Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chi 4: Mười Niệm (tiếp theo)

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9187)
Chi 4: Mười Niệm (tiếp theo)

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Quyển thứ Bảy

Phẩm 8, Chi 4: Mười Niệm (tiếp)

Hỏi: Thế nào là Niệm Hơi thở? (Pàli: Ànàpànasati, phiên âm là An ban = hơi thở). Thế nào là tu, tướng, vị, xứ, công đức của Niệm Hơi thở? Thế nào là tu hành?

Đáp: Niệm An ban, tức Niệm Hơi thở; an là tướng hơi thở ra; ban là tướng hơi thở vào. Niệm đó theo sát niệm, giữ đúng chánh niệm, đó gọi là niệm an ban, hay là niệm hơi thở. Tâm trú chẳng loạn, đó là tu. Niệm khởi lên tư tưởng về hơi thở, đó là tướng. Suy nghĩ về sự va chạm của hơi thở vào mũi, đó là vị, hay là chức năng của niệm hơi thở. Chấm dứt giác (hay tầm, tức là tâm hay biết), đó là xứ, hay là phạm vi hoạt động của niệm hơi thở.

Về công đức của niệm hơi thở, người tu hành niệm hơi thở trở nên an vắng, thắng diệu, trang nghiêm, khả ái và vui vẻ. Nếu tâm khởi lên nhiều pháp chẳng lành thì niệm trừ dứt, thân thành chẳng lười nhác, mắt cũng chẳng lười nhác, thân chẳng loạn động, tâm chẳng giao động, khiến cho bốn lãnh vực quán niệm được đầy đủ, bảy giác chi cũng đầy đủ và sự giải thoát được trọn vẹn. Đấy là nơi Thế tôn khen ngợi; các bực Thánh, các Trời Phạm, các đức Như Lai thường an trú.

Tu niệm hơi thở như thế nào? Người mới tập thiền đi đến nơi yên vắng, hoặc nơi chùa chiền, hoặc dưới gốc cây, tại nơi an tịch đó, ngồi kiết già (xếp bằng hai chơn tréo nhau), thân, lưng thẳng. Người đó niệm hơi thở vào, niệm hơi thở ra, nếu hơi thở ra dài, biết tôi đang thở ra dài, như thế mà biết. Nếu hơi thở vào dài, tôi đang thở vào dài, cứ như thế mà biết. Nếu hơi thở ra ngắn, tôi đang thở ra ngắn, cứ như thế mà biết. Tôi thở vào, biết như thế. Tôi thở ra, biết như thế. Biết mừng, biết vui, biết các tâm hành và khiến chấm dứt các tâm hành, khiến khen ngợi tâm mừng, khiến giáo hoá tâm, khiến tâm được giải thoát. Thấy vô thường, thấy sự chẳng ham muốn, thấy sự diệt khổ, thấy sự xuất ly (= lìa bỏ), cứ như thế mà biết. Thấy sự xuất ly, tôi thở ra như thế. Thấy và biết sự xuất ly, tôi thở ra như thế.

Như thế, người ấy học tập về hơi thở vào, có nghĩa là, cột niệm vào nơi chót mũi, hoặc trên môi (ở miệng), hai nơi nầy là chỗ hơi thở khi vào, ra, chạm đến. Người ấy quán sát sự va chạm của hơi thở vào, hơi thở ra, nơi chót mũi, hay trên môi, hoặc hiện niệm khi hơi vào, hoặc hiện niệm khi hơi ra.

Hiện niệm khi hơi vào mà chẳng khởi lên ý tưởng gì. Hiện niệm khi hơi ra, cũng chẳng tác ý. Chính nơi hơi thở vào ra va chạm vào chót mũi hay trên môi, là nơi phải quán sát để biết. Hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, cũng như người cưa gỗ ngó theo sức cây cưa mà chẳng khởi lên ý tưởng về lưỡi cưa đang chạy tới lui. Cũng vậy, người ấy khi thở ra, thở vào, cũng chẳng khởi lên ý tưởng về hơi thở vào, ra va chạm vào chót mũi, hay trên môi, mà dùng niệm để biết hiện niệm hơi vào, hiện niệm hơi ra. Nếu người ấy theo sự vào ra của hơi thở mà khởi lên ý vào trong, khởi lên ý ra ngoài, thì tâm trở nên loạn động. Nếu loạn động, thân trở nên giải đãi, tâm trở nên giao động, đó là một lỗi lầm.

Khi thở hơi thật dài, hoặc hơi thật ngắn, cũng chẳng nên tác ý. Nếu cố ý thở thật dài, hoặc thở thật ngắn, thân cũng trở nên giải đãi và tâm thành giao động, đó cũng là một lỗi lầm. Do đó, đối với mỗi loại tướng của hơi thở, chẳng nên để cho ý dính mắc vào. Nếu để dính mắc, tâm sẽ chạy theo các duyên khác mà trở nên loạn động. Nếu tâm loạn, thân cũng trở nên giải đãi, xao động, đó lại là một lỗi lầm. Vô biên hơi thở ra vào khởi lên, lấy vô biên xúc chạm mà tác ý tưởng, như thế tâm chẳng loạn.

Nếu tâm chậm lụt, hay nhanh bén, chẳng nên khởi tinh tấn, vì khi chậm lụt mà khởi tinh tấn thì thân giải đãi, buồn ngủ, còn khi nhanh bén mà khởi tinh tấn, tâm thành xao động.

Nếu người toạ thiền để cho sự giải đãi, buồn ngủ cùng khởi lên với sự giao động, thì thân và tâm sẽ lười nhác và chẳng yên, đó cũng lại là một lỗi lầm.

Người toạ thiền rửa sạch chín phiền não nhỏ, khiến tâm thanh tịnh, hiện niệm hơi thở vào, tướng ấy khởi lên, đó gọi là tướng niệm hơi thở. Như rút lấy bông gòn ra cọ xát đầy đủ vào thân tựa như làn gió mát thoảng trên da, gây nên cảm giác khoan khoái; hơi thở ra vào chạm vào chót mũi, trên môi, lại cũng như vậy; niệm khởi ý tưởng về gió, chẳng do hình sắc, đó gọi là tướng của niệm hơi thở.

Nếu người toạ thiền tu niệm nhiều khiến cho tướng ấy tăng trưởng lên, lan rộng khoảng giữa hai chơn mày, khắp trán, khiến cho cả đầu đều đầy cả gió. Tự đó, khiến cho tăng trưởng thêm lên nữa, đến cả toàn thân đều tràn đầy niềm an lạc, đó gọi là đầy đủ.

Lại nữa, nếu ngay buổi đầu, thấy những tướng kỳ lạ như khói, như sương mù, như bụi bặm, như kim chích, như kiến cắn, như các loại màu sắc khác, nếu người toạ thiền chẳng có đủ sáng suốt để hiểu rõ các dị tướng đó, thì tư tưởng kỳ dị nổi lên khiến tâm thành điên đảo, chẳng khởi lên được tưởng hơi thở ra vào. Nếu đủ sáng suốt hiểu rõ, người toạ thiền chẳng khởi lên ý tưởng kỳ dị, hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, mà chẳng nổi lên các tư tưởng khác. Nếu tác ý như thế thì các tướng kỳ dị tự biến mất.

Người toạ thiền đắc được tướng vi diệu, tâm chẳng buông lung, hiện niệm hơi thở vào, ra. Khi tướng đó đã được tự tại, nhuần nhã rồi, liền khởi lên ý muốn tu hành. Do ý muốn tu được tư tại rồi, niệm hơi thở nầy vào, hơi thở nầy ra, rồi nỗi mừng (= hỉ) sanh ra. Khi nỗi mừng được tự tại, và ý muốn cũng tự tại, hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, và khởi lên niệm xả. Khi niệm xả đã tự tại, ý muốn cùng nỗi mừng vẫn còn tự tại, thì vẫn niệm hơi thở vào, niệm hơi thở ra mà tâm chẳng loạn. Khi tâm đã hết loạn động rồi, các triền cái đều diệt hết và các thiền chi liền khởi lên. Người tọa thiền ấy đã đắc được cõi tịch diệt thắng diệu của bốn cấp thiền.

Phần còn lại như đã được nói rộng qua trước đây.

Lại nữa, các vị tiên sư có dạy bốn cách tu về Niệm An ban gọi là: toán, tùy trục, an trí, tùy quán.

Hỏi: Thế nào gọi là toán, (hay là đếm)?

Đáp: Người mới tập thiền đếm từ một đến mười, kể từ hơi thở ra đầu tiên cho chí đến hơi thở vào thứ mười, chẳng đếm quá mười. Lại nữa có thuyết dạy, chỉ đếm tới năm, chẳng đếm quá năm. Chẳng được đếm lộn; nếu lộn, ngưng đếm tiếp và trở lại hơi thở đầu. Theo sự vào ra của hơi thở mà niệm, cho đến khi được an trú, đó gọi là toán hay là đếm.

Gọi là tùy trục hay là theo đuổi sát, có nghiã là đếm chăm chỉ đuổi theo sát hơi thở vào, hơi thở ra, chẳng hề gián đoạn; đó gọi là tùy trục.

Gọi là an trí hay là trụ yên vào, có nghiã là, hoặc tại chót mũi, hoặc trên môi là nơi hơi thở vào, ra va chạm phải, tại nơi đó liền khởi lên ý tưởng gió khiến cho niệm trụ yên ở đấy, đó gọi là an trí.

Gọi là tùy quán hay là quán sát theo, có nghiã là, khi nhận thấy sự va chạm đã được dễ dàng, thì nên tại chỗ đó quán sát tướng ấy và sự mừng, vui, cùng các pháp khác cũng khởi lên ở đấy, rồi cứ tùy theo đó mà quán, đó gọi là tùy quán.

Phương pháp toán, hay là đếm, khiến cho giác (hay tầm, hoặc sự hay biết của tâm) diệt đi, giúp vượt qua được thiền chi giác nầy.

Phương pháp tuỳ trục, hay là cách theo đuổi sát, giúp dẹp bỏ được niệm giác thô nơi hơi thở ra vào, khiến niệm niệm chẳng gián đoạn.

Phương pháp an trí hay là yên trụ vào, giúp dẹp bỏ sự xao lãng, khiến tư tưởng được bất động.

Phương pháp tùy quán, hay là quán sát theo, giúp thiền giả thọ trì được tư tưởng về niệm hơi thở, phân biệtđược các thắng pháp.

(Mười sáu hơi thở ra vào)

(1)."Thở vào dài, thở ra ngắn, thở vào ngắn, nên theo đó mà học tập", tức là, khéo nhận thấy được chỗ hơi trải qua nơi tánh dài, ngắn của chúng; đấy là hiện biết đối tượng (= sự) và chẳng lẫn lộn.

Hỏi: Thế nào là chẳng lẫn lộn và đối tượng (= sự)?

Đáp: Người mới toạ thiền, thân tâm đã được yên ổn, an trú niệm nơi hơi thở vào ra, khiến hơi thở trở thành tế nhị. Vì tế nhị, nên khó nắm giữ lấy. Khi đó, người ấy nếu thở hơi dài, thì quán biết rõ hơi dài, mãi cho đến khi tướng khởi lên. Nếu tướng đã khởi trú, thì nên tác ý biết rõ tánh của nó; đó gọi là chẳng lẫn lộn.

Lại nữa, tâm theo sát hơi thở để biết có khi thở dài, có lúc thở ngắn, cứ như thế mà tu tập. Lại nữa, người toạ thiền, qua đối tượng hơi thở, khởi tướng được phân minh; đối tượng (= sự) đó nên tu tập.

(2). "Biết tất cả thân, tôi thở vào, nên như thế mà học tập". Có hai cách để "biết tất cả thân": (1) chẳng lẫn lộn, (2) biết rõ sự (= đối tượng).

Hỏi: Thế nào là "biết tất cả thân" chẳng lẫn lộn?

Đáp: Người toạ thiền niệm hơi thở đắc định qua sự xúc chạm, thân tâm tràn đầy mừng, vui. Do thể nghiệm được mừng, vui, xúc chạm đầy đủ, nên thành ra biết tất cả thân chẳng lẫn lộn.

Hỏi: Thế nào là lấy sự"biết tất cả thân"?

Đáp: Các hơi thở ra, vào, là nơi trú xứ của sắc thân, gồm có hơi thở, tâm và các tâm sở; các yếu tố của thân và thân, đó gọi là tất cả thân.

Người toạ thiền như thế lấy các yếu tố của thân mà biết tất cả thân, biết rằng: tuy có thân đó nhưng chẳng hề có chúng sanh nào, chẳng hề có thọ mạng nào.

(3). "Như thế mà học tập", đó là ba môn học: (1) tăng thượng giới học; (2) tăng thượng tâm học; (3) tăng thượng huệ học.

Giới như thực, đó là tăng thượng giới học. Định như thực, đó là tăng thượng tâm học. Huệ như thực, đó là tăng thượng huệ học. (Tăng thượng: tăng = thêm; thượng = cao) (như thực = đúng theo sự thật, theo đúng với Chơn lý).

Người toạ thiền theo ba môn học đó, suy nghiệm về đối tượng của mỗi môn và tu tập. Tu tập nhiều lần cho nhuần nhã, đó gọi là học tập.

(4). "Khiến cho thân hành được an tịnh, tôi thở vào; như thế mà học tập."

Thế nào là thân hành? Khi thở ra, vào, thì thân khom cúi xuống, duỗi thẳng lên, nghiêng mình tới, ngã lùi lại, lay động, nhảy nhót, rung lên. Như thế, nơi thân hành (= hành động của thân), hiện nên làm cho được an tịnh.

Lại nữa, nơi các thân hành thô, khiến cho an tịnh thành tế, dùng thân hành tế để tu Sơ thiền. Từ thân hành tế đến thân hành tế hơn nữa, tu Nhị thiền. Từ thân hành càng tế hơn nữa, tu Tam thiền. Diệt hết các thân hành khác còn lại là tu Tứ thiền.

Hỏi: Nếu người toạ thiền chấm dứt mọi thân hành còn lại của hơi thở vào ra, làm sao ngưòi ấy tu niệm hơi thở được?

Đáp: Vì khéo giữ tướng ban đầu nên khi diệt hơi thở ra vào, tướng ấy vẫn khởi lên, dầu có sự ngưng thở. Tại sao vậy? Vì đã biết các thiền tướng.

(5). "Thể nghiệm nỗi mừng (Hỉ), tôi thở vào, như thế mà học tập." Người toạ thiền hiện đang niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, khởi lên hỉ tại hai nơi thiền (Sơ thiềnNhị thiền). Biết được nỗi mừng (hỉ) đó bằng hai cách: (1) do chẳng lẫn lộn, (2) do sự (đối tượng). Như thế, khi nhập định, người ấy biết mình đang thể nghiệm được nỗi mừng, qua sự chẳng lẫn lộn, qua sự quán chiếu, qua sự đối trị, qua đối tượng hơi thở.

(6). "Thể nghiệm niềm vui (Lạc), tôi thở vào, như thế mà học tập." Người toạ thiền hiện đang niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, nơi Tam thiền khởi lên niềm vui (= lạc). Biết được niềm vui đó bằng hai cách: (1) do chẳng lẫn lộn, (2) do sự (= đối tượng hơi thở).

Phần còn lại, như đã nói qua ở Sơ thiền.

(7). " Thể nghiệm tâm hành, tôi thở vào, như thế mà học tập." Nói tâm hành là nói đến thọ, tưởng, được khởi lên nơi Tứ thiền. Biết được các tâm hành đó bằng hai cách: (1) do chẳng lẫn lộn, (2) do sự (= đối tượng hơi thở).

Phần còn lại như đã được nói qua trước đây.

(8). " Khiến cho tâm hành được an tịnh, tôi thở vào, như thế mà học tập" Nói tâm hành là nói đến thọ, tưởng nơi tâm còn thô, nay học tập khiến tâm hành thô đó trở nên an tịnh.

Phần còn lại như đã được nói qua trước đây.

(9). " Thể nghiệm Tâm, tôi thở vào, như thế mà học tập." Người toạ thiền hiện đang niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, tâm đó theo dõi đối tượng hơi thở. Biết được tâm ấy bằng hai cách: (1) do chẳng lẫn lộn, (2) do sự, tức là do đối tượng hơi thở.

Phần còn lại cũng như đã được nói qua trước đây

(10). "Khiến Tâm trở nên hoan hỉ, tôi thở vào, như thế mà học tập." Làm cho tâm hoan hỉtán thán (= khen ngợi) sự hoan hỉ. Nơi Nhị thiền, do mừng (= Hỉ) mà tâm nhảy nhót, xao động, nên học biết như thế. Phần còn lại như đã nói qua.

(11). "Khiến giáo hoá Tâm, tôi thở vào, như thế mà học tập." Người toạ thiền hiện đang niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, dùng niệm và khởi ý lên khiến tâm an trú vào đối tượng hơi thở (= sự), và khiến cho tâm được chuyên nhứt (= gom tâm lại), đó là giáo hoá tâm an trú, phải nên học tập như thế.

(12). "Khiến giải thoát Tâm, tôi thở vào, như thế mà học tập." Người toạ thiền hiện đang niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, nếu tâm trở nên trì huởn (= chậm lụt) thành ra giải đãi (= lười nhác), thì khiến tâm được giải thoát. Nếu tâm bén nhạy (= lợi tật) mà trở nên vọng động, nên khiến tâm được giải thoát, như thế mà học tập. Nếu tâm lên cao mà thành ô nhiễm, cũng giải thoát cho tâm, như thế mà học tập. Nếu tâm xuống thấp thành giận hờn, cũng giải thoát cho tâm, như thế mà học tập. Nếu tâm ngã theo các phiền não nhỏ mà bị ô uế, lại cũng giải thoát cho tâm, như thế mà học tập.

Lại nữa, nơi đối tượng (= hơi thở) nếu tâm chẳng được vui vẻ, liền khiến cho tâm được vui lên, như thế mà học tập.

(13). "Thường thấy Vô thường, tôi thở vào, như thế mà học tập." Người toạ thiền hiện đang niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra. (Nhận thấy rằng,) hơi thở vào, hơi thở ra ấy, với đối tượng hơi thở, cùng với tâm và các tâm sở, tất cả đều vô thường: khởi sanh lên, rồi lại diệt đi mất; nên như thế mà học tập.

(14). "Thường thấy Vô dục, tôi thở vào, như thế mà học tập." Người toạ thiền hiện đang niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, nhận thấy các pháp vô thường kia chẳng đáng ham muốn (= vô dục); còn các pháp vô dục (= chẳng ham muốn) chính là Nê-hoàn (= Niết-bàn). Khi niệm hơi thở vào, nên như thế mà học tập.

(15). "Thường thấy đoạn diệt, tôi thở vào, như thế mà học tập." Khi thấy được đúng như thật, các pháp vô thường ấy có nhiều lỗi lầm, nên tôi liền diệt bỏ đi, đó là (đến gần với) Nê-hoàn (= cõi Niết-bàn tịch diệt), và thấy được sự tịch diệt; nên như thế mà học tập.

(16). "Thường thấy xuất ly (= ra khỏi, từ bỏ), tôi thở vào, như thế mà học tập." Các pháp vô thường, khi được thấy đúng như thật, có nhiều lỗi lầm, liền xả bỏ chúng đi, và an trú trong sự tịch diệt của Niết-bàn, khiến tâm trở nên hoan lạc; nên như thế mà học tập.

Như thế là tịch diệt, là vi diệu, đó gọi là tất cả các hành đều tịch diệt, tất cả phiền não đều được xuất ly ra khỏi, diệt được sự tham ái, chẳng còn ham muốn, đắc sự an tịch của Nê-hoàn (= Niết-bàn).

Do đó, nơi mười sáu xứ (= lãnh vực học tập về mười sáu hơi thở ra, vào) mười hai xứ đầu thành Xa-ma-tha (= Định) và Tỳ-bà-xá-na (= Huệ), thấy được vô thường; còn bốn xứ sau thành Tỳ-bà-xá-na (= Huệ). Như vậy, Định và Huệ phải được hiểu biết đúng như thế.

Lại nữa, mười sáu xứ đó gom lại thành bốn loại, gọi là (1) tu để biết, (2) để khiến khởi lên toàn thân, (3) để khởi lên sự quán chiếu đầy đủ và (4) để có thời thấy:

(1) Hiện niệm hơi thở vào, hiện niệm hơi thở ra, đó gọi là tu để biết dài, ngắn.
(2) Khiến cho thân hành
được an tịch, tâm hành được định tĩnh, tâm khen ngợi nỗi mừng, giáo hoá tâm, giải thoát tâm, đó gọi là tu khiến khởi biết tất cả toàn thân.
(3) Biết niềm vui, biết các tâm sở vận hành, biết chính tâm, gọi là tu quán đầy đủ.
(4) Thường thấy vô thường, gọi là có thời thấy.

Lại nữa, tu là lấy niệm hơi thởthọ trì nền móng; nắm giữ lấy niệm hơi thở đó là thọ trì, học tập. Nền móng đó có giác (hay là tầm, tức là sự biết đến) và có quán (hay là tứ, tức là sự suy nghĩ thêm); nền móng đó có quán (hay tứ). Biết nỗi mừng (= hỉ), đó là nền móng của Nhị thiền. Biết niềm vui (= lạc), đó là nền móng của Tam thiền. Biết được tâm, đó là nền móng của Tứ thiền.

Lại nữa, tất cả các điều đó gom lại thành hai thứ: tu thành mãn. Theo đó tu hành đến thành mãn thì nền móng của niệm mười sáu hơi thở chẳng suy giảm. Tu nguyên nhân, cũng như là hột giống; thành mãn là kết quả, cũng như hoa trái, do từ sự tu hành mà khởi xuất ra. Như thế, tu hành niệm hơi thở được đầy đủ thì thành mãn được tứ niệm xứ (= bốn lãnh vực quán niệm). Tu tứ niệm xứ được đầy đủ, thành mãn được thất Bồ-đề phần (= Thất giác chi = bảy ngành của sự giác ngộ). Tu thất Bồ-đề phần được đầy đủ, thành mãn được trí huệ giải thoát.

Hỏi: Làm sao mà đắc được như thế?

Đáp: Về tứ niệm xứ, chỗ bắt đầu biết hơi thở dài vào ra, chính là thân niệm xứ. Chỗ bắt đầu biết được hỉ, lạc đó là thọ niệm xứ. Chỗ bắt đầu biết được tâm, đó là tâm niệm xứ. Chỗ bắt đầu thấy được vô thường, đó là pháp niệm xứ. Như thế, tu niệm hơi thở thì thành mãn được tứ niệm xứ.

Hỏi: Thế nào là tu tứ niệm xứ làm thành mãn được thất giác phần (= bảy ngành của sự giác ngộ)?

Đáp: Tu niệm xứ thời nơi niệm được an trú thành ra biết chẳng lẫn lộn, đó là niệm giác phần. Người toạ thiền khi niệm an trú biết phân biệt rõ khổ, vô thường, cùng các hiện tượng, đó là trạch pháp giác phần. Khi sự trạch pháp được thực hành chẳng trì huỡn, đó là tinh tấn giác phần. Do sự thực hành tinh tấn, chẳng có phiền não, đó gọi là hỉ giác phần. Do tâm hoan hỉ, nên thân tâm được an ổn, đó là khinh an giác phần. Do thân an ổn, lại có niềm vui khiến cho tâm nhập vào định, đó gọi là định giác phần. Khi tâm định thành xả, đó gọi là xả giác phần. Như thế, do tu tứ niệm xứ mà thành mãn thất giác phần (còn gọi là thất giác chi, hoặc thất Bồ-đề phần).

Hỏi: Thế nào là tu thất giác phần thành mãn thì được trí huệ giải thoát?

Đáp: Do tu nhiều về thất giác phần, nên trong sát-na (= 0,0013 giây), đắc được đạo, khiến trí huệ thành mãn. Và cũng trong sát-na, đắc được quả, khiến cho sự giải thoát được thành mãn. Như thế, tu bảy ngành của sự giác ngộ đưa tới sự đắc được đạo quả, mà thành mãn được trí huệ cùng giải thoát.

Hỏi: Tất cả các hành tùy theo điạ hạt, đều có giác, chẳng có quán, tại sao niệm hơi thở chỉ trừ bỏ giác mà chẳng nói đến các thứ khác?

Đáp: Chẳng phải nói theo nghiã đó. Ở đây, giác (hay là tầm, tức là sự hay biết của tâm) vì chẳng an trú nên gây thành chướng ngại cho Thiền, bởi thế nên phải trừ bỏ giác.

Tại sao gió lại là một cảm xúc thích thú? Vì gió làm tâm vui, cũng như nghe tiếng nhạc của Càn-thát-bà (= nhạc trời) thì vui thích. Vì lẽ đó nên giác được trừ bỏ. Lại nữa, cũng như đi dọc theo bờ sông nhờ có tâm chuyên niệm mà thành an ổn, được tâm bất động. Bởi thế nên niệm hơi thở để trừ bỏ giác.

Niệm Hơi thở chấm dứt.

Hỏi: Thế nào là Niệm Tử? Thế nào là tu, tướng, vị, xứ, công đức của Niệm Tử? Tu cách nào?

Đáp: Thọ mạng dứt, đó gọi là Tử, hay là chết. Niệm ấy trú chẳng loạn, đó là tu. Thọ mạng mình dứt là tướng. Sự chán ghétvị, hay chức năng của niệm Tử. Chẳng có khó khăn là xứ, hay là phạm vi hoạt động của niệm Tử. Về công đức, nếu tu hành niệm Tử, thì chẳng phóng dật, chẳng lơ là đối với các pháp lành cao, biết chán ghét các pháp chẳng lành, chẳng lo tích trữ về sự chưng diện, chẳng bỏn xẻn, luôn nghĩ tưởng đến sự vô thường, khổ, vô ngã, đều khiến thành mãn hướng về các nẻo lành, hướng về đề hồ (= Niết-bàn) và khi sắp mất, tâm chẳng mê mờ lầm lẫn.

Tu hành cách nào? Người mới tâp thiền đến nơi yên vắng, thâu nhiếp tất cả, tâm chẳng loạn động, khởi lên niệm: "Chúng sanh đều chết, tôi cũng sẽ chết."

Như trong Kinh Niết-để-phúc-ba-đà (Nettipàdà Sutta) có nói, nếu muốn quán niệm tử, phải quán người sắp bị giết và thấy nhân duyên gây nên sự chết.

Niệm tử có bốn loại: (1) tương ứng với sự lo âu, (2) tương ứng với sự kinh hãi, (3) tương ứng với sự lãnh đạm, (4) tương ứng với trí huệ. Như tâm niệm khi mất đứa con yêu thương, tương ứng với sư lo âu. Như tâm niệm khi đứa con nhỏ của mình chết thình lình, tương ứng với sự kinh hãi. Như tâm niệm người xà duy thiêu xác chết, tương ứng với sự lãnh đạm. Như tâm niệm chán ngán thế gian, tương ứng với trí huệ. Người toạ thiền chẳng nên tu hành niệm tửliên quan với sự lo âu, sự kinh hãi và sự lãnh đạm. Tại sao vậy? Vì các niệm ấy chẳng diệt trừ được các khổ nạn, chỉ có niệm tử tương ứng với trí huệ mới có khả năng trừ được các khổ nạn.

Sự chết có ba thứ: (1) đẳng tử, (2) đoạn tử, (3) niệm niệm tử. Đẳng tử là cái chết thông thường của mọi chúng sanh. Đoạn tử là nói đến các bực A-la-hán đã đoạn diệt hết tất cả phiền não. Niệm niệm tử là nói đến tất cả các hành (hành uẩn) tạm thời chấm dứt.

Lại nữa, có hai thứ chết: chết chẳng đúng thời, và chết đúng thời. Như tự sát, hoặc bị giết, bị bịnh, hay chẳng có nhân duyên gì rõ trước khi chết, đó gọi là chết chẳng đúng thời. Khi thọ mạng đã hết, cho đến cảnh già lão, đó là chết đúng thời. Phải nên niệm tử về hai loại chết nầy.

Lại nữa, các bực tiên sư có dạy tám cách để tu niệm tử: (1) như bị kẻ hung ác rượt đuổi; (2) do chẳng có nhân duyên; (3) do bản thủ; (4) do thân bị lệ thuộc nhiều; (5) do thọ mạng bất lực; (6) do phân biệt xa xưa; (7) do vô tướng; (8), do sát-na (= khoảng thời gian rất ngắn bằng 0,0013 của giây).

Hỏi: Thế nào là nghĩ đến việc bị kẻ hung ác đuổi, mà tu niệm tử?

Đáp: Như bị kẻ hung ác theo sau vung đao dẫn đến chỗ hành hình, người sắp bị giết nghĩ rằng, tôi sẽ chết lúc nào đây; tôi bước tới, đến bước nào sẽ chết; tôi chạy đi cũng chết; tôi dừng lại cũng chết; tôi ngồi xuống cũng chết; tôi ngủ cũng phải chết; như thế người toạ thiền nghĩ đến việc bị kẻ hung ác rượt đuổi, mà nên tu niệm tử.

Hỏi: Thế nào là nghĩ đến việc do chẳng có nhân duyên, mà tu niệm tử?

Đáp: Nói chẳng có nhân duyên là muốn nói chẳng có phương tiện nào đủ khả năng khiến cho đời sống trở thành bất tử (= chẳng chết). Như mặt trời, mặt trăng khi đã mọc lên rồi, thì chẳng có nhân duyên nào làm cho chúng quay ngược lặn xuống được. Như thế, do chẳng nhân duyên, mà tu niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do bản thủ (= ý muốn nói, so sánh phận mình) mà tu niệm tử?

Đáp: Các bực đại vương có lắm tài vật quí báu với nhiều xe vua lộng lẫy, quyền lực to tát, như Đại Thiện Kiến vương (Maha Sudassana), Đỉnh sanh vương (Mandhàtu), rồi cũng chết. Lại nữa, các vị tiên nhơn đại thần thông, đại thần lực như Tỳ-sa-mật-đa (Vessamitta), Đô-ma-lê (Yamataggi), thân xuất ra nước, lửa, rồi cũng chết. Lại nữa, hàng Thanh văn, đại trí huệ Xá-lợi-phất (Sariputta), đại thần thông Mục-kiền-liên (Moggallàna) và các vị khác, rồi cũng chết. Lại nữa, các bực Duyên giác (Pacceka Buddha) chẳng có thầy mà giác ngộ và mọi công đức thành tựu, rồi cũng chết. Lại nữa, các bực Như Lai, Ứng cúng, Chánh giác vô thượng, Minh hạnh túc, công đức đã đến bờ giác bên kia, rồi cũng lại nhập vào tử pháp. Hà huống là ta, với thọ mạng ngắn ngủi, lại chẳng đi vào cõi chết sao? Như thế, do so sánh thân phận mình, mà tu niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do thân thể bị lệ thuộc nhiều, mà tu niệm tử?

Đáp: Do gió và đàm nhớt hoà hiệp nhau gây thành sự chết. Hoặc do các loài trùng, hoặc do ăn uống chẳng điều hoà, hoặc do rắn độc, rết, chuột cắn gặm mà gây nên sự chết, hoặc do bị người hay loài phi nhơn giết (phi nhơn = hạng chúng sanh chẳng phải người) mà bị chết. Thân nầy như thế, bị lệ thuộc rất nhiều; nên theo đó mà tu niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do thọ mạng bất lực, mà tu niệm tử?

Đáp: Thọ mạng bất lực vì hai lẽ: (1) vì ở vào chổ bất lực; (2) vì nương dựa vào nơi cũng bất lực. Thế nào là thân nầy ở vào chỗ bất lực? Vì thân nầy chẳng có tự tánh, cũng như thân cây chuối, như bọt nước, chẳng có chi là chơn thật, lià xa điều chơn thật, thành ra thọ mạng trở nên bất lực. Thế nào là thân nầy nương vào nơi cũng bất lực? Vì bị ràng buộc vào hơi thở, vào bốn đại (= đất, nước, gió, lửa), vào ăn uống, vào bốn oai nghi, vào nhiệt độ. Như thế, thọ mạng thành ra bất lực. Và do theo thọ mạng bất lực đó mà tu niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do phân biệt xa xưa, mà tu niệm tử?

Đáp: Từ xa xưa cho đến hiện tại, ai ai cũng chẳng quá trăm năm đều vào cõi chết; đó gọi là phân biệt xa xưa mà tu niệm tử. Lại nữa, nên tu niệm như vầy, trong một ngày một đêm, chẳng biết tôi còn sống chăng; nghĩ đến giáo pháp của Thế tôn, chẳng biết tôi còn sống được một ngày để hưởng đại ân đó chăng, hay nửa ngày, hay trong một thời gian ngắn, hay trọn bữa ăn, hay nửa bữa ăn, hay trong khi ăn được bốn năm miếng ăn, hoặc trong một hơi thở ra vào, chăng nữa? Đó là nghĩ tưởng đến sự phân biệt về thời gian mà tu niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do vô tướng mà tu niệm tử?

Đáp: Chẳng có tướng nào báo hiệu thời gian chắc chắn khi sự chết đến với mình cả. Đó là lấy việc chẳng có tướng mà tu niệm tử.

Hỏi: Thế nào là do sát-na mà tu niệm tử?

Đáp: Nếu chẳng kể đến quá khứvị lai, chỉ kể đến hiện tại, thì thọ mạng của chúng sanh chỉ trú lại trong thời gian một niệm mà thôi. Chẳng có gì hiện trú trong hai niệm cả. Tất cả chúng sanh tâm đều lặn chìm trong một niệm sát-na (sát-na = khoảng thời gian thật ngắn, độ một phần ngàn của một giây). Như trong A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận tạng) nói: "Nơi tâm quá khứ, chẳng có đã sanh, chẳng có sẽ sanh, chẳng có đang sanh; nơi tâm vị lai, chẳng có đã sanh, chẳng có sẽ sanh, chẳng có đang sanh; nơi tâm hiện tại, chẳng có đã sanh, chẳng có sẽ sanh, mà chỉ có đang sanh thôi."

Lại nữa, như có Kệ rằng:

Thọ mạngbản tánh của thân,
Khổ, vui, cùng với các sở hữu,
Tãt cả cùng tương ứng với tâm,
Sanh khởi rất nhanh trong sát-na.
Nơi chưa sanh, chẳng sanh;
Nơi hiện tại, có sanh.
Tâm dứt, thế gian chết.
Đó là nói cảnh tận thế vậy.

Như thế, do sát-na mà tu niệm tử.

Người toạ thiền theo đường lối của hành môn nầy mà tu như thế về niệm tử, khởi lên sự chán ngán. Khi đã quen sự chán ngán, niệm được thuần thục rồi, thì tâm trở nên chẳng loạn động. Nhờ tâm bất loạn đó mà diệt được các triền cái, khởi lên các thiền chi, thành được thiền ngoạ hành để an trú.

Hỏi: Tưởng vô thường với Niệm tử, khác nhau ra sao?

Đáp: Sự sanh diệt của các ấm (= uẩn) gọi là tư tưởng vô thường. Niệm các căn diệt gọi là niệm tử. Tu vô thường tướng, tu vô ngã tướng, trừ được sự kiêu mạn. Tu niệm tử thì an trú nơi vô thường tướng và khổ tướng; xuyên qua niệm tưởng về thọ mạng dứt, tâm diệt đi.

Đấy là chỗ sai biệt giữa vô thường tưởngniệm tử.

Niệm Tử chấm dứt.

Hỏi: Thế nào là Niệm Thân? Thế nào là tu, tướng, vị, công đức của Niệm Thân? Tu cách nào?

Đáp: Tu Niệm Thân là niệm về thân tánh, tức là bản tánh của thân. Niệm đó theo sát niệm, giữ đúng chánh niệm, đó gọi là niệm thân. Tâm trú chẳng loạn, đó gọi là tu. Khiến khởi lên thân tánh, đó là tướng của niệm thân. Thấy thân nầy chẳng thật, đó là khởi, hay là sự khởi phát của niệm thân.

Tu niệm thân được các công đức nầy: nhờ tu niệm thân mà nhẫn nại, kham chịu sự kinh hãi, lo sợ, chịu đựng được sự nóng, lạnh và các thay đổi khác, có được tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng sợ lỗi lầm. Khi các tưởng nầy được thành mãn thì tùy ýđắc bốn cấp thiền, phân biệt rõ ràng các pháp, việc tu học được đầy đủ, hướng về các đường lành, hướng về Niết-bàn.

Tu cách nào? Người mới tập thiền đi đến nơi yên vắng, thâu nhiếp tất cả, tâm chẳng loạn động, và suy nghĩ về bản tánh của thân thể.

Thế nào là tu niệm về bản tánh của thân? Đó là tóc, lông, móng tay, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, não, họng, gan, tim, phổi, mật, dạ dày, thận, phương (= mỡ miếng), cao (= mỡ nước), hoành cách mạc, ruột già, ruột non, phẩn, nước tiểu, mủ, huyết, đàm, mồ hôi, nước rãi, nước mắt, nước mũi, nước bọt, đều chẳng được sạch. Người mới tập thiền theo ba mươi hai phần đó trong thân thể, đọc thuộc từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, thường niệm thường quán. Lành thay!

Do miệng thường đọc tất cả các phần thân thể, người toạ thiền quán niệm theo bốn cách: (1) theo màu sắc, (2) theo hình dạng, (3) theo các hành, (4) theo các xứ. Do phân biệt hoặc một, hoặc hai, hoặc nhiều tướng thô khởi lên, người ấy khéo nắm giữ các tướng tương ứng ấy. Nhờ đó, người ấy khởi lên được ba loại tướng: (1) tướng về sắc, (2) tướng về sự chán ghét, (3) tướng về Hư-không.

Nếu khởi lên được tướng về sắc, người toạ thiền theo Nhứt thiết nhập Sắc quán niệm thì tác ý sẽ được dễ dàng.

Nếu khởi lên được tướng về sự chán ghét, người toạ thiền nên tác ý theo tưởng bất tịnh. Nếu khởi lên được tướng về Hư-không, người toạ thiền nên quán niệm về mười tám giới. Nếu người ấy y theo nhứt thiết nhập, thì đạt đến được Tứ thiền; nếu theo tướng bất tịnh mà quán, thì đạt được Sơ thiền; nếu theo giới mà quán, thì đắc được Thiền ngoại hành.

Như thế, người nhiều giận hờn nên dùng sắc mà khởi lên tướng; người nhiều ham muốn nên lấy sự chán ghét mà khởi lên tướng; người có nhiều trí huệ thì theo các giới mà khởi lên tướng. Lại nữa, người nhiều giận hờn nên dùng sắc mà tác ý; người nhiều ham muốn nên lấy sự chán ghéttác ý; người trí huệ thì theo các giới mà tác ý.

Lại nữa, niệm bản tánh của thân thể bằng mười ba cách: (1) theo hột giống, (2) theo xứ, (3) theo nhân duyên, (4) theo rỉ chảy, (5) theo thứ lớp hình thành, (6) theo các loại trùng, (7) theo an xứ, (8) theo sự tụ lại, (9) theo sự chán ghét, (10) theo sự bất tịnh, (11) theo sự tùy thuộc, (12) theo sự chẳng biết ơn, (13) theo chỗ có giới hạn.

Hỏi: Thế nào là theo hột giống niệm thân tánh?

Đáp: Như hột giống độc sanh ra cây thù-du, cây câu-sa-đa-kỷ, thân thể nầy sanh ra từ hột giống bất tịnh của cha mẹ, nên thân thể ấy cũng bất tịnh (= chẳng sạch).

Như thế, nên theo hột giống mà niệm thân tánh.

Hỏi: Thế nào là theo xứ (= nơi) mà niệm thân tánh?

Đáp: Thân nầy chẳng phải do hoa uất-đa-la, hoa câu-mâu-đà, phân-đà-lợi sanh ra, mà do từ bụng mẹ, nơi mà sự bất tịnh, sự hôi thối dồn ép nhau. Thân ấy lớn lên nơi tử cung, trong bọc ở bụng mẹ, nằm ngang giữa hai bên sườn, quấn dựa vào xương sống. Nơi đó chẳng sạch, thành ra thân cũng chẳng sạch. Như thế, nên theo nơi chốn (xứ) mà niệm thân tánh.

Hỏi: Thế nào là theo nhân duyên niệm thân tánh?

Đáp: Thân bất tịnh ấy chẳng phải do vàng bạc, châu báu nuôi dưỡng mà lớn lên, chẳng phải do các thứ chiên-đàn, đa-già-la, trầm hương nuôi dưỡng. Lăn lóc trong bụng mẹ giữa chất nhờn, nước rãi, nước bọt, đàm, được nuôi dưỡng với các chất do mẹ ăn, cơm, đậu, trộn lẫn với các chất lỏng đó hoà tạp lại. Thân ấy lớn lên giữa nơi bất tịnh, hôi hám.

Như thế, do theo điều kiện (= duyên) nơi sanh sống mà niệm thân tánh.

Hỏi: Thế nào là theo rỉ chảy niệm thân tánh?

Đáp: Thân nầy như một cái bịt da có nhiều lỗ hổng, chứa đầy phẩn, nước tiểu, rỉ chảy ra. Nơi thân nầy, thức ăn vật uống hoà tạp với nước mắt, nước mũi, nước bọt, phẩn, nước tiểu hôi hám đủ loại thành ra bất tịnh, do nơi chín lỗ (= cửu khổng) mà rỉ chảy ra ngoài.

Như thế, theo sự rỉ chảy mà niệm thân tánh.

Hỏi: Thế nào là theo thứ lớp hình thành niệm thân tánh?

Đáp: Thân nầy, tùy nghiệp đời trước, mà hình thành theo thứ tự như sau:

- tuần lễ thứ nhứt: thành già-la-la,
-
tuần lễ thứ hai: thành a-phú-đà,
- tuần lễ thứ ba: thành phinh-thi,
-
tuần lễ thứ tư: thành a-nã,
-
tuần lễ thứ n
ăm: thành năm khớp xương,
- tuần lễ thứ sáu: thành bốn khớp xương,
- tuần lễ thứ bảy: lại sanh bốn khớp xương,
- tuần lễ thứ tám: lại sanh hai mươi tám khớp xương.
- tuần lễ thứ chín và thứ mười: thành xương sống,
- tuần lễ thứ mười một: sanh ba tr
ăm xương,
- tuần lễ thứ mười hai: lại sanh tám trăm khớp xương,
- tuần lễ thứ mười ba: lại sanh chín trăm khớp xương,
- tuần lễ thứ mười bốn: sanh trăm thớ thịt,
- tuần lễ thứ mười lăm: sanh ra huyết,
- tuần lễ thứ mười sáu: sanh ra mô (= màng da),
- tuần lễ thứ mười bảy: sanh ra da,
- tuần lễ thứ mười tám: sanh ra màu sắc của da,
- tuần lễ thứ mười chín: do nghiệp sanh ra gió khắp châu thân,
- tuần lễ thứ hai mươi bốn: thành chín lỗ (= cửu khiếu)
- tuần lễ thứ hai mươi l
ăm: sanh ra mười bảy ngàn thấu (= thớ da),
- tuần lễ thứ hai mươi sáu: thành thân rắn chắc,
- tuần lễ thứ hai mươi bảy: thành thânsức lực,
- tuần lễ thứ hai mươi tám: sanh chín mươi chín ngàn lỗ chơn lông,
- tuần lễ thứ hai mươi chín: tất cả thân
đều đầy đủ.

Lại nữa, có thuyết cho rằng vào tuần lễ thứ bảy thai nhi đã có hình thể, dựa vào xương sống của mẹ, hạ đầu ngồi xổm xuống; vào tuần lễ thứ bốn mươi hai, do nghiệp sanh ra gió chuyển hai chân ngược lên, đầu trút xuống, hướng về phía sản môn và sanh ra đời vào lúc đó, được tạm gọi đó là người.

Như thế, do theo thứ lớp hình thành mà niệm thân tánh.

Hỏi: Thế nào do theo loại trùng niệm thân tánh?

Đáp: Thân thể bị tám mươi ngàn loại trùng gặm nhắm.

- Ở tóc có trùng phát thiết (phát = tóc; thiết = sắt)
- Ở sọ có trùng nhĩ chủng (nhĩ = lỗ tai; chủng = loại)
- Ở óc có trùng điên cuồng. Có bốn loại: (1) âu-câu-lâm-bà, (2) thấp-bà-la, (3) đà-la-ha, (4) đà-ha-thi-la.
-
Ở mắt có trùng thỉ nhãn (thỉ = liếm; nhãn = mắt).
- Ở lỗ tai có trùng thỉ nhĩ (thỉ = liếm; nhĩ = lỗ tai).
- Ở mũi có trùng thỉ tỵ, chia ra ba loại: (1) lâu-khấu-vô-ha; (2) a-lâu-khấu; (3) ma-nả-lâu-vô-khả.
-
Ở lưỡi có trùng vật-già.
-
Ở dưới chơn lưỡi có trùng vô-đán-đa.
-
Ở r
ăng có trùng cẩu-bà.
-
Ở dưới chơn r
ăng, có trùng ưu-bà-cẩu-bà.
-
Ở họng, có trùng a-bà-ly-ha.
-
Ở cổ, có hai loại trùng: (1) lỗ-ha-la; (2) tỳ-lỗ-ha-la.
-
Ở lông có trùng thỉ mao (thỉ = liếm; mao = lông).
- Ở móng tay chơn, có trùng thỉ trảo (trảo = móng)
- Ở da, có hai loại trùng: (1)
đâu-ná, (2) đâu-nan-đa.
-
Ở mô, có hai loại trùng: (1) vĩ-lam-bà, (2) ma-ha vĩ-lam-bà.
-
Ở thịt, có hai loại trùng: (1) a-la-bà, (2) la-bà-bà.
-
Ở máu, có hai loại trùng: (1) bà-la, (2) bà-đa-la.
-
Ở gân, có bốn loại trùng: (1)...đa-lỗ (rotara), (2) hi-đa-bà, (3) bà-la-bà-đa-bà, (4) la-ná-bà-la-ná.
-
Ở mạch, có trùng khả-phiếu-hiệp-ná.
-
Ở mạch c
ăn, có hai loại trùng: (1) thì-bà-la, (2) ưu-bà thi-bà-la.
-
Ở xương, có bốn loại trùng: (1) quá-sỉ-tỳ-đà, (2) an-ná-tỳ-đà, (3) đãi-phục-đả-tỳ-đả, (4) quá-sỉ-...khả-la (kachigokara)
- Ở tủy, có hai loại trùng: (1) mỹ-đổ, (2) mỹ-đổ thi-la.
-
Ở lá lách, có hai loại trùng: (1) ni-la, (2) tỉ-đa.
-
Ở tim có hai loại trùng: (1) tỳ-đa, (2) ưu-bát-đả-tử-ti-đa.
-
Ở gốc tim, có hai loại trùng: (1) mãn-khả, (2) thi-la.
-
Ở phương (= mỡ miếng), có hai loại trùng: (1) cả-la, (2) cả-la thi-la.
-
Ở bàng quang, co hai loại trùng: (1) mỹ-cả-la, (2) ma-ha cả-la.
-
Ở bàng quang c
ăn(gốc bọng đái), có hai loại trùng: (1) cả-la, (2) cả-la thi-la.
-
Ở bọc thai, có hai loại trùng: (1) sa-bà-la, (2) ma-ha sa-bà-la
-
Ở gốc bọc thai, có hai loại trùng: (1)...đa (sorata), (2) ma-ha -...đa (maharata).
-
Ở ruột non, có hai loại trùng: (1) trừu-... đa (siba), (2) ma-ha-... đa (mahasiba).
- Ở gốc ruột, có hai loại trùng: (1) ba, (2) ma-ha-tử-ba
-
Ở ruột già, có hai loại trùng: (1) an-ná-bà-ba, (2) bác-quá-bà-ha.
-
Ở dạ dày, có bốn loại trùng: (1) ưu-thọ-cả, (2) ưu-đỗ-bà, (3) tri-đỗ-bà, (4) tiên-thị-bà.

- Ở tử cung, có bốn loại trùng: (1) bà-ha-ná, (2) ma-ha bà-ha-ná, (3) đà-ná-bàn, (4) phẩn-ná-mẫu-khả.
-
Ở mật, có trùng tất-đa-ly-ha.
-
Ở nước miếng, có trùng tiêm-ha.
-
Ở mồ hôi, có trùng tủy-đà-ly-ha
-
Ở chất mỡ, có trùng mỹ-đà-ly-ha.
-
cuờng (= sanh lực), có hai loại trùng: (1) tẩu-bà-ha-mẫu; (2)
đỗ-ma-khiết-đa.
-
cường-căn (= gốc của sanh lực), có ba loại trùng: (1) xứ-ha-mẫu-kha; (2) a-lỗ-ha-mẫu-kha; (3) bà-ná-mẫu-kha.

Có năm loại trùng ở phiá trước thân, ở phiá sau thân, ở bên trái thân, ở bên mặt thân, và chúng gặm nhắm các phần thân thểđó. Đó là những loại như: mai-đà-tử-la, thần-ha-tử-la, bất-thâu-la, các loại khác.

Ở hai lỗ dưới, có ba loại trùng: (1) câu-lâu-câu-la-duy-dụ, (2) già-la-dụ, (3) hàn-đầu-ba-đà.

Như thế, do theo các loại trùng, mà niệm về Thân tánh.

Hỏi: Thế nào là theo an xứ (= ý muốn nói nơi các xương nối liền nhau) mà niệm Thân tánh?

Đáp: Nơi xương chơn, xương ống quyển nối liền; xương ống quyển nối liền với xương đùi; xương đùi nối liền với xương mông; xương mông nối liền với xương sống; xương sống nối liền với xương chả vai; xương chả vai nối liền với xương tay; xương tay nối liền với xương cổ; xương cổ nối liền với xương đầu, xương đầu nối liền với xương má, xương má nối liền với xương răng. Như thế, do sự an trú (= nối liền) giữa các xương và có da bao bọc phía ngoài, mà thân thể được thành hình. Thân ô uế đó tùy theo nghiệp mà sanh ra, chẳng phải do ai tạo nên được.

Như thế, theo sự an trú (= ý nói, xương cốt nối liền) mà niệm Thân tánh.

Hỏi: Thế nào là theo sự tụ họp niệm Thân tánh?

Đáp: Chín mảnh xương đầu, hai khúc xương má, ba mươi hai xương răng, bảy xương cổ, mười bốn xương sườn, mười tám đốt xương sống, hai xương mông, sáu mươi bốn xương tay, sáu mươi bốn xương chơn, sáu mươi bốn xương mềm nơi thịt: ba trăm khúc xương đó, cùng với tám hay chín trăm dây gân quấn chằng chịt nhau. Lại có chín trăm bắp thịt, bảy mươi ngàn thớ da, tám triệu sợi tóc, chín mươi chín ngàn sợi lông, sáu mươi lỗ, tám chục ngàn loại trùng. Mật, nước miếng và não, mỗi thứ nặng một ba-lại-tha theo tiếng nước Lương, nặng bằng bốn lượng , còn huyết thì nặng một a-tha theo tiếng nước Lương, nặng bằng ba đẩu. Tất cả những thứ đó, chẳng thể tính toán, cân đo được, hình thức tuy khác nhau, tụ họp nhau lại thành một đống phẩn, nước tiểu, được mạng danh là Thân.

Như thế, theo sự tu họp mà niệm về tự tánh của thân.

Hỏi: Thế nào là theo sự chán ghét niệm thân tánh?

Đáp: Con người qúi trọng sự thanh tịnh vào bực nhứt. Lại thích sự phục sức, dùng hương, hoa ướp vào thân, mặc y phục trang hoàng, nằm ngồi trên giường, nệm, chiếu, mền, gối, màn, trướng, thọ dụng thức ăn, vật uống, cùng nơi cư trú. Buổi đầu, tâm sanh luyến ái, sau đó lại trở nên chán ghét.

Như thế, do theo sự chán ghét mà niệm tự tánh của thân.

Hỏi: Thế nào là theo sự chẳng sạch niệm thân tánh?

Đáp: Khi quần áo, vật trang sức các loại bị nhiễm dơ, có thể làm cho chúng trở lại thanh khiết. Tại sao vậy? Vì bản tánh chúng vốn thanh tịnh. Nhưng với thân thể bất tịnh nầy, chẳng thể làm cho tịnh khiết được. Lại nữa, thân nầy dầu có xông ướp hương thơm, tắm rửa bằng nước thơm, cũng chẳng khiến cho tịnh khiết được. Tại sao vậy? Vì tự tánh của thân là bất tịnh.

Như thế, do theo sự chẳng sạch niệm thân tánh.

Hỏi: Thế nào là theo xứ mà niệm về tự tánh của Thân?

Đáp: Như hoa mọc trong hồ ao, tuỳ theo hồ ao mà sanh trưởng; quả trỗ trong vườn tược, tùy theo vườn tược mà kết trái. Cũng vậy, tùy nơi thân nầy mà các loại phiền não, bịnh hoạn sanh ra. Như thế, đau mắt, tai, mũi, lưỡi, nhức mình, đau đầu, miệng lỡ, răng nhức, hơi thở dồn dập, nóng, lạnh, đau bụng, đau tim, động kinh, điên cuồng, phong cùi, bướu cổ, ói máu, ghẻ lở, ung nhọt, hoa liễu, táo bón, lạnh, và các bịnh khác mà thân nầy mắc phải. Như thế, thân thể có biết bao nhiêu bịnh hoạn.

Như thế, do theo xứ (xứ = ý muốn nói, nơi phát sanh ra bịnh tật) mà niệm về tự tánh của Thân.

Hỏi: Thế nào là theo sự chẳng biết ơn niệm về thân tánh?

Đáp: Con người hết lòng lo phục vụ cho thân, lựa món ăn thật ngon, tắm rửa thoa dầu thơm, nằm ngồi trên giường cao nệm ấm, nhưng trái lại thân nầy phản phúc, chẳng biết ơn, luôn hướng về già lão, về bịnh tật, về cõi chết. Như thế là thân nầy chẳng biết ơn.

Như thế, theo sự chẳng biết ơn niệm thân tánh.

Hỏi: Thế nào là theo chỗ có giới hạn để niệm thân tánh?

Đáp: Thân nầy hoặc có thể bị hoả thiêu, hoặc bị ăn thịt, hoặc bị phá hoại, hoặc bị hủy diệt. Thân nầy là vật có giới hạn.

Như thế, theo chỗ có giới hạn mà niệm tự tánh của thân. Người toạ thiền do theo đường lối của hành môn nầy mà niệm tự tánh của tấm thân. Khi niệm được thuần thục, trí huệ được tự tại, tâm trở nên chẳng loạn động. Do tâm chẳng loạn mà các triền cái bị diệt, các thiền chi khởi lên, tùy theo chỗ vui thíchđạt thành phần tối thắng.

Niệm Thân chấm dứt.

Hỏi: Thế nào là Niệm An tịch? Thế nào là tu, tướng, vị, xứ, công đức của Niệm An tịch? Tu cách nào?

Đáp: Tịch tịch, hay an tịch, là diệt sự loạn động của thân tâm, đoạn dứt hết, nên gọi là an tịch. Hiện niệm an tịch, niệm ấy theo sát niệm, giữ đúng chánh niệm, đó gọi là niêm an tịch. Trú theo niệm ấy chẳng loạn, đó gọi là vị, hay là chức năng của niệm an tịch. Làm khởi lên công đức của niệm an tịch, đó gọi là tướng của niệm an tịch. Đắc được sự giải thoát vi diệu, đó là xứ, hay là phạm vi hoạt động của niệm an tịch.

Về công đức của niệm an tịch, nếu tu hành niệm an tịch được thành mãn, thì ngủ được yên giấc, suy nghĩ an ổn, tâm trở nên vắng vẻ, các căn được thanh tịnh, các tâm nguyện được đầy đủ, người trở nên khả ái, được sự kính trọng, hướng về các nẻo lành, hướng về Niết-bàn.

Tu cách nào? Người mới tập thiền đi đến nơi yên vắng, thâu nhiếp tất cả và tâm chẳng khởi loạn mà trở nên như như. Người Tỳ-kheo đó, các căn và tâm được thanh tịnh, vui nơi yên vắng, liền theo đó mà an trú. Người ấy nơi thân, miệng và ý, đều lấy sự an tịch mà niệm về công đức của sự an tịch.

Như Thế tôn có dạy: "Vị Tỳ-kheo đó giới đầy đủ, định đầy đủ, huệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát tri kiến đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo nào trông thấy vị Tỳ-kheo đó, thì Ta tuyên bố người ấy sẽ được hưởng ơn đức lớn. Nếu Tỳ-kheo nào nghe đến vị Tỳ-kheo đó, thì Ta tuyên bố, người ấy sẽ được hưởng ơn đức lớn. Nếu Tỳ-kheo nào đến viếng vị Tỳ-kheo đó, thì Ta tuyên bố, người ấy sẽ được hưởng ơn đức lớn. Nếu Tỳ-kheo nào cúng dường vị Tỳ-kheo đó, niệm tưởng đến vị Tỳ-kheo đó, xuất gia tu theo vị Tỳ-kheo đó, thì Ta tuyên bố người ấy sẽ được hưởng ơn đức lớn. Tại sao vậy? Vì các Tỳ-kheo ấy đã được nghe vị Tỳ-kheo đó nói pháp đầy đủ nên đắc được hai mặt của sự lià xa hội náo (hội = rối rắm; náo = náo động;): thân lià xa sự rối động, tâm lià xa sự rối động."

Vị Tỳ-kheo nhập vào Sơ thiền, lấy niệm an tịch mà diệt bỏ các triền cái. Nếu nhập vào Nhị thiền, niệm an tịch sẽ dứt được giác (hay là tầm) và quán (hay là tứ). Nếu nhập vào Tam thiền, niệm an tịch sẽ dứt được hỉ (= nỗi mừng). Nếu nhập vào Tứ thiền, niệm an tịch sẽ diệt được lạc (= niềm vui). Nếu nhập vào Hư-không định niệm an tịch sẽ diệt sắc tưởng, giận hờn, và các loại tưởng khác. Nếu nhập vào Thức định, niệm an tịch sẽ diệt được Hư-không tưởng. Nếu nhập vào Vô sở hữu định, niệm an tịch sẽ diệt được Thức nhập tưởng. Nếu nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng định, niệm an tịch sẽ diệt được Vô sở hữu tưởng. Nếu nhập vào Tưởng thọ diệt định, niệm an tịch sẽ diệt được thọ và tưởng.

Nếu đắc quả Tu-đà-huờn, niệm an tịch khiến tất cả phiền nãotà kiến diệt. Nếu đắc quả Tư-đà-hàm, niệm an tịch khiến diệt được tham dục thô, sân hận thô và phiền não thô. Nếu đắc quả A-na-hàm, niệm an tịch khiến các tham dục tế, sân hận tế, phiền não tế diệt. Nếu đắc quả A-la-hán, niệm an tịch khiến diệt được tất cả các phiền não. Nếu đắc nhập vào Nê-hoàn (= Niết-bàn), niệm an tịch khiến cho tất cả đều tịch diệt.

Người tọa thiền đó tu hành theo đường lối của hành môn nầy, do công đức niệm an tịch, lòng tin tăng thêm, và do lòng tin vững chắc, niệm tự tại khiến cho tâm chẳng loạn động. Nhờ tâm bất loạn, các triền cái đều diệt, các thiền chi khởi lên, an trú vào thiền ngoại hành.

Niệm Tịch tịch chấm dứt.
Mười Niệm chấm dứt.

Nơi lãnh vực tu tập Mười Niệm, có các vấn đề linh tinh (Tán cú) sau đây:

Nếu niệm công đức các đức Phật quá khứvị lai, đó là Niệm Phật. Cũng vậy, đối với công đức của các bực Duyên giác

Nếu niệm tưởng về một pháp được nghe giảng, đó gọi là Niệm Pháp.

Nếu niệm tưởng công đức của các bực Thanh văn, đó là niệm Tăng.

Niệm về sự giữ giới của mình, đó gọi là tu niệm Giới.

Niệm về sự bố thí của mình, đó gọi là tu niệm Thí. Nếu muốn được vui về sự bố thí của mình mà người nhận là bực có nhiều công đức, nên giữ tướng thọ nhận. Nếu vật người đem hiến tặng chẳng được minh bạch đúng pháp, thì ngay một miếng cơm cũng chẳng được nhận.

Niệm Thiên thành tựu thì tăng được lòng tin tưởng. Có năm pháp nên tu niệm Thiên.

Phần Tán cú (Linh tinh) chấm dứt.

(Xong Giải Thoát Đạo Luận, Quyển Bảy).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11539)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16422)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12567)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11526)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17887)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12941)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15190)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10593)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant