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên nói với nhau rằng: "Chúng ta cùng đi đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa, nghe ông ấy nói pháp, xem là luận thuyết gì", liền cùng đi đến chỗ Ðề-bà-đạt-đa. Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa xa thấy Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đi đến, liền bảo các Tỳ-kheo.

- Hai người này là đệ tử của Tất-đạt, rất được khen ngợi.

Hai Tôn giả đến rồi, cùng hỏi thăm, ngồi một bên. Bấy giờ các Tỳ-kheo đều khởi nghĩ rằng: "Ðệ tử của Phật Thích-ca, nay hướng hết về Ðề-bà-đạt-đa". Ðề-bà-đạt-đa bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Nay Thầy có thể thuyết pháp cho các Tỳ-kheo chăng? Tôi đau lưng muốn nghỉ một chút.

Ðề-bà-đạt-đa bèn nằm nghiêng hông mặt, hai chân xếp lên nhau, do lòng vui mừng nên ngủ luôn. Bấy giờ, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên thấy Ðề-bà-đạt-đa ngủ, liền dùng thần túc đem các vị Tỳ-kheo bay lên hư không mà đi.

Khi Ðề-bà-đạt-đa thức dậy, không thấy các Tỳ-kheo, rất giận dữ nói:

- Nếu ta không trả được thù này thì không gọi là Ðề-bà-đạt-đa.

Ðây là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa phạm tôi ngũ nghịch. Ðề-bà-đạt-đa vừa khởi ý ấy, liền bị mất thần túc.

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo bạch Phật:

- Tỳ-kheo Ðề-bà-đạt-đa có thần túc lớn mới có thể phá hoại Thánh chúng.

Phật bảo:

- Không phải chỉ hôm nay Ðề-bà-đạt-đa mới phá hoại Thánh chúng. Ðời quá khứ ông ta cũng thường phá hoại Thánh chúng. Vì sao thế? Về đời quá khứ ông ta cũng phá hoại Thánh chúng.

Ðề-bà-đạt-đa lại khởi ý ác: "Ta sẽ giết Sa-môn Cù-đàm để làm Phật độc tôn trong ba cõi". Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa nói với thái tử A-xà-thế:

- Người xưa thọ mạng rất dài, ngày nay đã ngắn ngủi. Nếu như Thái tử chết, chắc lại sanh trong dân gian. Sao không giết phụ vương, rồi lên ngôi vua? Tôi sẽ giết Như Lai và sẽ làm Phật. Vua mới, Phật mới, cũng chẳng thích ư?

Bấy giờ, A-xà-thế bèn sai quân thị vệ bắt phụ vương giam vào ngục, tự lên làm vua cai trị nhân dân. Khi đó, quần thần đều nói với nhau: "Người này khi sanh ắt là oan gia". Nhân đó đặt tên là A-xà-thế.

Ðề-bà-đạt-đa thấy A-xà-thế đã hại phụ vương xong, lại khởi nghĩ: "Ta sẽ hại Sa-môn Cù-đàm".

Bấy giờ, Thế Tôn đang ở tại một ngọn núi nhỏ cạnh núi Kỳ-xà-quật, Ðề-bà-đạt-đa leo lên núi Kỳ-xà-quật, tay vác một tảng đá lớn dài ba mươi khuỷu tay, rộng năm mươi khuỷu tay, ném vào Thế Tôn. Khi đó, sơn thần, quỷ Kim-tỳ-la thường ở tại núi ấy, thấy Ðề-bà-đạt-đa vác đá ném Phật, liền đưa tay đỡ lấy đến chỗ khác. Tảng đá bể văng ra một mảnh nhỏ trúng chân Như Lai chảy máu. Thế Tôn thấy vậy nói với Ðề-bà-đạt-đa:

- Nay Ông khởi ý muốn hại Như Lai, đây là tội ngũ nghịch thứ hai.

Ðề-bà-đạt-đa tự nghĩ: "Nay ta không hại được Sa-môn Cù-đàm". Liền bỏ đi, đến chỗ A-xà-thế, tâu nhà vua rằng:

- Nên cho con voi uống rượu say, khiến hại Sa-môn. Vì sao? Con voi ấy hung dữ chắc có thể hại được Sa-môn Cù-đàm. Nếu Sa-môn có Nhất thiết trí, ngày mai sẽ không vào thành khất thực; nếu khôngNhất thiết trí, ngày mai vào thành khất thực, ắt sẽ bị voi dữ này làm hại.

Khi ấy, vua A-xà-thế liền đem rượu mạnh cho voi uống say, ra lệnh cho dân chúng: "Ai muốn an ổn, thương mạng mình, ngày mai đừng đi lại trong thành".

Bấy giờ, Thế Tôn đúng thời đắp y mang bát vào thành La-duyệt khất thực. Hàng tứ chúng nam nữ già trẻ trong nước nghe tin vua A-xà-thế cho voi uống rượu say muốn hại Thế Tôn, đều cùng nhau đi đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân, và bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn, chớ vào thành La-duyệt khất thực. Vì vua A-xà-thế phục rượu voi say muốn hại Thế Tôn.

Phật bảo các Ưu-bà-tắc:

- Phàm là bậc Ðẳng Chánh Giác trọn không bị người khác làm hại.

Thế Tôn tuy nghe như thế vẫn đi vào thành. Voi dữ xa thấy Thế Tôn đến, sân giận bừng bừng chạy về phía Phật, muốn làm hại. Song, Phật thấy voi chạy đến liền nói kệ:

Voi chớ hại đến rồng,
Voi, rồng khó xuất,
Do không hại đến rồng,
Ðược sanh vào cõi lành,

Voi kia nghe Như Lai nói kệ xong, liền đến trước quỳ mọp, liếm chân Như Lai. Voi kia vì tâm hối quá không an, liền chết, sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Vua A-xà-thế và Ðề-bà-đạt-đa thấy voi đã chết, buồn rầu không vui. Ðề-bà-đạt-đa nói với vua:

- Sa-môn Cù-đàm đã giết voi chết.

Vua đáp:

- Sa-môn Cù-đàm này có sức thần lớn, có nhiều kỹ thuật, mới có thể trù rủa voi chết.

Vua A-xà-thế lại nói:

- Sa-môn này chắc đầy đủ oai đức mới không bị voi dữ làm hại.

Ðề-bà-đạt-đa đáp:

- Sa-môn Cù-đàm có chú thuật huyễn hoặc, có thể khiến ngoại đạo dị học thảy đều hàng phục, huống chi loài súc sanh.

Khi ấy, Ðề-bà-đạt-đa bèn suy nghĩ: "Ta thấy vua A-xà-thế ý muốn thay đổi". Ðề-bà-đạt-đa lo buồn không vui, ra khỏi thành La-duyệt. Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Pháp Thí xa thấy Ðề-bà-đạt-đa đến, nói với Ðề-bà-đạt-đa:

- Nay điều Ông làm rất sai quấy, hiện tại hối lỗi còn dễ, sợ sau khó.

Ðề-bà-đạt-đa nghe nói, lại thêm sân giận hỏi:

- Con ngốc! Ta có lỗi gì mà nay dễ, sau khó?

Tỳ-kheo-ni Pháp Thí đáp:

- Nay Ông đi chung với ác và tạo các điều chẳng lành.

Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa sân giận bừng bừng, lấy tay đánh Tỳ-kheo-ni chết.

Ðề-bà-đạt-đa đã hại bậc Chân nhân, về đến phòng mình bảo các đệ tử:

- Các Ông nên biết! Nay ta khởi ý đối với Sa-môn Cù-đàm, song việc ấy không nên. Vì A-la-hán lại khởi ý ác đối với A-la-hán. Nay ta có thể hướng về Cù-đàm sám hối.

Do đây Ðề-bà-đạt-đa lo buồn, bị bệnh nặng. Ðề-bà-đạt-đa bảo các đệ tử:

- Ta không đủ sức đến gặp Sa-môn Cù-đàm. Các Ông nên giúp ta đến chỗ Sa-môn.

Ðề-bà-đạt-đa bôi thuốc độc vào mười đầu ngón tay, bảo các đệ tử:

- Các Ông khiêng ta đến chỗ Sa-môn ấy.

Bấy giờ, các đệ tử liền khiêng Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Thế Tôn. Tôn giả A-nan xa thấy Ðề-bà-đạt-đa đến liền bạch Phật.

- Nay Ðề-bà-đạt-đa đến, chắc có tâm hối hận muốn hướng về Thế Tôn cầu xin cải hối.

Phật bảo A-nan:

- Ðề-bà-đạt-đa trọn không thể đến chỗ Thế Tôn.

A-nan ba phen bạch Phật:

- Nay Ðề-bà-đạt-đa đã muốn đến xin hối lỗi.

Phật baỏ A-nan:

- Người ác ấy trọn không thể đến chỗ Như Lai. Ngày nay mạng ông ấy đã hết.

Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa đến chỗ Thế Tôn, bảo các đệ tử:

- Nay ta không nên nằm ra mắt Như Lai, nên xuống võng mới đến gặp.

Ðề-bà-đạt-đa vừa bước chân xuống đất, bấy giờ tại nơi ấy nổi lên gió lửa mạnh, đốt chân Ðề-bà-đạt-đa. Ðề-bà-đạt-đa bị lửa đốt, liền khởi tâm hối hận, ở chỗ Phật chính muốn xưng "Nam-mô Phật", song rốt cuộc không xưng được "Nam-mô Phật", bèn vào địa ngục.

A-nan thấy Ðề-bà-đạt-đa rơi vào địa ngục, bạch Phật:

- Nay Ðề-bà-đạt-đa đã chết, rơi trong địa ngục chăng?

Phật bảo:

- Ðề-bà-đạt-đa không được diệt tận đến chỗ cứu cánh. Nay ông ấy khởi tâm ác đối với thân Như Lai, khi chết đọa địa ngục A-tỳ.

A-nan buồn khóc rơi lệ không ngừng, Phật bảo A-nan:

- Vì sao Thầy buồn khóc như thế?

A-nan bạch Phật:

- Tâm dục ái của con chưa dứt, chưa thể đoạn kết sử nên buồn khóc vậy.

Thế Tôn liền nói kệ:

Như người tự gây tạo,
Tự xem lại gốc ngọn,
Người lành thọ báo lành,
Kẻ ác chịu ương lụy.
Người đời làm hạnh ác,
Chết bị khổ địa ngục,
Nếu lại làm hạnh lành,
Chuyển thân thọ phước trời.
Kia tự gây hạnh ác,
Tự rơi vào địa ngục,
Không phải lỗi của Phật.
Nay vì sao Thầy buồn?

A-nan bạch Phật:

- Ðề-bà-đạt-đa chết, thân sanh chỗ nào?

Phật bảo A-nan:

- Nay Ðề-bà-đạt-đa chết, thân rơi vào địa ngục A-tỳ. Vì sao? Do kia tạo tội ngũ nghịch nên cảm báo này.

A-nan lại bạch Phật:

- Ðúng thế, thưa Thế Tôn! Như lời dạy của Thế Tôn, tự thân làm ác hiện thân vào địa ngục. Vì thế con buồn khóc vậy. Do Ðề-bà-đạt-đa không quý tiếc danh xưng, dòng họ, cũng không nể cha mẹ tôn trưởng, làm nhục dòng họ Thích, hủy hoại gia thế chúng ta.

Ðề-ba-đạt-đa hiện thân vào địa ngục thực không đúng. Vì sao? Dòng họ chúng ta phát xuất từ địa vị Chuyển luân Thánh vương, Ðề-bà-đạt-đa cũng xuất phát từ dòng vua, không nên hiện thân vào địa ngục như thế. Ðề-bà-đạt-đa nên hiện thân chấm dứt hữu lậu thành vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, nơi hiện thân này được chứng quả Sanh tử đã tận, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ thân sau, như thật mà biết. Tập theo dấu của chân nhân, đắc A-la-hán, nơi Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn; vì sao mang thân này vào địa ngục? Ðề-bà-đạt-đa khi còn sống có oai thần lớn, rất có thần đức, có thể lên cõi trời Ba mươi ba biến hóa tự do. Người như thế lại rơi vào địa ngục ư? Bạch Thế Tôn! Chẳng biết Ðề-bà-đạt-đa ở địa ngục trải qua bao nhiêu năm?

Phật bảo A-nan:

- Ông ấy ở địa ngục một kiếp.

A-nan lại bạch Phật:

- Kiếp có hai loại, đại kiếptiểu kiếp. Ông ấy ở kiếp nào?

Phật bảo:

- Kiếp của ông ấy sẽ trải qua một đại kiếp. Nói đại kiếp tức hết số kiếp của Hiền kiếp này. Hết nghiệp, mạng chung trở lại thân người.

A-nan bạch Phật:

- Ðề-bà-đạt-đa mất thân Người mới trở lại. Vì sao? Kiếp số dài lâu, đại kiếp không quá Hiền kiếp.

A-nan càng thêm buồn khóc than thở không vui, lại bạch Phật:

- Ðề-bà-đạt-đa từ địa ngục ra, sẽ sanh về chỗ nào?

Phật bảo A-nan:

- Ðề-bà-đạt-da mạng chung nơi ấy, sẽ sanh lên cõi Tứ thiên vương.

A-nan lại hỏi:

- Ở đó mạng chung sẽ sanh về đâu?

Phật bảo:

- Ở đó mạng chung, lần lượt sẽ sanh lên trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại.

A-nan lại hỏi:

- Ở nơi ấy mạng chung, sẽ sanh về đâu?

Phật bảo:

- Khi Ðề-bà-đạt-đa từ địa ngục mạng chung, sanh lên các cõi Trời lành trải qua trong sáu mươi kiếp không rơi vào ba đường ác, qua lại trong cõi Trời, Người. Thân rốt sau, ông ta sẽ cạo râu tóc, mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, thành vị Bích-chi Phật hiệu là Nam-mô.

Bấy giờ, A-nan đến trước bạch Phật:

- Như thế, bạch Thế Tôn! Ðề-bà-đạt-đa do ác báo nên chịu tộiđịa ngục, lại tạo đức gì mà trong sáu mươi kiếp trải qua sanh tử, không bị khổ não, sau lại thành vị Bích-chi Phật, hiệu là Nam-mô.

Phật bảo A-nan:

- Phước sanh ý lành trong khoảng giây lát, phước ấy khó thí dụ. Hà huống Ðề-bà-đạt-đa thông suốt cổ kim, tụng tập nhiều, giữ gìn các pháp, điều đã nghe không quên. Xưa Ðề-bà-đạt-đa do oán thù mà khởi tâm sát hại đối với Như Lai. Lại do duyên báo xưa nên ông ta có tâm vui vẻ với Như Lai, do nhân duyên này trong sáu mươi kiếp không rơi trong ba đường ác. Lại do Ðề-bà-đạt-đa, vào lúc cuối khi mạng chung, khởi tâm hòa vui xưng Nam-mô, nên sau làm vị Phật Bích-chi hiệu Nam-mô.

Bấy giờ, A-nan liền đến trước lễ Phật, thưa rằng:

- Thưa vâng, bạch thế tôn! Như lời dạy của Phật.

Khi ấy, Tôn giả Ðại-mục-kiền-liên đến trước Phật bạch:

- Bây giờ con muốn xuống địa ngục A-tỳ, nói về yếu hạnh nhẫn nhục, hoan hỷ cho Ðề-bà-đạt-đa.

Phật bảo Mục-liên:

- Thầy nên biết, chớ vội vàng hung bạo, chuyên tâm chánh ý chớ khởi loạn tưởng. Vì sao? Hạng chúng sanh cực ác khó điều phục, khó thành tựu, vậy sau mới đọa vào địa ngục A-tỳ. Lại, tội nhơn kia không hiểu âm thanh đối đáp qua lại của cõi Người.

Mục-liên bạch Phật:

- Nay con hiểu được sáu mươi bốn âm thanh, thông suốt ngôn ngữ, con sẽ dùng âm thanh ấy nói với ông ấy.

Phật bảo Mục-liên:

- Thầy nên biết đúng thời.

Khi ấy, A-nan nghe như vầy, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm. Đại-mục-kiền-liên lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, liền ở trước chỗ Phật, sang địa ngục A-tỳ nhanh như trong khoảng lực sĩ duỗi tay. Bấy giờ, Ðại Mục-liên đang ở địa ngục A-tỳ đứng trên không khảy móng tay kêu:

- Ðề-bà-đạt-đa!

Ðề-bà-đạt-đa im lặng không đáp. Các ngục tốt hỏi Mục-liên:

- Nay Tôn giả gọi Ðề-bà-đạt-đa nào?

Ngục tốt lại bảo:

- Trong đây cũng có Ðề-bà-đạt-đa thời Phật Câu-lưu-tôn, Ðề-bà-đạt-đa thời Phật Câu-na-hàm-mâu-ni, Ðề-bà-đạt-đa thời Phật Ca-diếp, cũng có Ðề-bà-đạt-đa cư sĩ, Ðề-bà-đạt-đa xuất gia. Nay Tôn giả muốn gọi Ðề-bà-đạt-đa nào?

Mục-liên đáp:

- Nay ta muốn mời Ðề-bà-đạt-đa em con nhà chú của Phật Thích-ca Văn, nên cần được gặp.

Khi đó, ngục tốt tay cầm xích sắt, đốt lửa đổ chích vào thân Ðề-bà-đạt-đa để tỉnh giấc. Thân thế Ðề-bà-đạt-đa bị lửa đốt cháy cao ba mươi khuỷu tay. Các ngục tốt bảo:

- Ông là kẻ ngu, ngủ gì như thế!

Ðề-bà-đạt-đa bị các khổ bức bách, thưa rằng:

- Nay các Ông dạy bảo tôi điều gì?

Ngục tốt lại bảo:

- Ông hãy nhìn lên không trung!

Ðề-bà-đạt-đa theo lời ngước nhìn hư không, thấy Ðạ Mục-kiền-liên ngồi kiết-già trên hoa sen báu, rực rỡ như mặt trời vén mây, Ðề-bà-đạt-đa thấy rồi bèn nói kệ:

Ai hiện hào quang trời,
Như mặt trời vén mây,
Cũng như núi vàng chói.
Không có bụi nhơ nhớp?

Tôn giả Mục-liên dùng kệ đáp:

Ta, đệ tử Thích-ca,
Thuộc dòng dõi Cù-đàm,
Thanh văn trong ấy,
Tên là Ðại Mục-liên.

Ðề-bà-đạt-đa thưa với Mục-liên:

- Tôn giả Mục-liên! Cớ gì hạ cố đến nơi này? Nơi đây chúng sanh tạo ác, sau khi mệnh chung sanh vào nơi này.

Mục-liên đáp:

- Tôi do Phật sai nên đến đây, muốn thương xót nhổ sạch gốc khổ cho Ông.

Bấy giờ, Ðề-ba-đạt-đa nghe âm hưởng Phật, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, nói rằng:

- Cúi xin Tôn giả, đúng thời diễn nói. Ðức Thế Tôn có lời dạy gì? Lại nói đến đường ác chăng?

Mục-liên đáp:

- Ðề-bà-đạt-đa chớ lo sợ, địa ngục khổ nhất không hơn chốn này. Ðức Phật Thích-ca Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, thương xót tất cả các loài cho đến côn trùng nhỏ nhít, như mẹ thương con, tâm không sai biệt, tùy thời điểm nói trọn không để mất, cũng không trái với điều đã nói.

Nay chính từ miệng Phật dự ký. Ông vốn khởi niệm ác muốn hại Thế Tôn, lại đem việc ấy dạy người khiến hướng về đường ác; do nhân duyên tội báo ấy đọa vào địa ngục A-tỳ, sẽ trải qua một kiếp trọn không ra khỏi. Kiếp số ấy hết nghiệp tận mạng chung, sẽ sanh lên cõi trời Tứ thiên vương, lần lượt sanh lên cõi trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại trong sáu mươi kiếp không ở trong con đường ác, lưu chuyển chốn Trời, Người. Thân cuối cùng được làm người, cạo bỏ râu tóc mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, sẽ thành Bích-chi Phật hiệu Nam-mô. Vì sao thế? Do khi Ông sắp chết, xưng "Nam-mô" nên được danh hiệu ấy. Nay đức Như Lai quán sát lời nói lành "Nam-mô" nên Ông được danh hiệu đó, trong sáu mươi kiếp làm Bích-chi Phật.

Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa nghe xong vui mừng hớn hở, tâm lành phát sanh, lại bạch với Mục-liên:

- Lời nói của Như Lai quả nhiên không nghi, thương xót chúng sanhcứu tế vô lượng, đại từ đại bi hóa độ kẻ ngu. Dù cho ngày nay tôi nghiêng hông bên mặt trong địa ngục A-tỳ trải qua một kiếp, tâm ý vẫn chuyên nhất, trọn không mệt nhọc.

Tôn giả Mục-liên lại bảo Ðề-bà-đạt-đa:

- Thế nào, sự đau đớn của Ông nay có tăng giảm gì không?

Ðề-bà-đạt-đa nói:

- Thân tôi chịu khổ chỉ tăng chớ không giảm, nay được nghe Như Lai thọ ký danh hiệu, nỗi khổ giảm bớt không thể nói hết.

Mục-liên hỏi:

- Nay hoạn nạn của Ông, nguyên lai đau khổ giống như thế nào?

Ðề-bà-đạt-đa đáp:

- Bánh xe sắt nóng nghiền nát thân hình, lại có chày sắt đập nát thân thể, có voi đen dữ dày đạp thân tôi, lại có núi lửa đến dằn trên mặt tôi, Cà-sa ngày trước hóa làm lá đồng nóng quấn thân, nguyên lai đau khổ tình trạng như thế.

Mục-liên bảo:

- Ông có tự biết cội gốc tội báo, khiến chịu đau khổ chăng? Nay tôi phân biệt từng tội một, Ông muốn nghe chăng?

Ðề-bà-đạt-đa thưa:

- Xin vâng, đúng thời xin nói.

Tôn giả Mục-liên bèn nói kệ:

Xưa Ông ở chỗ Phật,
Phá hoại Tỳ-kheo Tăng,
Nay có chày sắt nóng,
Ðập quết trên thân Ông.
Vì hàng đại chúng kia,
Thanh văn bậc nhất,
Gây rối chúng Tỳ-kheo,
Nay có xe nóng nghiền.
Xưa Ông bảo vua thả,
Voi đen uống rượu say,
Nay có bầy voi đen,
Chà đạp trên thân mình.
Xưa ông vác đá lớn,
Xa ném đến Như Lai,
Nay quả báo núi lửa,
Ðốt Ông không chừa sót,
Xưa Ông dùng nắm tay,
Giết chết Tỳ-kheo-ni,
Nay bị lá đồng nóng,
Cuốn cháy không duỗi được.
Hành báo trọn không mất,
Cũng chẳng phải rỗng không,
Cho nên phải siêng năng,
Lìa các nguồn ác này.

Ðề-bà-đạt-đa! Ông vốn tạo cội gốc chính là các điều này, nên nhất tâm hướng về Phật, được phước lâu dài.

Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa lại bạch với Mục-liên:

- Nay xin nhờ Tôn giả Mục-liên cúi đầu lễ chân Thế Tôn, kính thăm Thế Tôn ngồi đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ tôi cũng lại lễ bái Tôn giả A-nan.

Tôn già Ðại-mục-kiền-liên phóng đại thần túc, khiến các khổ não trong địa ngục A-tỳ dừng lại, lại nói kệ này:

Ðều xưng Nam-mô Phật,
Bậc họ Thích tối thắng,
Vị ấy ban an ổn,
Dẹp trừ các khổ não.

Bấy giờ, chúng sanh trong địa ngục A-tỳ nghe Tôn giả Mục-liên nói kệ này rồi, hơn sáu vạn người được dứt quả báo khổ, liền mạng chung nơi ấy, sanh lên trời Tứ Thiên vương.

Tôn giả Mục-liên liền thâu thần túc, trở về tinh xá đến chỗ Thế Tôn, lễ chân Phật, đứng một bên Tôn giả bạch Phật rằng:

- Ðề-bà-đạt-đa cung kính vô lượng, thăm hỏi Thế Tôn ngồi đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ. Cũng lại hỏi thăm A-nan, và nói thế này: "Như Lai thọ ký cho trong sáu mươi kiếp, thành Bích-chi Phật hiệu Nam-mô, dù cho tôi nằm nghiêng hông mặt trong địa ngục A-tỳ, vẫn trọn không mệt nhọc."

Bấy giờ Phật nói:

- Lành thay,lành thay! Mục-liên, Thầy làm nhiều lợi ích, nhiều sự thấm nhuần, thương tưởng loài ngu tối, Trời Người được an lạc, khiến cho hàng Thanh văn của Như Lai dần đến Niết-bàn.

Thế nên! Mục-liên! Nên siêng năng thành tựu ba pháp. Vì sao thế? Nếu Ðề-bà-đạt-đa tu pháp lành về thân ba, miệng bốn, ý ba, ông ấy trọn đời không tham lợi dưỡng, cũng không tạo tội ngũ nghịch mà bị vào địa ngục A-tỳ. Vì sao? Phàm người tham lợi dưỡng, cũng không có tâm cung kính đối với Tam bảo, cũng không vâng giữ giới cấm, không đầy đủ về thân, khẩu, ý hành. Nên chuyên chú nhớ nghĩ về thân, khẩu, ý hành. Như thế, Mục-liên, nên học điều này!

Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có chúng sanh tu hành tâm từ giải thoát, lưu truyền rộng nghĩa ấy, vì người diễn nói, sẽ được mười một quả báo. Thế nào là mười một? Ngủ an ổn, thức an ổn, không chiêm bao dữ, Trời ủng hộ, Người thương mến, không có độc hại, không bị binh đao, nước, lửa, đạo tặc không xâm tổn, khi chết sanh lên trời Phạm thiên. Ðó gọi là Tỳ-kheo hay thực hành tâm từ được mười một phước này.

Thế Tôn liền nói kệ này:

Nếu người hành lòng từ,
Không có hạnh phóng dật,
Các kết dần dần mỏng,
Dần thấy dấu vết đạo.
Do hay hành lòng từ,
Sẽ sanh lên Phạm thiên,
Ðược diệt độ mau chóng,
Hằng đến chỗ vô vi.
Không sát, không tâm hại,
Cũng không ý hơn thua,
Lòng từ trùm tất cả,
Trọn không tâm oán hận.

Thế nên, Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thực hành lòng từ, lưu truyền rộng nghĩa ấy. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13890)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 13767)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 13197)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 13340)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 14125)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 14821)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 12721)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 20068)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 13734)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 11763)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11566)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 14306)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 17330)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 13037)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 16264)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 14191)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 18676)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 13753)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 14222)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 12791)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 14048)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 12399)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 14402)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 15202)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 18165)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 14576)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 19161)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 22784)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 14897)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 14554)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 14649)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13920)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 12664)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 15871)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 13615)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 13696)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 13849)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 14787)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 16731)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 14426)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 17734)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 15979)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 15030)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 11366)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 20204)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 12855)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 10725)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 14049)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 15211)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 11910)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 13980)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 18061)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 18852)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 14086)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 13524)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 16279)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 22719)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 16039)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 27772)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 12407)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM