Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương IV: Lộ Trình Của Tâm (Citta Vìthi)

21 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9896)
Chương IV: Lộ Trình Của Tâm (Citta Vìthi)

ABHIDHAMMATTHASANGAHA
THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN

Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải)
Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973

CHƯƠNG BỐN
LỘ TRÌNH CỦA TÂM (CITTA-VÌTHI)

PHẦN MỘT: LỘ TRÌNH CỦA TÂM QUA 5 CĂN

BÀI KỆ GIỚI THIỆU

I. PÀLI VĂN. 

- Cittuppàdànamiccevam katvà sangahamuttaram,
Bhùmi-puggala-bhedena pubbàpara-niyàmitam.
Pavatti-sangaham nàma patisandhi-pavattiyam.
Pavakkhàmi samàsena yathàsambhavatokatham.

II. THÍCH VĂN. 

- Cittupàdànam: Những tâm sở cùng khởi với tâm. Sangahamuttaram: Sự tổng hợp vô thượng của các tâm, tâm sở. Bhùmi-puggala-bhedena: Theo sự phân chia các cảnh giớiloài người. Pubbàparaniyàmitam: Như đã quyết định bởi những gì xảy ra ở trước và ở sau. Pavattisangaham: Tổng hợp sự diễn tiến (của tâm thức). Patisandhipavattiyam: Sự tiếp tục của kiết sanh thức Pavakhàmi: Tôi sẽ nói. Samàsena: Tóm tắt. Yathàsambhavam: Tùy theo sự hiện hữu. Katham: Lời nói.

III. VIỆT VĂN. 

- 1) Sau khi tổng hợp các tâm và tâm sở, tôi sẽ nói một cách vắn tắt, theo thứ tự, sự tổng hợp của tâm khi thọ sanh và khi sống, theo các cảnh giới và theo loại người như đã được định đoạt bởi những tâm nào trước những tâm nào sau.

IV. THÍCH NGHĨA

- Chương trước đã giải thích các tâm và tâm sở, tổng hợp theo thọ, môn v.v... Chương này bàn đến sự diễn tiến của tâm thức khi thọ sanh và khi sinh hoạt thường ngày tùy theo loại người và các cảnh giới. Chữ "định đoạt bởi những tâm nào trước những tâm nào sau" nghĩa là một tâm này khởi lên,theo sau một số tâm và đi trước một số tâm.

6 LOẠI, 6 THỨ

I. PÀLI VĂN. 

- 2) Cha vatthùni, cha dvàràni, cha àrammanàni, cha vinnànàni, cha vìthiyo, chadhà visayappavatti ceti vìthi-sangahe cha chakkàni veditabbàni.

3) Vithì-muttànam pana kamma-kammanimitta-gatinimittavasena tividhà hoti visayappavatti.

4) Tattha vatthu-dvàràrammanàni puble vuttana-yàneva.

5) Cakkhu-vinnànam, sota-vinnànam, ghàna-vinnànam, jivhà-vinnànam, kàya-vinnànam, mano-vinnànam ceti cha vinnànàni.

II. THÍCH VĂN. 

- Vatthùni: Trú căn. Dvàràni: Môn. Àrammanàni: Sở duyên, đối tượng. Vìthiyo: Con đường diễn tiến của tâm thức. Visayappavatti: Sự trình bày của đối tượng. Vìthimuttànam: Thoát ly lộ trình.

III. VIỆT VĂN. 

- 2) Về sự tổng hợp lộ trình của tâm, 6 loại mỗi loại 6 thứ cần phải biết: 6 trú căn, 6 căn môn, 6 sở duyên, 6 thức, 6 lộ trình, 6 sự trình bày của đối tượng.

3) Ðối với tâm thoát ly ngoài lộ trình, đối tượng hiện khởi có ba: nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng.

4) Ở đây, các trú căn, căn mônsở duyên đã nói trước rồi.

5) 6 thức tức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứcý thức.

IV. THÍCH NGHĨA

- Các tâm có những tác động Patisandhi, Bhavanga và Cuti không phải là tâm sát-na trong lộ trình của tâm thức, cho nên các tâm ấy được gọi là thoát ly lộ trình của tâm.

CÁC LOẠI LỘ TRÌNH

I. PÀLI VĂN. 

- 6) Cha vìthiyo pana cakkhu-dvàra-vìthi, sota-dvàra-vìthi, ghàna-dvàra-vìthi, jivhà-dvàra-vìthi, kàya-dvàra-vithì, mano dvàra-vithì, ceti dvàravasena và. Cakkhu-vinnàna-vìthi, sota-vinnàna-vìthi, ghàna-vinnàna-vìthi, jihvà-vinnàna-vìthi, kàya-vinnàna-vìthi, mano-vinnàna-vìthi, ceti vinnàna-vasena và dvàrappavattà cittappavattiyo yojetabbà.

II. THÍCH VĂN. 

- Cakkhudvàravìthi: Lộ trình của tâm ngang qua nhãn môn. Dvàrappavattà: Diễn khởi ngang qua căn môn. Cittappavattiyo: Sự diễn tiến của tâm. Yojetabbà: Cần phải liên quan như vậy.

III. VIỆT VĂN. 

- 6) Theo các môn, lộ trình của tâm có 6: Lộ trình qua nhãn môn, lộ trình qua nhĩ môn, lộ trình qua tỷ môn, lộ trình qua thiệt môn, lộ trình qua thân môn, lộ trình qua ý môn.

Hay theo thức cũng có sáu. Lộ trình của nhãn thức, lộ trình của nhĩ thức, lộ trình của tỷ thức, lộ trình của thiệt thức, lộ trình của thân thức, lộ trình của ý thức. Như vậy sự diễn tiến của tâm đối với các môn cần phải tương quan như vậy.

TÂM SÁT NA - LỘ TRÌNH CỦA TÂM

Tâm trạng thụ động của tâm, khi được trôi chảy không bị một kích thích nào, được gọi là Bhavanga hay hữu phần. Các tâm khởi lên trên mặt Bhavanga rồi chìm xuống vào Bhavanga. Thông thường, chúng ta không thể giữ mãi một tâm, không cho chìm xuống Bhavanga. Một tâm có thể sánh như một làn sóng nổi lên trên mặt biển, tồn tại trong một thời gian rồi chìm xuống để làm nổi dậy một làn sóng khác rồi đến một làn sóng khác. Cũng như vậy, một tâm khởi lên trên mặt Bahavanga, được nhận thức rồi tâm ấy chìm xuống để làm khởi dậy một tâm khác và một tâm khác nữa. Như vậy một tâm có ba giai đoạn: 1) Uppàda (2) (Sanh) Thiti (trú) và Bhanga (diệt). Ðời sống của một tâm, từ khi khởi cho đến khi chìm xuống gọi là Cittakhana (Tâm sát-na).

Khi một kích thích ở ngoài được thọ lãnh ngang qua 5 căn,

1. Sự trôi chảy yên tịnh của Bhavanga bị rung động trong một tâm sát-na và được gọi là Bhavangacalana (sự rung động của hữu phần).

2. Rồi dòng Bhavanga đứng dừng lại trong một tâm sát-na và gọi là Bhavangupaccheda (sự dừng đứng của Bhavanga).

Rồi cùng trên một đối tượng ấy, những tâm sát-na sau này khởi lên, tiếp nối nhau một cách mau lẹ, khởi lên rồi chìm xuống.

3. Pancadvàravajjana (ngũ môn hướng tâm)

4. Cakkhuvinnàna (nhãn thức hay một trong 4 thức khác).

5. Sampaticchana (Tiếp thọ tâm).

6. Santìrana (Suy đạc tâm).

7. Votthapana (Xác định tâm).

8 - 14) Javana (Tốc hành tâm). Tâm này mạnh đến 7 sát-na.

15 - 16) Tadàlambana (Ðồng sở duyên). Tâm này gìn giữghi nhận vào trong tiềm thức và lập đi lập lại đến hai sát-na.

Như vậy, từ Bhavanga calana đến Tadàlambana có đến 16 tâm sát-na tất cả và hoàn tất sự diễn tiến của tâm ngang qua 5 môn gọi là Pancadvàravìthi (Lộ trình của tâm qua 5 môn). Khi chúng ta nghe tiếng, ngửi hương, nếm vị, chúng ta có đến hàng ngàn Vithì (Lộ trình). Khi chúng ta tiếp tục phân biệt các pháp, mỗi lần chúng ta ghi nhận kinh nghiệm vào trong tiềm thức.

Sự tương quan giữa tâm và vật chất.

Vật ở đời hình như ở yên, những sự thật những vật ấy luôn luôn chuyển dịch thay đổi. Chúng có thể ví dụ như lửa một ngọn đèn, ngọn lửa hình như bất dịch nhưng sự thật luôn luôn đổi mới từng sát-na một. Ðó là định lý Anicca của đạo Phật.

Nhưng nếu sự vật thay đổi biến dịch mau chóng như vậy, vì sao một lộ trình của tâm có thể diễn tiến trên một sự vật làm đối tượng, vì một lộ trình dài cho đến 16 tâm sát-na. Abhidhamma giải thích rằng sự biến dịch của sự vật chậm hơn sự biến dịch của tâm đến 16 lần.

Một vật hay đối tượng cần một tâm sát-na để khởi lên rồi đến sát-na thứ hai được tâm nhận lãnh. Như vậy tuổi thọ đời sống của một đối tượng có tất cả là 17 tâm sát-na. Ðến cuối sát-na thứ 17, lộ trình của tâm được trọn đủ và đời sống của vật đối tượng được tiêu diệt.

PHÂN LOẠI CÁC ÐỐI TƯỢNG

I. PÀLI VĂN. 

- 7) Ati-mahantam, mahantam, parittam, atiparittam, ceti pancadvàre. Mano-dvàre vibhùtamavibhùtam ceti chadhà visayappavatti veditabbà.

II. THÍCH VĂN. 

- Atimahantam: Rất lớn. Mahantam: Lớn. Paritta: Nhỏ. Atiparitta: Rất nhỏ. Vibhùta: Rõ ràng. Avibhùta: Không rõ ràng. Visayappavatti: Sự trình bày của đối tượng.

III. VIỆT VĂN. 

- 7) Ðối tượng được trình bày theo sáu hình thức như sau:

Ngang qua 5 môn: Rất lớn, lớn, nhỏ và rất nhỏ.
Ngang qua ý môn: Rõ ràng và không rõ ràng.

IV. THÍCH NGHĨA

- 1) Khi sự kích thích của đối tượng quá rõ ràng, sự kích thích ấy được lãnh thọ chỉ một sát-na sau khi khởi lên rồi lộ trình của tâm tiếp theo, kéo dài đến 16 sát-na, và đời sống của đối tượng được chấm dứt. Một đối tượng như vậy được gọi là Atimahanta hay Rất lớn.

2) Khi sự kích thích của đối tượng không quá rõ ràng như trên, sự kích thích ấy được lãnh thọ có thể chậm trễ hơn sau khi khởi lên và bị chấm dứt giữa chừng trước khi lộ trình của tâm được hoàn thành. Lộ trình ấy chỉ tồn tại cho đến cuối giai đoạn Javana (tốc hành). Do vậy các tâm sát-na của Ðồng sỏ duyên (Tadàlambana) không khởi lên. Ðối tượng như vậy được gọi là Mahanta hay lớn.

3) Khi sự kích thích của đối tượng còn yếu ớt hơn, sự kích thích ấy được lãnh thọ còn chậm trễ hơn nữa sau khi khởi lên và bị chấm dứt trước khi giai đoạn Javana được bắt đầu. Trong trường hợp này, tâm sát-na của Votthapana (xác định tâm) được lập lại hai hay ba lần rồi chìm vào trong Bhavanga. Ðối tượng như vậy được gọi là Paritta hay nhỏ.

4) Khi sự kích thích quá muội lược, sự kích thích này lại quá chậm và chấm dứt sau khi khiến Bhavanga rung động, trước khi một tâm sát-na nào có thể khởi lên. Một đối tượng như vậy gọi là Atiparitta hay rất nhỏ.

5) Khi sự kích thích qua ý môn được rõ ràng, thời một lộ trình của tâm được diễn ra đầy đủ cho đến cả hai tâm sát-na của Tadàlambana (Ðồng sở duyên). Ðối tượng này được gọi là vibhùta hay quá rõ ràng.

6) Khi sự kích thích không được rõ ràng, thời lộ trình của tâm chỉ diễn tiến đến Javana rồi chìm xuống Bhavanga. Như vậy hai sát na của Tadàlambana không khởi. Ðối tượng như vậy gọi là không rõ ràng.

LỘ TRÌNH CỦA TÂM

I. PÀLI VĂN. 

- 8) Katham? Uppàdatthitibhangavasena khanattayam ekacittakkhanam nàma. Tàni pana sattarasacittakkhanàni rùpadhammànamàyu. Ekacittakkhanàtìtàni và bahucittakkhanàtìtàni và thitippattàneva pancàrammanàni pancadvàre àpàthamàgacchanti.

Tasmà, yadi ekacittakkhanàtìtakam rùpàrammanam cakkhussa àpàthamàgacchanti, tato param dvikkhattum bhavange calite bhavangasotam vocchinditvà tameva rùpàrammanam àvajjantam pancadvàràvajjanacittam uppajjitvà nirujjhati. Tato tassànantaram tameva rùpam passantam cakkhuvinnànam. Sampaticchantam sampaticchanacittam. Santìrayamànam santìranacittam. Vavatthapentam votthapanacittam ceti yathàkkamam uppajjitvà niruj’hanti.

Tato param ekùnatimsa-kàmàvacarajavanesu yam kinci laddhappaccayam yebbhuyyena sattakkhattum javati. Javanànubandhàni ca dve tadàrammanapàkàni yathàraham pavattanti. Tato param bhavangapàto.

II. THÍCH VĂN. 

- Katham: Sao. Uppàda: Sinh. Thiti: Trú. Bhanga: Diệt. Khanattayam: 3 sát-na. Ekacittakkhanam: Một tâm sát-na. Sattarasacittakkhanàni: 17 tâm sát-na. Rùpadhammànamàyu: Tuổi thọ của các sắc pháp. Ekacittakkhanàtìtàni: Một sát-na tâm về quá khứ. Bahucittakkhanàtìtàni: Nhiều sát-na tâm về quá khứ. Thitippattàni: Tại giai đoạn trú. Àpàthamàgacchanti. Ðến trong phạm vi nhận thức của 5 căn. Tato param: Rồi tiếp đến. Dvikkhattum: Hai lần. Bhavangasotam: Giòng hữu phần. Vocchinditvà: Bị gián đoạn. Nirujjhati: Diệt. Tato tassànantaram: Từ đó, tiếp liền theo tâm ấy. Ekùnatimsa: 29. Laddhappaccayam: Nhận lãnh bởi nhân duyên. Yebhuyyena: Phần lớn. Bhavangapàto: Rơi vào hữu phần.

III. VIỆT VĂN. 

- 8) Như thể nào? Một sát-na tâm gồm có ba giai đoạn sanh, trú và diệt. 17 sát-na tâm như vậy là tuổi thọ của các sắc pháp. 5 đối tượng của giác quan được vào trong phạm vi tiếp nhận của 5 căn hoặc một tâm sát-na chậm hơn hoặc nhiều tâm sát-na chậm hơn.

Do vậy, khi sắc pháp được vào trong phạm vi tiếp nhận của mắt một tâm sát-na chậm hơn, tiếp theo hữu phần rung động hai lần và giòng hữu phần dừng nghỉ, rồi ngũ môn hướng tâm khởi lên và diệt mất, làm phận sự hướng tâm đến sắc đối tượng ấy. Tiếp theo tâm ấy, các tâm sau đây tuần tự khởi lên rồi diệt mất: nhãn thức thấy sắc, tiếp thọ tâm lãnh thọ (sắc), suy đạc tâm suy đạc (sắc), xác định tâm xác định (sắc).

Tiếp theo, một trong 29 Dục giới tốc hành tâm do nhân duyên chi phối, phần lớn tồn tại đến 7 sát-na. Theo sau Javanà là hai Ðồng sở duyên tâm tùy theo mà khởi lên. Tiếp đến, lộ trình chìm trong Bhavanga.

IV. THÍCH NGHĨA

- Theo thông lệ, khi một đối tượng vào trong phạm vi nhận thức của thức, qua một trong 5 cửa, một sát na của Bhavanga được trôi qua. Sát na ấy gọi là quá khứ hữu phần (atìtabhavanga). Rồi lộ trình của các tâm tiếp tục tiếp diễn cho đến 16 sát-na. Một đối tượng như vậy gọi là rất lớn. 

- 29 Dục giới tốc hành tâm là: Bất thiện 12 + Thiện 16 + Tiếu sanh tâm 1. 

- Một đối tượng tồn tại cho đến 17 tâm sát-na như sau: 

* Pancadvàràvajjana 1 + cakkhuvinnànam 1 + sampaticchana 1 + santìrana 1 + votthapana 1 + Javana 7 + Tadàlambana 2 = 14. 

* Bhavannga rung động 2 + quá khứ hữu phần 1 = 3.

CÁC ÐỐI TƯỢNG RẤT LỚN, LỚN, NHỎ, RẤT NHỎ

I. PÀLI VĂN. 

- 9) a) Ettàvatà cuddasa vìthicittuppàdà, dve bhavangacalanàni, pubbevàtìtakamekacittakkhananti katvà sattarasacittakkhanàni paripùrenti, tato param nirujjhati. Àrammanametam atimahantam nàma gocaram.

b) Yàva tadàrammanuppadà pana appahontàtìtakamàpàthamàgatam àrammanam mahantam nàma. Tattha javanàvasàne bhavangapàto va hoti, natthi tadàrammanuppàdo.

c) Yava javanuppàdà pi appahontàtìtakamàpàthamàgatam àrammanam parittam nàma. Tattha javanampi anuppajjitvà dvittikkhattum votthapanameva pavattati, tato param bhavangapàto va hoti.

d) Yàva votthapanuppàdà ca pana appahontàtìtakamàpàthamàgatam nirodhàsannamàrammanam atiparittam nàma. Tattha bhavanga-calanameva hoti, natthi vìthicittuppàdo.

e) Iccevam cakkhudvàre tathà sotadvàràdisu ceti sabbathàpi pancadvàre tadàrammana-javana-votthapana-moghavàrasankhàtànam catunnam vàrànam yathàkkamam àrammabhùtà visayappavatti-catudhà veditabbà.

II. THÍCH VĂN. 

- Cuddasa vìthicittuppàdà: 14 sự sinh khởi các tâm ở trong lộ trình. Patipùrenti: Làm cho đầy đủ. Gocaram: Cảnh, đối tượng. Appahontàtìtakam: Trải qua một thời gian ngắn. Dvittikkhattun: 2 hay 3 lần. Nirodhàsannamàrammanam: Ðối tượng sắp sửa diệt. Mogha: Trống rổng, vô ích. Vàra: Sự trình bày.

III. VIỆT VĂN. 

- 9) a) Như vậy một đối tượng sống đầy đủ cho đến 17 tâm sát-na sau khi được thâu nhận chậm đến một tâm sát-na, tức là 14 tâm sanh ra ở trên lộ trình, hai sự rung động của hữu phần. Sau đó tâm ấy diệt. Một đối tượng như vậy gọi là rất lớn.

b) Một đối tượng được gọi là lớn nếu được thâu nhận chậm hơn và không thể tồn tại cho đến khi đồng sở duyên khởi lên. Ðến cuối Tốc hành tâm, đối tượng ấy chìm vào hữu phần và đồng sở duyên tâm không khởi lên.

c) Một đối tượng được gọi là nhỏ nếu được thâu nhận chậm hơn và không thể tồn tại cho đến khi Tốc hành tâm khởi lên, ở đây Tốc hành tâm không khởi lên, xác định tâm phải tồn tại hai hay ba tâm sát-na. Xong lại chìm vào hữu phần.

d) Một đối tượng sắp sửa diệt được gọi là rất nhỏ nếu được thâu nhận rất chậm và không thể tồn tại cho đến khi xác định tâm khởi lên. Ở đây Hữu phần chỉ rung động, lộ trình tâm không khởi lên.

e) Như vậy đối với nhãn môn. Cũng vậy đối với nhĩ môn v.v... tổng cộng tất cả 5 môn, có 4 sự trình bày của đối tượng, tùy theo thứ tự, theo 4 cách, được biết là Tadàlambana-vàra, tồn tại cho đến Tốc hành tâm, Votthapanavàra, tồn tại cho đến xác định tâm và moghavàra, chỉ khiến cho Hữu phần rung động.

IV. THÍCH NGHĨA

- Vìthicitta: Những tâm khởi ra trên lộ trình có 14: Ngũ môn hướng tâm 1 + Nhãn thức + Tiếp thọ tâm 1 + Suy đạc tâm 1 + Votthapana 1 + Javana 7 + Tadàlambana 2.

TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 10) Vìthicittàni satteva cittuppàdà catuddasa, Catupannàsa vitthaàrà pancadvàre yathàraham.

II. THÍCH VĂN. 

- Vìthicittàni: Những tâm trên lộ trình. Catupannàsa: 54. Vitthàrà: Nói rộng ra.

III. VIỆT VĂN. 

- 10) Tại 5 môn khởi lên, tùy theo thứ tự:

1. Chỉ có 7 giai đoạn Tâm sát-na trên lộ trình của tâm.
2. 14 sát-na tâm
3. Và rộng hơn có 54 tâm.

IV. THÍCH NGHĨA

- 7 giai đoạn của tâm sát-na là ngũ môn hướng tâm, một trong năm thức, tiếp thọ tâm, suy đạc tâm, xác định tâm, Tốc hành tâm và Ðồng sở duyên.

- 14 Tâm sát-na là ngũ môn hướng tâm 1 + một trong 5 thức 1 + Tiếp thọ tâm 1 + Suy đạc tâm 1 + Xác định tâm 1 + Tốc hành tâm 7 + Ðồng sở duyên 2: 14.

- 54 tâm là 54 Dục giới tâm (12 bất thiện + 18 vô nhân tâm + 24 Tịnh quang tâm).

PHẦN HAI - LỘ TRÌNH QUA Ý MÔN

I. PÀLI VĂN. 

- 11) Mano-dvàre pana yadi vibhùtamàlambanam àpàthamàgacchati, tato param bhavangacalana-manodvàràvajjana-javanàvasàne tadàlambana-pàkàni pavattanti, tato param bhavanga-pàto.

Avibhùte àlambane javanàvasàne bhavangapàtova hoti, natthi ta-dàlambanuppàdo.

II. THÍCH VĂN. 

- Yadi: Nếu. Vibhùtamàlambanam: Ðối tượng rõ ràng. Avibhùte: Không rõ ràng.

III. VIỆT VĂN. 

- 11) Nếu một đối tượng rõ ràng vào trong phạm vi nhận thức ngang qua ý môn, tiếp theo đó Ðồng sở duyên dị thục tâm khởi lên sau Hữu phần rung động, Ý môn hướng tâm, Tốc hành tâm. Tiếp theo lại chìm vào Hữu phần. Nếu một đối tượng không rõ ràng, thời sau Tốc hành tâm, rơi vào Hữu phần, Ðồng sở duyên tâm không sanh khởi.

IV. THÍCH NGHĨA

- Những đối tượng của sự nhận thức ngang qua ý môn thuộc về Dục giới, như khi tưởng nhớ, suy nghĩ hay nội quán. Hay thuộc về Ðại hành, như là quang tướng của đối tượng tu thiền; Hay là những khái niệm của vô sắc giới, hay của siêu thế giới, tức là Niết bàn.

Ðối tượng ở Dục giới có thể rõ ràng hay không rõ ràng. Khi đối tượng rõ ràng, lộ trình của tâm tồn tại cho đến 2 sát-na của Ðồng sở duyên tâm. Nhưng nếu đối tượng không rõ ràng, thời chỉ đến giai đoạn Tốc hành tâm rồi chìm xuống Hữu phần.

Khi một người tu hành quán tưởng trên một đối tượng của Ðại hành hay của Siêu thế, vị này chứng được nhiều lộ trình trên đối tượng này và chìm xuống Bhavanga (Hữu phần) nhiều lần. Sau một thời gian tu tập, vị ấy có thể tùy theo ý muốn gìn giữ Tốc hành tâm (Javana) không cho chìm xuống Bhavanga (hữu phần). Ðó gọi là Thiền tâm được tên là Appanà (An-chỉ). Lộ trình Dục giới tâm này rất quan trọng và được gọi là Appanà-Javana-vàra hay lộ trình của tâm đến Appanà-Javana. Lộ trình này rất quan trọng, vì chính ở lộ trình này mà Dục giới tâm chấm dứt và Ðại Hành hay Siêu thế tâm bắt đầu.

Dục giới Tốc hành tâm này phải là một trong 8 Tịnh quang tâm tương ứng với Trí (4 Thiện + 4 Duy tác), không thể là bất thiện hay không tương ứng với Trí. Ba hay bốn Sát-na tâm đầu của Dục giới Tốc hành tâm này thuộc về Dục giới. Ðại hành hay Siêu thế Tốc hành bắt đầu từ thứ tư hay thứ năm. Nhưng Dục giới Tốc hành tâm này rất mạnh và được gọi: 1) Parikamma (Chuẩn bị), 2) Upacàra (Cận hành), 3) Anuloma (Thuận thứ) và 4) Gotrabhù (Chuyển tánh). Sau Appanà Javana, sẽ không có Tadàlambana (Ðồng sở duyên), vì ở đây đối tượng không phải thuộc Dục giới.

TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 12) Vìthi - cìttàni tineva cittuppàdà daserità Vitthàrena panethekacattàlìsa vibhàvaye.

II. THÍCH VĂN. 

- Daserità: Ðược trình bày. Vibhàvaye: Sẽ làm cho rõ ràng, sẽ giải thích.

III. VIỆT VĂN. 

- 12) 3 loại và 10 loại (tâm) trên lộ trình của tâm được trình bày. Sẽ được giải thích với các chi tiết, là có tất cả 41 loại tâm.

IV. THÍCH NGHĨA

- 3 loại tức là 3 tâm: Ý môn hướng tâm, Tốc hành tâm và Ðồng sở duyên

- Mười tâm sát-na là Ý môn hướng tâm 1 + Tốc hành tâm 7 + Ðồng sở duyên 2. 

- 41 tâm thuộc Dục giới được khởi lên, trừ 13 tâm sau này: 10 Thức tâm + 1 Ngũ môn hướng tâm + 2 Tiếp thọ tâm. Nên để ý rằng 3 Suy đạc tâm và 8 Ðại Dị thục khởi lên trên lộ trình qua ý môn, dưới danh nghĩa Ðồng sở duyên.

LỘ TRÌNH CỦA AN-CHỈ TỐC HÀNH TÂM

I. PÀLI VĂN. 

- 13) Appanàjavanavàre pana vibhùtàvibhùtabhedo natthi. Tathà tadàrammanuppàdo ca. Tattha hi nànasampayut-takàmàvacarajavanànamatthannam annatarasmim parikammopacàrànulo-magotrabhùnàmena catukkhattum tikkhattumeva và yàthàkkamam up-pajjitvà niruddhànantarameva yathàraham catuttham pancamam và chabbìsati mahaggata-lokuttara-javanesu yathàbhinìhàravasena yam kinci javanam appanàvìthimotarati, tato param appanà-javanàvasàne bhavangapàto va hoti.

II. THÍCH VĂN. 

- Parikamma: Chuẩn bị. Upacàra: Cận hành. Anuloma: Thuận thứ. Gotrabhù: Chuyển tánh. Chabbìsati: 26. Yathàbhinìhàravasena: Tùy theo sự nỗ lực thích hợp. Appanàvìthimotarati: Ði xuống lộ trình của Appanà (An chỉ).

III. VIỆT VĂN. 

- 13) Trong sự diễn hành của An-chỉ tốc hành, không có phân biệt đối tượng rõ ràng và không rõ ràng. Cũng không có sự sanh khởi của Ðồng sở duyên. Ở đây, một trong 8 Dục giới Tốc hành tâm, tương ứng với trí, tùy theo thứ tự khởi lên, 4 lần hay 3 lần, dưới danh nghĩa Parikamma (chuẩn bị), Upacàra (cận hành) Anuloma (thuận thứ) và Gotrabhù (chuyển tánh). Liền sau khi chúng diệt, trong sát-na thứ tư hay thứ năm tùy theo trường hợp, một Tốc hành tâm trong 26 Ðại hành và Siêu thế tâm đi vào trong lộ trình của An chỉ chỉ tùy theo sự cố gắng thích hợp.

IV. THÍCH NGHĨA

- Appanà nghĩa là hướng dẫn và y chỉ nhứt tâm trên đối tượng (Ekaggam cittam àrammane appenti), như vậy là một hình thức của vitakka (tầm) nhưng sắc sảo và mãnh liệt hơn. Vị muốn tu thiền lựa chọn một đối tượng thích hợp, tùy theo tánh tình của mình rồi chuyên chú quán tưởng cho đến khi chứng được sơ thiền. Ở đây lộ trình của tâm sẽ như sau: Manodvàràvajjana (Ý môn hướng tâm), Parikamma (Chuẩn bị tâm), Upacàra (Cận hành tâm), Anuloma (Thuận thứ tâm), Gotrabhù (Chuyển tánh), Appanà (An chỉ). Tâm đầu là Ý môn hướng tâm, đến trước Tốc hành tâm, và tùy thuộc với đối tượng được nhận thức.

Thứ đến Parikamma (Chuẩn bị tâm), sở dĩ được gọi vậy vì tâm này sửa soạn chuẩn bị cho một tâm cao hơn, hoặc là Ðại-hành tâm, hoặc là Siêu thế tâm. Xong đến Upacàra hay Cận hành tâm, vì tâm này khởi lên rất gần với thiền tâm hay Siêu thế tâm sắp chứng được. Thông thường hai sát-na tâm này khởi lên, bắt đầu cho lộ trình của Appanà (An chỉ). Nhưng đối với vị tu hành đã thuần thục, chỉ có Upacàra tâm khởi lên, không có Parikamma tâm. Tâm sát-na thứ ba được gọi là Anuloma (Thuận thức) vì tâm này vừa thuận với tâm trước và thuận với tâm tiếp (gotrabhù). Gotrabhù nghĩa là tâm đã diệt trừ Dục giới tánh, phát triển đại hành tánh hoặc siêu thế tánh. Tiếp theo tâm này là tâm Appanà. Ðến đấy định tâm đã đạt được mức độ rất cao.

Một Jhàna chưa phát triển đến mực độ tối đa được gọi là Upacàrasamàdhi. Ðối với người phàm phu hay người hữu học (Sekha), một trong 4 Dục giới Tốc hành thiện tâm, tương ứng với trí khởi lên. Ðối với vị vô học (asekha), thời một trong 4 Dục giới Tốc hành Duy tác tâm, tương ứng với trí khởi lên. Lộ trình của Siêu thế appanà-javana được diễn tiến như sau:

1) Parikamma, 2) Upacàra, 3) Anuloma, 4) Gotrabhù, 5) Magga, 6) Phala, Phala, 
(Chuẩn-bị, Cận-hành, Thuận-thứ, Chuyển-tánh, Ðạo tâm, Quả tâm, Quả tâm).

Trong lộ trình này, Parikamma có thể khởi hay không tùy theo trình độ tu hành. Ở đây Gotrabhù nghĩa là tâm đã diệt trừ dục giới tánh và phát triển siêu thế tánh.

Một trong 4 Dục giới Tốc hành thiện tâm, tương ứng với trí khởi lên trong 4 giai đoạn sơ khởi này. Ðối tượng của ba tâm sát-na đầu tiên thuộc về Dục giới, nhưng đối tượng của tâm sát-na thứ tư là Niết-bàn. Tuy vậy tâm sát-na Gotrabhù (Chuyển tánh) này chưa có thể diệt trừ các phiền não. Chỉ có Ðạo tâm (magga) tiếp theo mới làm cả hai phận sự thể nhập Niết-bàn và diệt trừ phiền não. Magga hay đạo tâm chỉ khởi có một lần, tiếp theo là 2 quả tâm, nếu có Parikamma, hoặc 3 Quả tâm nếu không có Parikamma.

Trong trường hợp đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền, tâm sát-na thứ tư được gọi là Vodàna (thanh tịnh), thế cho Gotrabhù. Nếu có tâm Parikamma, thì Vodàna khởi lên vào sát-na thứ tư, nếu không thì vào sát-na thứ ba.

Một trong 4 Ðạo tâm (Magga) chỉ khởi lên một lần trong đời người. Nhưng Quả tâm thì có thể chứng được cả ngày liên tục. Ba Quả tâm trước, Dự lưu, Nhứt lai, Bất lai khởi lên sau một Tốc hành thiện tâm.

Khi hưởng quả A la hán, thì Tốc hành tâm khởi trước phải là Duy-tác, vì một vị A la hán không có Tốc hành thiện tâm.

- 26 Tốc hành tâm tức là Ðại hành 18 + Siêu thế 8.

SỰ LIÊN LẠC GIỮA TỐC HÀNH VÀ AN CHỈ-TÂM

I. PÀLI VĂN. 

- 14) Tattha somanassasahagatajavanànantaram appanà pi somanassasahagatà va pàtikankhitabbà. Upekkhàsahagatajavanànantaram upekkhàsahagatà va. Tatthàpi kusalajavanànantaram kusalajavanam ceva hetthimam ca phalattayamappeti. Kriyàjavanànantaram kriyàjavanam arahattaphalan cà ti.

II. THÍCH VĂN. 

- Pàtikankhitabbà: Cần được mong đợi. Hetthimam: Thấp hơn.

III. VIỆT VĂN. 

- 14) Ở đây, tiếp theo Tốc hành tâm tương ứng với hỷ, thời Appanà tâm sẽ tương ứng với hỷ. Appanà tâm sẽ tương ứng với xả, nếu Tốc hành tâm đi trước tương ứng với xả. Ở đây, nếu Tốc hành tâm đi trước là thiện, thì Appanà-javana cũng thiện hay, nếu là ba Quả chứng, thời ba Quả tâm thấp hơn khởi lên. Một Tốc hành Duy-tác sẽ được một Tốc hành Duy-tác tiếp theo hay A la hán quả tiếp theo.

TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 15) Dvattimsasukhapunnamhà dvàdasopekkhakà param.
Sukhitakriyato attha cha sambhonti upekkhakà.
Puthujjanàna sekkhànam kàmapunna-tihetuto.
Tihetukàmakriyato vìtaràgànamappanà.

II. THÍCH VĂN. 

- Dvattimsa: 32. Sambhonti: Có. Tihetuto: Từ ba nhân. Vìtaràgànam: Các vị đã diệt trừ tham, tức là các vị A la Hán.

III. VIỆT VĂN. 

- 15) Sau Thiện tâm câu hữu với hỷ, 32 tâm khởi lên; Sau thiện tâm câu hữu với xả, 12 tâm khởi lên; sau Duy tác tâm câu hữu với hỷ, 8 tâm khởi lên; sau Duy-tác tâm câu hữu với xả, 6 tâm khởi lên.

Ðối với phàm phu và các hạng Hữu-học, quả Appanà (An-chỉ) khởi lên tiếp theo Dục giới thiện tâm có ba nhân; Ðối với các vị A la Hán, thời quả Appanà (An-chỉ tâm) khởi lên tiếp theo Dục giới Duy-tác tâm có ba nhân.

IV. THÍCH NGHĨA

- Thiện tâm câu hữu với hỷ là 2 Dục giới tâm câu hữu với hỷ và tương ứng với trí.

- Có 32 An-chỉ thiện tâm câu hữu với Hỷ:

Sắc giới (4 thiền câu hữu với lạc): 4
Ðạo (4 Ðạo x 4 thiền): 16
Quả (3 quả trước x 4 Thiền): 12

- Có 8 An-chỉ Duy tác tâm câu hữu với Hỷ:

Sắc giới (4 thiền đầu): 4
Siêu thế giới (A la hán quả x 4 thiền): 4

- 12 An-chỉ thiện tâm câu hữu với xả:
Sắc giới (Thiền thứ 5): 1
Vô sắc giới: 4
Siêu thế (Trừ A la Hán quả): 7

- Có 6 An-chỉ Duy-tác tâm câu hữu với xả:

Sắc giới (Thiền thứ 5): 1
Vô sắc giới: 4
Siêu thế, A la Hán quả: 1

PHẦN BA - ÐỒNG SỞ DUYÊN TÂM (Tadàlambana)

I. PÀLI VĂN. 

- 16) Sabbathà pi panettha anitthe àrammane akusalavipàkàneva pancavinnàna-sampaticchana-santìrana-tadàrammanàni. Itthe kusala-vipàkàni. Atiitthe pana somanassa-sahagatàneva santìranata-dàrammanàni.

Tatthàpi somanassasahagatakriyàjavanàvasàne somanassasahagatàneva tadàrammanàni bhavanti. Upekkhàsahagatakriyàjavanàvasàne ca upekkhà-sahagatàni honti.

II. THÍCH VĂN. 

- Anitthe àrammane: Ðối tượng không khả ái. Itthe: Khải ái. Atiitthe: Hết sức khả ái.

III. VIỆT VĂN. 

- 16) Trong tất cả trường hợp, nếu là một đối tượng không khả ái, thời 5 Thức tâm, Tiếp thọ tâm, Suy đạc tâm, và Ðồng sở duyênBất thiện Dị thục. Nếu là một đối tượng khả ái, thì các tâm trên thuộc Thiện dị-thục. Nếu đối tượng rất khả ái, thời Suy đạc tâm và Ðồng sở duyên tâm câu hữu với hỷ.

Nếu Tốc hành tâm của vị A la hán câu hữu với hỷ, Ðồng sở duyên của vị này cũng sẽ câu hữu với hỷ. Nếu Tốc hành tâm câu hữu với xả, Ðồng sở duyên của vị này sẽ câu hữu với xả.

IV. THÍCH NGHĨA

- Một kinh nghiệm hiện tạiDục giới được tâm thức ghi nhận tùy theo thái độ của chúng ta đối với đối tượng, thái độ này tùy thuộc kết quả của nghiệp chúng taquá khứ. Do vậy, những tâm làm công tác Tadàlambana là 11 Dị thục tâm tức là 3 Suy đạc tâm và 8 Ðại Dị thục.

Nếu Suy đạc tâm câu hữu với hỷ, đối với một đối tượng rất khả ái, thời Tadàlambana cũng câu hữu với hỷ. Tadàlambana vì quá muội lược nên không có thể tương ứng với sân. Tadàlambana là kết quả của những kinh nghiệm quá khứ của chúng ta. Một người có thể quán một vật khả ái đầy những nguy hiểm, nhưng Tadàlambana có thể câu hữu với hỷ. Cũng vậy một người có thể quán Từ bi đối với con rắn, nhưng tại Tadàlambana, người ấy chỉ có xả, không có hỷ. Chỉ có A la hánthể chế ngự Tadàlambana, và trong trường hợp này, Tadàlambana với Javana đồng tánh với nhau.

ÐỒNG SỞ DUYÊN VÀ ÐỐI TƯỢNG Ở DỤC GIỚI

I. PÀLI VĂN. 

- 17) Domanassasahagatajavanàvasàne pana tadàrammanàni ceva bhavangàni ca upekkhàsahagatàni eva bhavanti. Tasmà yadi somanassapatisandhikassa domanassa-sahagatajavanàvasàne tadà-rammanasambhavo natthi, tadà yam kinci paricitapubbam parittàramma-namàrabbha upekkhàsahagatasantìranam uppajjati. Tamanantaritvà bhavangapàto va hotìti vadanti àcariyà.

Tathà kàmàvacarajavanàvasàne kàmàvacarasattànam kàmàvacaradhammesveva àrammnabhùtesu tadàrammanam icchantìti.

II. THÍCH VĂN. 

- 17) Domanassa: Ưu. Avasàne: Cuối cùng. Paricitapubbam: Quen thuộcquá khứ. Parittàrammanàrabbha: Y cứ trên dục giới đối tượng. Anantaritvà: Tiếp theo, sau khi đó. Àcariyà: Pháp sư.

III. VIỆT VĂN. 

- 17) Tiếp theo Tốc hành tâm câu hữu với ưu, cả hai Ðồng sở duyênHữu phần đều tương ứng với xả. Do vậy, đối với một người mà Kiết sanh thức tương ứng với hỷ, thời sau Tốc hành tâm tương ứng với ưu, sẽ không có Ðồng sở duyên, khi ấy một Suy đạc tâm tương ứng với xả khởi lên, từ một đối tượng thuộc Dục giới mà người ấy quen thuộc trong quá khứ. Liền sau đó, theo ý kiến một vài Pháp-sư, sẽ chìm xuống trong Hữu phần. Ðồng sở duyên chỉ có thể khởi, cuối cùng một Dục giới Tốc-hành tâm, với những chúng sanhDục giới và chỉ đối với một đối tượng thuộc Dục giới.

IV. THÍCH NGHĨA

- Ðồng sở duyên tiếp theo một Dục giới Tốc hành tâm câu hữu với hỷ sẽ câu hữu với hỷ. Cũng vậy, những Tốc hành tâm câu hữu với xả. Theo thông lệ, Tốc hành tâm đi trước và Ðồng sở duyên tâm đi sau đều cùng chung một cảm thọ. Nhưng nếu Tốc hành tâm câu hữu với ưu, thời Ðồng sở duyên sẽ tương ứng với xả. Nếu Kiết sanh thức (Patisandhi) của một người câu hữu với hỷ thời sẽ không có Ðồng sở duyên vì Bhavanga tiếp theo cũng câu hữu với Hỷ. Trong trường hợp này Suy đạc tâm câu hữu với xả khởi lên trong một sát-na và được gọi là àganutukabhavanga. Thông thường, đối tượng của Tốc hành tâm và của Ðồng sở duyên tâm giống nhau. Trong trường hợp này, đối tượng lại khác nhau. Ðối tượng của Santìrana (Suy đạc tâm) là một Dục giới đối tượng mà người này đã quen thuộc trong đời trước của người này. Ðối tượng này được gọi là Paritta (nhỏ) so sánh với sắc giới, vô sắc giới, siêu thế giới đối tượng. Nếu Kiết sanh thức (Patisandhi) không câu hữu với hỷ, thời Ðồng sở duyên sẽ trở thành Upekkhà (xả) cũng như Bhavanga tiếp theo...

TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 18) Kàme javanasattàrammanànam niyame sati Vibhùtetimahante ca tadàrammanam ìritam.

II. THÍCH VĂN. 

- Satta: Chúng sanh. Niyame: Chắc chắn. Sati: Có. Vibhùta: Rõ rệt. Iritam: Ðược nói đến.

III. VIỆT VĂN. 

- 18) (Các vị) nói rằng Ðồng sở duyên khởi lên, đối với những đối tượng rõ rệt và rất lớn, khi nào có sự chắc chắn đối Dục-giới tốc hành tâm, chúng sanh và đối tượng.

IV. THÍCH NGHĨA

- Tadàlammbana chỉ khởi ra sau những Dục giới Tốc hành tâm, chỉ với những chúng sanhDục giới, với những đối tượng ở Dục giới, những đối tượng này hoặc rất lớn hoặc rất rõ ràng.

CÁC TỐC HÀNH TÂM: THỜI GIAN TÁNH DỤC GIỚI VÀ ÐẠI HÀNH TÂM

I. PÀLI VĂN. 

- 19a) Javanesu ca parittajavanavìthiyam kàmà-vacarajavannàni sattakkhattum chakkhattumeva và javanti. Mandappavat-tiyam pana maranakàlàdisu pancavàrameva. Bhagavato pana yamakapà-tihàriya-kàlàdisu lahukappavattiyam cattàri panca và paccavekkhanacit-tàni bhavantìti pi vadanti. Àikammikassa pana pathâkappanàyam mahaggatajavanàni abhinnàjavanàni ca sabbathàpi ekavàrameva javanti, tato param bhavangapàto va.

II. THÍCH VĂN. 

- Sattakkhattum: 7 lần. Chakkhattumeva: 6 lần. Mandapavattiyam: Khi bị bất tỉnh. Maranakàla: Khi sắp chết. Pacavàram: 5 lần. Yamakapàtihàriyakàlà: Trong khi hiện thần thông Song hành. Kahukappavattiyam: Khi sự diễn tiến quá mau lẹ. Àdikammika: Người mới tập sự. Pathamakappanàyam: Trong khi tu sơ thiền. Abhinnàjavanàni: Những thắng trí tốc hành tâm. Ekavàrameva: Chỉ có một lần.

III. VIỆT VĂN. 

- 19a) Trong những Tốc hành tâm, khi lộ trình thuộc về Dục giới, thời những Dục giới tốc hành tâm sẽ khởi lên 7 lần hay sáu lần. Trong trường hợp bị bất tỉnh hay khi gần chết v.v..., tốc hành tâm được lặp đi lặp lại 5 lần. Khi đức Thế-Tôn làm các thần thông gọi là song hành v.v..., khi sự diễn tiến rất mau lẹ, nên tâm suy quán khởi lên 5 hay 6 lần (các vị Pháp sư) nói như vậy.

Ðối với kẻ tu hành mới chứng lần đầu tiên, trong thiền thứ nhất, những Ðại-hành tốc hành tâm và Thắng trí tốc hành tâm khởi lên chỉ có một lần trong mọi trường hợp, rồi bị chìm xuống Bhavanga (Hữu phần).

IV. THÍCH NGHĨA

- Cả về phương diện tâm lýđạo đức, Javana tâm rất quan trọng vì thiện hay ác được định đoạt trong giai đoạn này. Thông thường Dục giới Tốc hành tâm tồn tại 6 hay 7 sát-na. Khi con người bị bất tỉnh hay sắp chết, tốc hành tâm tồn tại chỉ có 5 sát-na. Khi đức Phật hiện thần thông, phun lửa lẫn nước từ thân của Ngài, chỉ có 4 hay 5 Tốc hành tâm khởi lên để suy quán những tâm sở thiền, một điều kiện tiên quyết để hiện thần thông song hành. Khi người tu thiền lần đầu tiên, chứng được sơ thiền Tốc hành tâm chỉ tồn tại có một sát-na. Cũng vậy khi chứng được 5 Thắng trí (Abhinnà) tức là: 1) Iddhividha (Thần túc thông), 2) Dibbasota (Thiên nhĩ thông), 3) Dibbacakkhu (Thiên Nhãn thông), 4) Paracittavijànana (Tha tâm-thông), 5) Pubbe nivàsànussatinànna (Túc mạng thông).

SIÊU THẾ TỐC HÀNH TÂM

I. PÀLI VĂN. 

- 19b) Cattàro pana magguppàdà ekacittakkhanikà. Tato param dve tìni phalacittàni yathàraham uppajjanti. Tato param param bhavangapàto. Nirodhasamàpattikàle dvikkhattum catutthàruppajavanam javati. Tato param nirodham phusati. Vutthànakàle ca anàgàmiphalam và arahattaphalam và yathàrahamekavàram uppajjitvà niruddhe bhavangapàto va hoti.

Sabbathà pi samàpattivìthiyam bhavangasote viya vìthiniyamo natthìti katvà bahùni pi labbhantìti.

20. Sattakkhattum parittàni maggàbhinnà sakim matà.
Avasesàni labbhanti javanàni bahùni pi.

II. THÍCH VĂN. 

- Magguppàdà: Khi đạo tâm sanh khởi. Ekacittakkhanikà: Nhứt tâm sát-na. Nirodhasamàpattikàle: Khi chứng diệt tận định. Phusati: Cảm xúc. Catutthàruppajavanam: Vô sắc đệ tứ thiền tốc hành tâm. Vutthànakàle: Khi từ định khởi dậy. Ekavàram: Một lần. Bhavangasote: Trên dòng của Hữu phần. Vìthiniyamo: Sự quyết định của lộ trình. Sakim: Một lần. Matà: Cần phải hiểu. Avasesàni: Những trường hợp khác.

III. VIỆT VĂN. 

- 19b. 4 Ðạo khởi lên chỉ tồn tại có một sát-na. Rồi đến hai hay ba Quả tâm tùy thuộc khởi lên. Rồi chìm xuống Hữu-phần. Khi chứng Diệt tận định, Ðệ tứ thiền Tốc hành tâm cõi vô sắc chạy đến hai lần, rồi chứng Diệt tận định. Khi từ định ấy khởi dậy, hoặc A-na-hàm quả hay A la hán quả tùy thuộc khởi lên một lần. Khi quả tâm này diệt, thời chìm xuống Hữu phần.

Trong mọi trường hợp, trên lộ trình của sự quả chứng này, lộ trình diễn tiến như dòng sông của Hữu phần, không có sự dừng nghi lộ trình của tâm, Tốc hành tâm có thể tồn tại lâu dài.

20. Cần phải biết, Tốc hành tâmDục giới khởi lên 7 lần, Ðạo tâm và Thắng trí tâm chỉ có một lần. Các trường hợp khác, các Tốc-hành tâm khởi lên nhiều lần.

IV. THÍCH NGHĨA

- 4 Tốc hành Ðạo tâm cũng chỉ có một tâm sát-na. Chính ở đây mà Niết-bàn được trực nhận lần đầu tiên. Một vị A na hàm hay A la hán đã tu sắc giớivô sắc giới thiền có thể, với sức mạnh của ý chí, tạm dừng sự trôi chảy của tâm thức cho đến 7 ngày không dừng nghỉ. Khi một người chứng đến quả này, mọi hoạt động tâm linh đều dừng nghỉ, cho đến hơi thở cũng không, nhưng vẫn còn mạng căn và sức nóng. Sự sai khác giữa một thây chết và một vị vào Diệt tận định là vị này vẫn sống như thường. Ðịnh này được đặt tên là Nirodhasamàpatti, nirodha là diệt. Samàpatti là chứng đến. Sách nói rằng thân của vị đang nhập định này không thể bị ai làm hại.

Liền trước khi chứng định này, vị này chứng trong hai sát-na, vô sắc đệ tứ thiền (phi tưởng phi phi tưởng xứ). Rồi dòng tâm thức dừng lại cho đến khi vị này muốn xuất khỏi Diệt tận định. Thường lệ, vị này nhập định khoảng một tuần lễ. Khi vị này từ định khởi dậy, sát-na tâm đầu tiên là A na Hàm quả tâm nếu vị này là vị A na Hàm; hay là A la hán quả tâm nếu vị này là A la hán. Sau đó dòng tâm thức chìm lại trong Bhavanga.

PUGGALA-BHEDA: CÁC LOẠI CHÚNG SANH - VÔ NHÂNNHỊ NHÂN CHÚNG SANH

I. PÀLI VĂN. 

- 21) Duhetukànamahetukànan ca panettha kriyàjavanàni ceva appanàjavanàni ca na labbhanti. Tathà nànasampayutta-vipàkàni ca sugatiyam. Duggatiyam pana nànavippayuttàni ca mahàvipàkàni na labbhanti.

II. THÍCH VĂN. 

- Duhetukànam: Những chúng sanh có hai nhân. Ahetukànam: Những chúng sanh vô nhân. Kriyàjavanàni: Duy tác tốc hành tâm. Appanàjavanàni: An chỉ tốc hành tâm. Na labbhanti: Không có được. Sugatiyam: Ở Thiện thú. Duggatiyam: Ở Ác thú.

III. VIỆT VĂN. 

- 21) Ở đây, đối với chúng sanhdị thục hai nhân và không nhân, không có Duy-tác Tốc hành tâm và An chỉ Tốc hành tâm. Cũng vậy chúng sanhthiện thú cũng không có Dị thục tâm tương ứng với trí. Còn chúng sanh sinh ở ác thú thời Ðại Dị-thục không tương ứng với trí cũng không có.

IV. THÍCH NGHĨA

- Vì sự sai khác của tâm tánh nên chúng sanh chia làm ba loại.

a) Chúng sanh hạ tánh: Tâm của chúng thuộc bản năng và hành động của chúng bị tham, sân, si chi phối trong đời trước. Tâm của chúng yếu ớt như Suy-đạc tâm câu hữu với xả, tức là Dị-thục bất thiện tâm. Những hạng này không thể chứng thiền tâm.

b) Những kẻ ngu si, điếc và sinh ra mù. Tâm của chúng cũng thuộc về bản năng như tâm của hạng trước, rất yếu ớt vì hành động quá khứ của chúng được thiện nhân (kusala hetu) rất yếu chi phối, yếu như Suy-đạc tâm câu hữu với xả, tức là Di-thục của thiện tâm không tương ứng với trí. Hai hạng chúng sanh này được gọi là Ahetuka (vô nhân chúng sanh) vì Dị thục của chúng không có nhân nào. Chúng cũng không có thể chứng thiền tâm.

c) Những chúng sanhvô thamvô sân nhưng không có vô si được gọi là Duhekuta (nhị nhân chúng sanh), vì hành động của chúng được vô tham, vô sân chi phối mạnh ở quá khứ, nhưng không có vô si. Chúng không có vô si trong Di thục tâm của chúng. Hạng chúng sanh này không có Jhàna (Thiền)

TAM NHÂN CHÚNG SANH

I. PÀLI VĂN. 

- 22) Tihetukesu ca khìnàsavànam kusalàkusalajavanàni ca na labbhanti, tathà sekkha-puthujjanànam kriyàjavanàni. Ditthigatasampayuttavicikicchàjavanàni ca sekkhànam. Anàgàmipuggalànam pana patighajavanàni ca na labbhanti. Lokuttarajavanàni ca yathàraham ariyànameva samuppajjantì ti.

II. THÍCH VĂN. 

- Tihetukesu: Với chúng sanh có ba nhân. Khìnàsavànam: Ðã diệt trừ các lậu hoặc. Sekkha: Hạng hữu học. Anàgàmipuggalànam: Các chứng sanh chứng quả Bất lai. Patigha: Sân.

III. VIỆT VĂN. 

- 22) Ðối với các vị đã diệt trừ lậu hoặc các hạng ba nhân chúng sanh, thiện và bất thiện Tốc hành tâm không khởi lên. Cũng vậy, đối với chúng sanh phàm phu và hàng hữu học, Duy tác tốc hành tâm không khởi lên. Ðối với các hàng hữu học, tâm tương ưng với tà kiến hay tâm tương ưng với nghi không khởi lên. Ðối với chúng sanh đã chứng A-na-hàm, hai tâm tương ưng với sân không khởi lên. Và những Siêu thế Tốc hành tâm sẽ tùy thuộc sự thích ứng, khởi lên với các vị Thánh.

IV. THÍCH NGHĨA

- Những chúng sanh nào có tâm mạnh mẽ và sáng suốt vì hành động của chúng ở quá khứ được vô tham, vô sânvô si chi phối, được gọi là ba nhân chúng sanh. Sở dĩ được gọi như vậy vì tâm dị thục này câu hữu với ba thiện nhân. Các vị này có thể tu thiền và chứng được Siêu thế tâm.

Các vị có nhị nhân tâm và vô nhân tâm không có được Duy tác hay An-chỉ tâm. Dầu chúng sinh ra làm người, chúng không có Tịnh quang Dị thục tâm tương ưng với trí (vì chúng không có Tịnh quang Thiện tâm tương ưng với trí trong đời trước). Nếu sinh ra làm thú vật hay hạng chúng sanh thấp kém hơn, chúng cũng không có Tịnh quang Dị thục tâm không tương ưng với trí.

TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 23) Asekkhànam catucattàlìsa sekkhànamuddise, Chapannàsàvasesànam catupannàsa sambhavà.

II. THÍCH VĂN. 

- Uddise: Ðược nói đến. Catucattàlìsa: 44. Chapannàsa: 56. Avasesànam: Các chúng sanh còn lại. Catupannàsa: 54. Sambhavà: Có.

III. VIỆT VĂN. 

- 23) Ðối với hạng vô học, có 44 tâm khởi lên. Ðối với hạng hữu học, có 56 tâm khởi lên. Còn đối với chúng sanh còn lại, có 54 tâm khởi lên.

IV. THÍCH NGHĨA

a) Vị A la hán không có 45 tâm sau đây:

Bất thiện 12 + Dục giới thiện 8 + Sắc giới thiện 5 + Vô sắc giới thiện 4 + Ðạo tâm 4 + Ðại hành Dị thục 9 và ba quả đầu 3.

Trừ 45 tâm này, các vị A la hán có thể có 89 - 54: 44 tâm.

b) Các vị hữu học không có 33 tâm sau đây:

* Duy tác tốc hành tâm (Tiếu sanh tâm 1 + Dục giới hữu nhân tâm 8 + Ðại hành tâm 9): 18.

* Bất thiện tâm tương ưng với Tà kiến 4 + Bất thiện tâm tương ưng với nghi 1 + A la hán quả 1 + Ðại hành Dị thục 9: 15

Trừ 33 tâm này, các vị hữu học có 89 - 33: 56 tâm.

c) Các vị phàm phu không có 35 tâm sau đây:

Duy tác tốc hành 18 + Siêu thế tâm 8 + Ðại hành Dị thục 9. 

Trừ 35 tâm này, các vị phàm phu có 89 - 35: 54 tâm.

CÁC ÐỊA GIỚI: BHÙMI

I. PÀLI VĂN. 

- 24) Kàmàvacarabhùmiyam panetàni sabbàni vìthicittàni yathàrahamupalabbhanti, rùpàvacarabhùmiyam patighajavanatadàrammanavajjitàni. Arùpàvacarabhùmiyam pathamamaggarùpàvacarahasanahe thimàruppavajjitàni ca labbhanti. Sabbatthàpi ca tạm-tạm-pasàdarahitànam tam-tam-dvàrikavìthicittàni na labbhanteva. Asannasattànam pana sabbathà pi cittappavatti natthevà ti.

II. THÍCH VĂN. 

- Upalabbhanti: Có được. Hetthhimà: Các tâm ở dưới. Pasàdarahitànam: Những chúng sanh không có tịnh sắc căn. Asannasattànam: Các chúng sanh vô tưởng. Cittappavatti: Sự diễn tiến của tâm.

III. VIỆT VĂN. 

- 24) Ở trên Dục giới địa, tất cả tâm diễn tiến trên những lộ trình đã nói đến trước đều được khởi lên, tùy theo trường hợp. Trên Sắc giới địa, trừ tốc hành tâm tương ưng với sân và tất cả tâm làm phận sự Ðồng sở duyên.

Trên vô sắc giới địa, đạo tâm thứ nhất, tất cả tâm ở sắc giới, Tiếu sanh tâm và tâm của một sô sắc giới địa thấp hơn không có thể khởi lên.

Trong mọi trường hợp, khi nào thiếu một căn môn nào, thì những tâm của lộ trình khởi qua căn môn ấy không thể khởi lên. Ðối với chúng sanh vô tưởng, trong mọi trường hợp, không có sự diễn tiến của tâm.

TÓM TẮT

I. PÀLI VĂN. 

- 25) Asìti vìthicittàni kàme rùpe yathàraham, Catusatthi tathà-rùpe dvecattàlìsa labbhare.

26) Iccevam chadvàrikacittappavatti yathàsambhavam bhavangantarità yàvatàyukamabbocchinnam pavattatìti.

II. THÍCH VĂN. 

- Asìti: 8. Catusatthi:64. Dvecattàlìsa: 42. Labbhare: Khởi lên, chứng được. Iccevam: Như vậy. Yathàsambhavam: Tùy theo sự có mặt. Bhavangantarità: Sau khi chìm vào trong hữu phần: Yàvatàyukam: Cho đến mạng chung. Abbocchinnam: Không gián đoạn. Pavattati: Diễn tiến.

III. VIỆT VĂN. 

- 25) Ở Dục giới, 8 tâm có thể khởi trên lộ trình. Ở sắc giới 64, và ở vô sắc giới 42 tâm có thể khởi lên tùy theo trường hợp.

26) Như vậy, sự diễn tiến của tâm ngang qua 6 căn môn tùy theo chúng khởi lên, sau khi chìm trong hữu phần, được diễn tiến không có gián đoạn cho đến lúc chết.

IV. THÍCH NGHĨA

- 1) Trừ 9 Ðại hành Dị thục, tất cả 8 tâm còn lại có thể khởi lên trong sự diễn tiến của tâm ở Dục giới.

2) Trừ 16 tâm (Sân tâm 2 + Ðại Dục thục Ðồng sở duyên 8 + Tỷ, thiệt, thân thức 6), 64 tâm còn lại (8 - 16) khởi lên ở sắc giới.

3) 42 tâm sau đây khởi lên ở vô sắc giới:

Bất thiện tâm (trừ 2 sâm tâm) 10 + Ý môn hướng tâm 1 + Dục giới thiện duy tác tâm 16 + Vô sắc giới tâm 8 + Siêu thế tâm (trừ Ðạo tâm thứ nhất) 7 tâm.

TÓM TẮT CÁC LOẠI LỘ TRÌNH

I. Qua 5 căn môn: Ðối tượng rất lớn.

1. Atìta Bhavanga, 2) Bhavanga calana, 3) Bhavangupaccheda, 4) Pancadvàràvajjana, 5) Cakkhuvinnàna, 6) Sampaticchana, 7) Santìrana, 8) Votthapana, 9 - 15) Javana, 16 - 17) Tadàlambana.

(Hữu phần quá khứ, Hữu phần rung động, Hữu phần ngưng lại, 5 môn hướng tâm, Nhãn thức, Tiếp thọ tâm, Suy đạc tâm, Xác định tâm, Tốc hành tâm, Ðồng sở duyên).

II. - Qua ý môn: Ðối tượng rất rõ ràng

1) Manodvàràvajjana, 2 - 8) Javana. 9 - 10) Tadàlambana. 

(Ý môn hướng tâm, Tốc hành tâm, Ðồng sở duyên tâm).

III. Các Sắc giới Thiền tâm

1) Manodvàràvajjana, 2) Parikamma, 3) Upacàra, 4) Anuloma, 5) Gotrabhù, 6) Appanà 

(Ý môn hướng tâm, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tánh, an chỉ).

IV. - Các vô sắc giới Thiền tâm

1) Manodvàràvajjana, 2) Parikamma, 3) Upacàra, 4) Anuloma, 5) Gotrabhù, 6) Àkàsanancàyatana.

(Ý môn hướng tâm, Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, Chuyển tánh, Không vô biên xứ).

V. - Siêu thế tâm

1) Parikamma, 2) Upacàra, 3) Anuloma, 4) Gotrabhù, 5) Magga, 6 - 7) Phala. 

(Chuẩn bị, Cận hành, Thuận thứ, Chuyển tánh, Ðạc tâm, Quả tâm).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32342)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11024)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30265)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11960)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12480)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34280)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52060)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10579)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10534)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12903)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16008)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16067)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13685)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11883)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11634)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16048)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12579)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11901)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15517)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11359)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13875)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11857)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12413)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14786)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11833)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14302)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20447)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13047)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14181)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20075)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13791)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31686)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant