Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 4: Phân biệt về Định

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8197)
Phẩm 4: Phân biệt về Định

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Quyển Hai

Phẩm 4: Phân biệt về Định

Hỏi: Vào thời kia, người ngồi thiền đã giữ giới luật được thanh tịnh, đang an trú trong cảnh giới thiện lành nhứt, cần nên làm thêm điều gì?

Đáp: Là khiến cho định được khởi lên.

Hỏi: Thế nào là định? Hình tướng của định ra sao? Định có công năng (= vị) gì? Khởi lên ra sao? Do đâu (= xứ) mà ra? Người nào thọ nhận thực hành? Thiền, giải thoát, định (-tâm), chỉ (= ý ngưng lại), cảm thọ khác nhau ra sao? Có bao nhiêu nguyên nhân đưa đến định? Điều gì làm định khởi lên, làm định bị trở ngại? Có mấy pháp về định? Công đức của định có những gì? Cần bao nhiêu điều có trước rồi định mới khởi lên? Có mấy loại định? Định khởi lên cách nào?

Đáp: Định có nghĩa là tâm thanh tịnh, gom về một hướng, tinh tấnvắng lặng an trú trong chơn lý chơn chánh, chẳng hề bị loạn động.

Lại nữa, ngọn gió mãnh liệt của phiền não chẳng thể làm nghiêng ngả được tâm tư, cũng tựa như ngọn đèn chẳng lay động treo trong đại sảnh nơi cung điện. Như có nói trong A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận tạng): "Nếu tâm an trú đúng đắn, chẳng bám vịn vào đâu, cũng chẳng loạn động, yên vắng, chẳng bị ràng buộc, khiến cho định căn (= khả năng đắc được Định) và định lực sức mạnh của Định được đúng đắn; đó gọi là định."

Định: hình tướng, công năng, khởi lên ra sao và từ đâu?

Tâm an trúhình tướng của định. Điều phục được sự oán hờn là vị của định (hay công năng của Định, tức là nhờ Định mà dẹp bỏ được oán hờn). Yên vắng là sự khởi phát của định. Vào chỗ ô nhiễm chẳng bị nhuốm dơ, tâm được giải thoát, đó gọi là nơi (xứ) định được khởi phát lên.

Người đang tập định như thế nào? Tâm, tâm sở (= các tâm trạng), và các phương tiện (= ở đây có nghiã là khả năng), đều quân bình (= ngang nhau), tựa như tay cầm cây cân đòn, như dầu đựng trong chén. Chánh niệmtinh tấn cùng đi song hành ngang nhau, cũng tựa như bốn con ngựa, sức mạnh đồng nhau, cùng kéo một cổ xe. Các nghĩ suy đứng dừng lại, như người thợ làm tên đang chú tâm vót tên cho thật thẳng. Định cũng như liều thuốc giải được chất độc, vì định làm tiêu nỗi oán hờn.

Như A-tỳ-đàm có nói: "Ý nghiã của Định là sự liễm nhiếp" (liễm = thâu góp lại; nhiếp = thay thế và bao trùm hết lại). Theo ý nghiã nầy của chữ Định là có được một định nghiã hàm súc đầy đủ.

Thiền, là nói tới sơ thiền cho đến tứ thiền.

Giải thoát, là nói đến tám pháp giải thoát, như pháp "có sắc tướng bên trong, quán sắc bên ngoài" bảy pháp khác.

Định, là nói đến ba pháp định: giác (= biết, còn gọi là tầm), có quán (= suy tư, còn gọi là tứ) và vân vân.

Chánh thọ nói đến chín cấp bực thiền định.

Thiền là gì? Đó là tư duy (= suy nghĩ) về sự (= đối tượng), suy xét về điều oán hờn, làm cho tâm được sự mừng vui, thoát các chướng ngại, khiến tâm trở nên bình đẳng, có đủ phương tiện để đắc định, được sự tự tại (= tự do, ở đây có nghiã đã thuần thục, chẳng còn ngại gì), chẳng dùng đến hai nghiã (= liễu nghiã, nghiã rốt ráo; bất liễu nghiã, nghiã còn chưa rốt ráo), mà vẫn trú vào chánh thọ, để được giải thoát.

Định đem đến các công đức nào? Thấy có bốn công đức khi định được khởi lên. Bốn công đức nào? Đó là: hiện được an trú trong nguồn vui của Pháp, vui hưởng tất cả sự vật nhờ quán tưởng, chứng được thần thông, vươn lên đến khắp mọi cõi.

Thế nào là "hiện được an trú trong nguồn vui của Pháp"? Người đắc định sanh ra vô lậu (= dứt sạch các phiền não), tâm sảng khoái nếm được niềm vui xuất thế, hiện thấy được và an trú trong nguồn vui của Chánh Pháp. Do đó, Thế Tôn có nói: "Người ấy thân giữ trong sự tĩnh lặng, sanh ra mừng được sự mát mẻ khiến cho từ từ được thành tựu hoàn toàn đầy đủ." Lại nữa, Đức Phật có bảo các Tỳ-kheo rằng: "Trước ta tập hạnh Ni-càn-tử (Nigantha, phái khổ hạnh loã thể), bảy ngày bảy đêm thân chẳng lay động, miệng chẳng mở lời, ngồi im lặng hưởng thọ niềm an lạc." Đó là thấy được Pháp và hiện an trú trong nguồn vui của Thánh Pháp.

Thế nào là "vui hưởng tất cả mọi sự vật nhờ quán tưởng"? Người ngồi thiền được định, tâm chẳng bị năm triền cái bao phủ (triền cái = năm món che đậy), trở nên mềm dịu dễ kham việc quán tưởng các sự vật, phân biệt rõ ràng các ấm (năm uẩn = sắc, thọ, tưởng, hành, thức), các nhập (sáu nhập = mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), các giới (= mười tám giới, từ nhãn giới đến ý thức giới), nên được sự tư tại, an lạc (đối với sự vật và hoàn cảnh). Vì thế, Thế Tôn dạy, chư Tỳ-kheo nên tu hành như thế, dùng định tâm quán sát tất cả để biết muôn sự vật đúng y như thật.

Thế nào là "chứng được thần thông"? Người đã đắc định tâm chứng được năm môn thần thông là như ý túc (biến hiện theo ý muốn), thiên nhĩ (lỗ tai Trời nghe xa), tha tâm (biết ý nghĩ kẻ khác), túc mạng (biết được đời kiếp trước), thiên nhãn (mắt Trời). Vì thế, Thế Tôn có nói, tâm đã đắc định, thì tùy nghi chuyển biến mọi sự như thể theo ý mình muốn.

Thế nào là "vươn lên đến khắp mọi cõi" (nguyên văn: hữu cụ túc; hữu, đây, có nghiã là cõi, ba cõi: dục giới, sắc giới vô sắc giới)? Người đã được định tâm, dầu chưa đến bực vô học (= bực A-la-hán, đã dẹp xong tất cả phiền não, nên chẳng cần học thêm nữa) nhưng rốt ráo cũng được chẳng lùi sụt. Nhờ định mà được báo thân (= thân còn chịu nghiệp báo) sanh vào cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, vươn lên khắp mọi cõi. Như Đức Phật có nói: "Dầu người tu chút ít về sơ thiền cũng được sanh làm quyến thuộc (= bà con thân thích) của Đức Phạm Thiên (trên cõi Trời sắc giới); tất cả mọi chủng loại đều được như thế cả."

Trên đây là bốn công đức khởi lên nơi người đắc định.

Có mấy chướng ngại cho định tâm? Có tám: thú vui (làm thoả mãn các giác quan), giận hờn, lười biếng, mê ngủ, đùa bỡn, nghi hoặc, vô minh (= si mê), chẳng mừng vui. Tất cả các điều dữ ác đều làm trở ngại cho định tâm.

Có mấy nguyên nhân khởi lên Định? Có tám nguyên nhân khiến cho tâm được định: dứt bỏ, chẳng giận, tướng sáng (= sự thông minh, có trí huệ), chẳng xao động, và tất cả các pháp thiện lành khiến tâm mừng vui sanh ra trí huệ.

Các điều nào cần phải có rồi định mới khởi? Có bảy loại: giới, vừa ý biết đủ, che giữ các căn, ăn uốngtiết độ, đầu hôm nửa đêm và hừng sáng chẳng mê ngủ, thường niệm trí huệ, ở nơi vắng lặng.

Định có mấy loại? Định có hai loại: thứ nhứt, thế gian định; thứ hai, xuất thế gian định. Việc đắc được các Thánh quả (= bốn quả vị Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán) thuộc về định xuất thế gian (xuất thế,đây, có nghiã là vượt khỏi sự ràng buộc của cuộc đời thế tục). Các thứ Định còn lại đều thuộc về thế gian định. Các thứ định thế gian nầy còn hữu lậu (= còn phiền não), còn kết sử (= điều trói buộc và sai sử), còn ràng buộc, là nước lụt, là ách nặng, là che úp, là cướp giới cuớp chánh kiến, là bám níu, là phiền não. Có đối trị được với các hình tướng của các định thế gian rồi thì mới đáng gọi là định xuất thế.

Lại nữa, định có hai loại: tà địnhchánh định. Thế nào là tà định? Chẳng khéo giữ nhứt tâm, đó gọi là tà định. Khéo giữ nhứt tâm gọi là chánh định. Tà định cần được dẹp bỏ; chánh định cần nên tu tập.

Lại nữa, định có hai loại: ngoại định và an định. Phần định mới khởi đầu thì gọi là ngoại định. Trừ được sự gián đoạn ngăn cách rồi mới gọi là an định.

Lại nữa, định có ba loại: định có giác có quán, định chẳng giác ít quán và định chẳng giác chẳng quán. Thế nào là định có giác có quán? Đó là Sơ thiền (= thiền cấp 1) có giác (còn gọi là tầm), có quán (còn gọi là tứ); Nhị thiền (= thiền cấp 2) hết giác mà còn chút ít quán. Các cấp thiền còn lại thì chẳng có giác chẳng có quán.

Lại nữa, định có ba loại: định sanh có mừng sanh, định sanh có vui sanh, định sanh có xả sanh. Nơi Sơ thiềnNhị thiền, định sanh ra cùng với nỗi mừng (= hỉ). Nơi Tam thiền, định sanh cùng với niềm vui (= lạc). Nơi Tứ thiền, định khởi lên cùng với niệm buông xả (= xả).

Lại nữa, định có ba loại: thiện định, báo định và sự định. Thế nào là thiện định? Người tu học Thánh đạo, cùng với người thường tu sắc định và vô sắc định, đó gọi là thiện định (= định khéo). Còn người tu học Thánh quả cùng với phàm phu được sanh cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, đó gọi là báo định (được định nhờ nghiệp báo). Bực vô học (đã chứng quả vị A-la-hán) được sắc định và vô sắc định, đó gọi là sự định (định có đối tượng thực tại).

Lại nữa, định có bốn loại: dục định, sắc định, vô sắc định, vô sở thọ định. Tất cả các hành động được làm theo đúng chánh thọ, đó là dục định. Bốn cấp thiền là sắc định. Bốn cấp vô sắc định nghiệp báo lành là vô sắc định. Bốn thánh đạo và bốn thánh quảvô sở thọ định.

Lại nữa, có bốn cách tu hành về định: độn trí khổ tu, lợi trí khổ tu, độn trí vui tu, lợi trí vui tu. (độn căn, độn trí = có trí chậm chạp; lợi căn, lợi trí = trí thông minh lanh lợi). Có bốn hạng người nầy: thứ nhứt, có nhiều phiền não sâu dầy; thứ hai, phiền não thưa thớt; thứ ba, căn trí lanh lợi; thứ tư, trí óc cùn nhụt.

Nơi người độn căn còn nhiều phiền não sâu dầy cần tu hành khó nhọc thì độn trí mới đắc định. Nơi người lợi cănphiền não còn sâu dầy, cần khổ tu thì lợi trí đắc định. Nơi người độn cănphiền não thưa thớt, nếu vui tu thì độn trí đắc định. Nơi người lợi cănphiền não thưa thớt, nếu vui tu thì lợi trí đắc định.

Như thế, người phiều não sâu dầy, vì cớ còn phiền não cần phải chiết phục (= dẹp, trừ bỏ), do đó việc tu hành mới khó nhọc. Người độn căn, vì cớ căn cơ chậm chạp, cần hành thiền lâu dài để làm thức dậy trí óc cùn nhụt, do đó trước mới gọi đó là độn trí. Dùng phương tiện đó để phân biệt tất cả.

Lại nữa, định có bốn loại: định nhỏ về sự việc nhỏ, định nhỏ về sự việc vô lượng, định vô lượng về sự việc nhỏ, định vô lượng về sự việc vô lượng.

Thế nào là định nhỏ về sự việc nhỏ? Định chẳng theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc nhỏ, vì ít tinh tấn, đó gọi là định nhỏ về sự việc nhỏ. Thế nào là định nhỏ về sự việc vô lượng? Định chẳng theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc vô lượng, với nhiều tinh tấn, đó gọi là định nhỏ về sự việc vô lượng. Thế nào là định vô lượng về sự việc nhỏ? Định theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc nhỏ, với ít tinh tấn, đó gọi là định vô lượng về sự việc nhỏ. Thế nào là định vô lượng về sự việc vô lượng? Định theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc vô lượng, với nhiều tinh tấn, đó gọi là định vô lượng về sự việc vô lương.

Lại nữa, định có bốn loại: dục định, tinh tấn định, tâm định, huệ định. Dục định y theo ý muốn mà tu đắc định. Y theo sự tinh tấn mà tu đắc định gọi là tinh tấn định. Y theo tâm mà tu đắc định gọi là tâm định.Y theo trí huệ mà tu đắc định,gọi là huệ định.

Lại nữa, định có bốn loại: định Phật đắc Thanh văn chẳng đắc được, định Thanh văn đắc mà chẳng phải chỗ Phật đắc, định Phật đắc, Thanh văn cũng đắc, định chẳng phải chỗ đắc của Phật và của Thanh văn. Định đại bi, định song biến là chỗ đắc của riêng Phật, hàng Thanh văn chẳng đắc được. Định về quả vị hữu học (= ba quả đầu tiên của Thanh văn) là chỗ đắc của hàng Thanh văn, chẳng phải của Phật. Định cửu thứ đệ (chín cấp từ sơ thiền đến diệt tận định) và định về quả vị vô học (= cấp A-la-hán trở lên) là chỗ đắc của Phật và Thanh văn. Vô tưởng định chẳng phải là chỗ đắc của Phật và Thanh văn.

Lại nữa, định có bốn loại: (1) định duyên khởi duyên diệt, (2) định duyên diệt chẳng duyên khởi, (3) định duyên khởi chẳng duyên diệt, (4) định chẳng duyên khởi chẳng duyên diệt.

Hỏi: Thế nào là duyên khởi chẳng duyên diệt?

Đáp: Nơi cõi dục giới, định khéo và định chẳng khéo là định duyên khởi chẳng duyên diệt. (Duyên khởi = làm nhơn duyên cho sự khởi sanh ra; duyên diệt = làm nhơn duyên gây ra sự tiêu diệt). Định về về bốn Thánh đạo định duyên diệt chẳng duyên khởi. Định khéo của bực hữu học và của phàm phu về cõi sắc giới và cõi vô sắc giới định vừa duyên khởi vừa duyên diệt. Tất cả các định về quả vị và sự định đều là định chẳng duyên khởi chẳng duyên diệt.

Lại nữa, định có bốn loại: sơ thiền, nhị thiền, tam thiềntứ thiền. Lià được năm triền cáithành tựu được giác (= tầm), quán (= tứ), hỉ (= mừng), lạc (= vui), nhứt tâm (= tâm an trú), đó là Sơ thiền. Lià được giác, quán và thành tựu được ba thiền chi (= gồm có hỉ, lạc và nhứt tâm) là Nhị thiền. Lià thêm được hỉ và thành tựu hai thiền chi (gồm có lạc và nhứt tâm) là Tam thiền). Lià được lạc và thành tựu được xả và nhứt tâm thì được Tứ thiền.

Lại nữa, định có năm loại: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và ngũ thiền. Ngũ thiền tức là năm thiền chi: giác, quán, hỉ, lạc, nhứt tâm. Lià được năm triền cái, thành tựu được năm thiền chi, đó gọi là Sơ thiền. Lià giác, thành tựu bốn thiền chi, đó gọi là Nhị thiền. Lìa hỉ và thành tựu hai thiền chi, đó gọi là Tam thiền. Lià thêm lạc và thành tựu hai chi còn lại, tức là xả và nhứt tâm, thì đắc Tứ thiền.

Hỏi: Tại sao lại nói tứ thiền cùng với ngũ thiền?

Đáp: tùy theo hai hạng người khác nhau mà Nhị thiền có tới hai loại: loại (1) chẳng giác chẳng quán, và loại (2) chẳng giác mà còn chút ít quán. Vì thế, nên có ngũ thiền.

Hỏi: Bằng cách nào người ngồi thiền chuyển từ Sơ thiền sang Nhị thiền?

Đáp: Nơi giácquán còn thô, người ngồi thiền thâu nhiếp niệm tư duy lại, rồi thấy các sự bất lợi của giác và của quán, liền khởi lên sự chấm dứt giác, quán, nơi Nhị thiền. Bằng cách đó, người ấy tuần tự tu tiếp cho đến Tứ thiền.

Lại có người khác cũng từ Sơ thiền chuyển khởi sang Nhị thiền. Người ấy từ giác còn thô, thâu nhiếp sự tư duy lại, nhận được sự bất lợi của giác, đồng thời thấy ra mất giác còn chút ít quán, nên khởi lên được Nhị thiền. Do theo đấy, người ấy tuần tự tu cho đến Ngũ thiền. Vì lẽ đó mà có nói đến Ngũ thiền.

Lại nữa, có năm loại định được gọl là năm phần của chánh thọ: hỉ mãn, lạc mãn, tâm mãn, quang mãn và quán tưởng. Nơi Sơ thiềnNhị thiền, tràn đầy nỗi mừng (hỉ mãn = mừng tràn đầy). Nơi Tam thiền, niềm vui tràn đầy (lạc mãn = vui tràn đầy). Biết được tâm của kẻ khác, đó gọi là tâm mãn (= tâm mở rộng ra khắp). Có được thiên nhãn thông (= mắt Trời thấy xa), đó gọi là quang mãn (quang = ánh sáng; mãn = tràn đầy). Theo dõi được mọi tư tưởng, định khởi lên quán sát trí, đó gọi là quán tưởng.

Lại nữa, định có năm loại gọi là năm trí chánh định. Định đó do từ niềm vui trong hiện tạivị lai, theo thân trí mà khởi lên. Định đó được bực Thánh thực hành, chẳng còn phiền não. Định đó được bực trí huệ tu tập. Định đó yên vắng, khoái lạc, nhưng dầu chỗ đắc là vô song nhưng vẫn còn chưa khuất phục được việc sanh tử. Định đó an vui cao nhứt, theo tánh của chỗ sở đắc vẫn chẳng khuất phục được sanh tửngã kiến. Định đó, niệm nhập (nhập = vào), niệm khởi đều y vào thân trí mà khởi lên.

Lại nữa, đã phân biệt phạm vi của định, sự tu hành với các giai đoạn đầu, giữa và chót, đã biết định có nhiều loại, nhưng cũng nên hiểu rằng tất cả định đều qui về bốn loại thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14786)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11858)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12787)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10374)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12084)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15318)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11115)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10567)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12494)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16457)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14341)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11817)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14839)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12053)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16878)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11604)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12758)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11365)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12078)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52215)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15496)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13985)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11465)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13202)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12806)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13243)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17939)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12474)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12680)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54240)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14451)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9952)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13839)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58036)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14531)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20171)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13822)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15430)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17518)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13336)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11948)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13512)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14688)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12513)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12175)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12085)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13316)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12563)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13679)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13349)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25633)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12204)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14585)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11884)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42106)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28373)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38841)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14739)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12722)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16259)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant