Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương VII: Tập Yếu Những Danh Từ Abhidhamma

21 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9223)
Chương VII: Tập Yếu Những Danh Từ Abhidhamma

ABHIDHAMMATTHASANGAHA
THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN

Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải)
Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973

CHƯƠNG VII
SAMUCCAYA-SANGAHA-VIBHÀGO: 

TẬP YẾU NHỮNG DANH TỪ ABHIDHAMMA

I. PÀLI VĂN. 

- 1) Dvàsattatividhà vuttà vatthudhammà salakkhanà.
Tesam dàni yathàyogam pavakkhàmi samuccayam.

2. Akusalasangaho, missakasangaho, bodhipakkhiya - sangaho, sabbasangaho ceti samuccaya-sangaho catubbiddho veditabbo.

II. THÍCH VĂN. 

- Dvàsattatividhà: Có 72. Salakkhanà: Hữu tướng. Yathàyogam: Tùy thuộc sự liên hệ. Pavakkhàmi: Tôi sẽ nói. Missakasangaho: Tạp loại tập yếu.

III. VIỆT VĂN. 

- 1) 72 pháp đã được nói đến với các tướng của chúng. Nay tôi sẽ nói đến các loại pháp, tùy thuộc sự liên hệ của chúng.

2. Tập yếu các loại pháp cần phải được hiểu có bốn loại: Bất thiện tập yếu, tạp loại tập yếu, Bồ-đề-chi tập yếu, nhứt-thiết tập yếu.

IV. THÍCH NGHĨA

- Vatthudhammà, có tất cả là 72 = 1 + 52 + 18 + 1.

- Tất cả 89 tâm xem là 1 pháp, vì tất cả đều có đặc tướng ý thức.

- 52 Tâm-sở được phân biệt riêng, vì mỗi tâm sở có đặc tướng riêng.

- 18 Sắc-pháp được kể riêng, vì chúng sai khác về đặc tướng.

- Nibbàna xem là một vì đặc tánh của Niết-Bàn là an tịnh.

I. PÀLI VĂN. 

- 3) Katham? Akusalasangahe tàva, cattàro àsavà: Kàmàsavo, bhavàsavo, ditthàsavo, avijjàsavo.

4) Cattàro oghà, kàmogho, bhavogho, ditthogho, avijjogho.

5) Cattàro yogà, kàmayogo, bhavayogo, ditthiyogo, avijjàyogo.

6) Cattàro ganthà, abhijjhà kàyagantho, byàpàdo kàyagantho, sìlabbataparàmàso kàyagantho, idamsaccàbhiniveso kàyagantho.

7) Cattàro upàdànà, kàmupàdànam, ditthupàdànam, sìlabbatupàdànam, attavàdupàdànam.

II. THÍCH VĂN. 

- Àsavo: Lậu. Oghà: Bạo lưu. Yogà: Ách-phược. Ganthà: Hệ-phược. Upàdàna: Thủ.

III. VIỆT VĂN. 

- 3) Như thế nào? Về bất thiện tập yếu, có 4 lậu hoặc tức là Dục lậu, Hữu lậu, Kiến lậuVô minh lậu

4) Có 4 Bạo lưu: Dục bạo lưu, Hữu bạo lưu, Kiến bạo lưuVô minh bạo lưu.

5) Có bốn Ách-phược: Dục ách-phược, Hữu ách-phược, Kiến ách-phược, Vô-minh ách-phược.

6) Có bốn Hệ-phược: Tham thân hệ-phược, Sân thân hệ-phược, Giới cấm-thủ thân hệ-phược, Thử-thực-chấp thân hệ-phược.

7) Có bốn Thủ: Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủNgã kiến thủ.

IV. THÍCH NGHĨA

- Àsavà, từ-ngữ-nguyên à + su, là chảy. Các pháp này được gọi vậy là vì chúng tràn ngập tất cả đời sống hay vì chúng tồn tại cho đến Gotrabhù tâm (chuyển-tánh-tâm) trước khi chứng Dự-lưu. Dục lậu chỉ cho sự tham ái các dục vọng. Hữu-lậu chỉ cho tham-ái sắc và vô sắc giới. Kiến lậu: chỉ cho 62 tà kiến như đã kể trong kinh Brahmajàla (Phạm-Võng), và Vô minh lậu: là vô minh đối với Tứ Ðế, đời quá khứ, đời vị lai, cả hai đời và đối với Lý Duyên-Khởi. Ogha, từ ngữ nguyên ava + han, nghĩa là hại hay giết. Chúng sanh bị đại thủy trào lôi cuốn, trôi giạt ra ngoài biển khơi và nhận chìm xuống đáy sâu, hoặc bị thương nặng, hoặc bị chết chìm. Cũng vậy, các Oghà này cuốn phăng chúng sanh xuống vực thẳm của ác thú. Yoga, từ ngữ nguyên "yuj" nghĩa là mắc cột vào, những gì cột dính chúng sanh vào bánh xe luân hồi sanh - tử. Ganthà là những gì cột tâm với thân, hay thân này với thân các đời sống khác. Chữ kàya dùng có nghĩa là nhóm, chỉ cả thân và tâm. Upàdànàni, từ ngữ căn upa + à + dà, nghĩa là cho. Ái tột độ là thủ. Do Ái nên mới Thủ. Ái như tên trộm sờ soạng trong đêm tối, Thủ chính là lúc ăn trộm. Ngã-kiến-thủ có đến 20 loại đối với 5 uẩn như sau:

a) ngã với thân là một,
b) ngã là sở hữu của thân,
c) ngã ở trong thân,
d) thân ở trong ngã.

Cũng vậy, đối với 4 uẩn còn lại.

I. PÀLI VĂN. 

- 8) Cha nìvaranàni: kàmacchandanìvaranam, byàpàdanìvaranam, thìna-middhanìvaranam, uddhacca-kukkuccanìvaranam, vicikicchànìvaranam, avijjànìvaranam.

9) Sattànusaya - kàmaràgànusayo, bhavaràgànusayo, patighànusayo, mànànusayo, ditthànusayo, vicikicchànusayo, avijjànusayo.

II. THÍCH VĂN. 

- Nìvaranàni: Các triền-cái. Sattànusayà: Bảy tùy-miên.

III. VIỆT VĂN. 

- 8) Có sáu triền-cái: Dục-lậu triền-cái, sân triền-cái, hôn trầm, thụy-miên triền-cái, trạo-hối triền-cái, nghi triền-cái, vô-minh triền-cái.

9) Có bảy Tùy-miên: Dục-ái tùy-miên, Hữu-ái tùy-miên, Sân tùy-miên, Mạn tùy-miên, Kiến tùy-miên, Nghi tùy-miên, vô minh tùy-miên.

IV. THÍCH NGHĨA

- Nìvaranàni, từ ngữ-căn Nì + Var, nghĩa là ngăn che chướng ngại. Sở dĩ gọi vậy vì các pháp này chướng ngại trên con đường tiến tới Niết-Bàn an lạc. Thường chỉ có 5 triền-cái mà thôi, vô-minh triền-cái được bỏ ra ngoài. Dục-lậu được ví như nước có nhiều màu sắc, sân ví như nước sôi, thụy-miên được ví như nước có nhiều rong rêu, trạo-hối được ví như nước bị gió giao động và nghi được ví như nước đục. Các triền-cái này được các thiền làm cho tạm ngưng. Chúng chỉ được trừ diệt hoàn toàn khi chứng 4 quả Thánh. Nghi được trừ diệt khi chứng Dự-Lưu. Ái-Dục, Sân và Hối được trừ diệt khi chứng Bất-Lai. Thụy - miên, hôn-trầm, và trạo-cử được trừ diệt khi chứng quả A-La-Hán. Anusaya: Tùy-miên, từ ngữ - căn Anu + ssi, nghĩa là nằm xuống, ngủ nghỉ, những gì nằm yên và khi có nhân-duyên sẽ khởi lên vì chưa được diệt trừ. Tất cả phiền-não là Anusaya, nhưng chỉ có bảy là mạnh nhất.

I. PÀLI VĂN. 

- 10. Dasa samyojanàni-kàmaràgasamyojanam, rùparàgasamyojanam, arùparàgasamyojanam, patighasamyojanam, mànasamyojanam, ditthisamyojanam, sìlabbata-paràmàsasamyojanam, vicikicchàsamyojanam, uddhaccasamyojanam, avijjàsamyojanam, suttante.

11) Aparàni dasa samyojanàni - kàmaràga - samyojanam, bhavaràgasamyojanam, patighasamyojanam, mànasamyojanam, ditthisamyojanam, sìlabbataparàmàsasamyojanam, vicikicchà-samyojanam, issàsamyojanam, macchariyasamyojanam, avijjàsamyojanam, Abhidhamme.

12) Dasa kilesà: lobho, doso, moho, màno, ditthi, vicikicchà, thìnam, uddhaccam, ahirikam, anottappam.

II. THÍCH VĂN. 

- Samyojanam: Kiết-sử Kilesà: Phiền-não.

III. VIỆT VĂN. 

- 10) Theo Kinh-Tạng, có 10 kiết-sử như sau: Dục ái kiết-sử, Sắc ái kiết sử, Vô sắc ái kiết-sử, Sân kiết sử, Mạn kiết-sử, Kiến kiết-sử, Giới-cấm-thủ kiết-sử, Nghi kiết-sử, Trạo-cử kiết-sử, Vô minh kiết-sử.

11) Theo A-Tỳ-Ðàm Tạng, có 10 kiết-sử khác nữa như sau: Dục ái kiết-sử, Hữu ái kiết-sử, Sân kiết-sử, Mạn kiết-sử, Kiến kiết-sử, Giới cấm-thủ kiết-sử, Nghi kiết-sử, Tật kiết-sử, Xan kiết-sử, Vô minh kiết-sử.

12) Có 10 phiền não: Tham, sân, si, mạn, kiến, nghi, thụy miên, trạo-cử, vô tàm, vô quý.

IV. THÍCH NGHĨA

- Samyojana từ ngữ căn Sam + yuj, nghĩa là cột lại. Các pháp này trói buộc chúng sanh vào bánh xe luân-hồi sanh-tử. Kilesa: là những pháp làm ái-nhiễm và hành-hạ tâm trí. Ðồ-biểu sau đây sẽ nêu rõ các phiền-não được sắp loại theo các pháp bất thiện mới được đề cập. 

 

 

 

(a)

(b)

(c)

(d)

(e)

(f)

(g)

(h)

(i)

1. Lobha (Tanhà): Ái

9

+

+

+

+

+

+

+

+

+

2. Ditthi: Tà kiến

8

+

+

+

+

+

 

+

+

+

3. Avijjà (moha): Vô minh, si

7

+

+

+

 

 

+

+

+

+

4. Patigha (Dosa): Hận, sân

5

 

 

 

+

 

+

+

+

+

5. Vicikicchà (Kankhà): Nghi

4

 

 

 

 

 

+

+

+

+

6. Màna: Mạn

3

 

 

 

 

 

 

+

+

+

7. Uddhacca: Trạo cữ

3

 

 

 

 

 

+

 

+

+

8. Thìna: Thụy miên

2

 

 

 

 

 

+

 

 

+

9. Kukhucca: Hối quá

1

 

 

 

 

 

+

 

 

 

10. Middha: Hôn trầm

1

 

 

 

 

 

+

 

 

 

11. Ahirika: Vô tàm

1

 

 

 

 

 

 

 

 

+

12. Anottappa: Vô quý

1

 

 

 

 

 

 

 

 

+

13. Issà: Tật

1

 

 

 

 

 

 

 

+

 

14. Maccharya: Xan lẫn

1

 

 

 

 

 

 

 

+

 

(a) Àsava (Lậu hoặc)
(b) Ogha (Bạo lưu)
(c) Yogà (Ách phược)
(d) Ganthà (Hệ phược)
(e) Upàdàna (Thủ)
(f) Nìvarana (Triền cái)
(g) Anusaya (Tùy miên)
(h) Samyojana (Kiết sử)
(i) Kilesà (Phiền não)

I. PÀLI VĂN. 

- 13) Àsavàdisu panettha kàmabhavanàmena tabbatthukà tanhà adhippetà, sìlabbataparàmàso, idamsaccàbhiniveso, attavàdo ti ca tathà pavattam ditthigatameva pavuccati.

14) Àsavoghà ca yogà ca tayo ganthà ca vatthuto,
Upàdàmà duve vuttà attha nìvaranà siyum,
Chalevànusayà honti nava samyojanà matà,
Kilesà dasa vuttoyam navadhà pàapasangaho.

II. THÍCH VĂN. 

- Tabbatthukà: Y-cứ trên chúng. Adhippetà: Có nghĩa. Pavattam: Chuyển-khởi, liên-hệ. Ditthigatam: Tà-kiến. Vatthuto: Theo căn bản. Matà: Cần được hiểu.

III. VIỆT VĂN. 

- 13) Ở nơi đây, đối với các loại ác pháp như lậu hoặc, hữu v.v... danh-từ Dục-ái và Hữu-ái có nghĩa là tham-ái y cứ trên chúng. Cũng như vậy, giới - cấm - thủ, thử-thực-chấp ngã-kiến có nghĩa là Tà kiến liên-hệ ở nơi đây.

14) Theo căn bản, chỉ có ba lậu hoặc, ba bạo lưu, ba ách-phược, ba hệ-phược. Thủ chỉ có hai và Triền-cái có tám. Tùy miên có sáu và kiết-sử cần hiểu chỉ có chín. Phiền-não có mười. Như vậy, các ác-pháp tổng-hợp có chín loại.

IV. THÍCH NGHĨA

- Trong danh-từ các ác-pháp, chữ kàma chỉ cho Dục-giới và Bhava chỉ cho Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Lobha gồm cả Dục-ái và Hữu-ái. Sắc-giới-ái và Vô-sắc-giới-ái là Bhavatanhà (Hữu-ái). Giới-cấm-thủ, Thử-thực-chấp và Ngã-kiến-thủ bao-hàm nghĩa tà-kiến. Cả Kàmàsava và Bhavàsava có nghĩa lobha. Sự thực, chỉ có ba àsavà, ba oghà, ba yogà và ba ganthà. Cũng vậy, chỉ có hai upàdànà theo nghĩa lobha và ditthi.

Khi thìna-middha và uddacca-kukkucca xem như là bốn tâm-sở, thời Nìvaranà có tám. Khi Kàmaràga và bhavaràga được hợp thành tanhà, thì anusayà chỉ có sáu. Mười samyojanà, theo Kinh Tạng chỉ còn bảy, khi Kàmaràga, rùparàga, arùparàga hợp lại thành lobha, và ditthi cùng sìlabbataparàmàsa hợp lại thành ditthi. Mười sanyojanà được xem là tám khi kàmaràga và bhavaràga hợp lại thành lobha, và ditthi cùng sìlabbataparàmàso hợp lại trong ditthi. Các kilesà chỉ có 10. Như vậy, 14 loại Bất thiện tâm sở hiện ra theo mức độ khác nhau trong chín loại Bất thiện pháp. Lobha chung cho tất cả.

MISSAKO SANGAHO: TẠP LOẠI TẬP - YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 15) Missakasangahe cha hetù: Lobho, doso, moho, àlobho, adoso, amoho.

16) Satta jhànangàni: vitakko, vicàro, pìti, ekaggatà, somanassam domanassam, upekkhà,

17) Dvàdasa maggangàni: sammàditthi, sammàsan kappo, sammàvàcà, sammàkammanto, sammà-àjìvo, sammàvàyàmo, sammàsati, sammàsamàdhi, micchà ditthi, micchàsankappo, micchàvàyàmo, micchàsamàdhi.

II. THÍCH VĂN. 

- Missakasangahe: Trong tạp loại tập yếu. Maggangàni: Ðạo-chi.

III. VIỆT VĂN 

- 15) Trong tạp loại tập yếu, có sáu nhân là tham, sân, si, vô tham, vô sân, vô si.

16) Có bảy thiền-chi là tầm, tứ, hỷ, nhứt tâm, hoan-hỷ, ưu, xả.

17) Có 12 Ðạo-chi là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh-tấn, chánh niệm, chánh định, tà kiến, tà tư-duy, tà tinh-tấn, tà định.

IV. THÍCH NGHĨA

- Missakasangaho: Tạp loại tập-yếu. Sở dĩ gọi vậy vì ở đây, thiện (kusala), bất thiện (akusala) và vô ký (avyàkata) đều bao hàm tất cả. 

Jhànanga: jhàna có nghĩa là đốt cháy sự đối kháng của các triền-cái hay chú tâm sát trên đối tượng. Cả hai nghĩa được áp dụng trong cảnh giới thiền, do chú tâm chứng được. 

Maggangàni: Ðạo-chi, nghĩa là những pháp đưa đến Thiện-thú, ác-thú hay Niết-Bàn (Sugati-duggatìnam nibbànassa ca abhimukham pàpanto maggà). Trong 12 thiền-chi, 4 thiền-chi sau cùng đưa đến ác-thú. Các thiền-chi còn lại đưa đến Thiện-thú và Niết-Bàn. Khi nói đến 12 Ðạo-chi (maggangàni), thật sự chỉ nói đến 9 Tâm-sở đã khởi lên với một số Tâm. Trong 4 Bất-Thiện-đạo-chi, tà kiến có nghĩa là Bất-thiện ditthicetasika (kiến-tâm-sở); tà tư-duy, tà tinh-tấn, và tà nhứt-tâm có nghĩa là vitakka, vàyàma và ekaggatà cetasikà được tìm thấy trong các Bất thiện-tâm.

Chánh tri-kiến có nghĩa là Pannà cetasika; chánh tư-duy, chánh tinh-tấn, chánh niệm và chánh nhứt-tâm là Vitakka, vàyàma, sati và ekaggatà cetasika được tìm thấy trong thiện và vô-ký-tâm. Chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng là ba Viriti (Thiết-chế tâm-sở), được tìm thấy đồng một lần trong các siêu-thế-tâm hay riêng biệt trong các Dục-giới Thiện-tâm và Dị-thục-tâm. Cả tám Ðạo-chi đều được tìm thấy đồng một lần chỉ trong tám Siêu-thế-tâm. Nói đến 8 chánh-đạo là nói đến tám thiện đạo chi ở đây.

I. PÀLI VĂN. 

- 18) Bàvìsatindriyàni - cakkhundriyam, sotindriyam, ghànindriyam, jivhindriyam, kàyindriyam, itthindriyam, purisindriyam, jìvitindriyam, manindriyam sukhindriyam dukkhindriyam, somanassindriyam, domasassindriym upekkhindriyam, saddhindriyam, viriyindriyam, satindriyam, samàdhindriyam, pannindriyam, anannàtannassàmìtindriyam, annindriyam, annàtàvindriyam.

II. THÍCH VĂN. 

- Anannàtannassàmìtindriyam: Vị trí đương-tri căn. Annindriyam: Dĩ-tri căn. Annàtàvindriyam: Cụ tri căn.

III. VIỆT VĂN. 

- 18) Có 12 căn: nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, nữ căn, nam căn, mạng căn, ý căn, lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn, tín căn, tinh tấn căn, miện căn, định căn, tuệ căn, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn.

IV. THÍCH NGHĨA

- Indriya: Căn, sở dĩ gọi vậy vì chúng có khả năng chi phối các đối tượng liên hệ. 5 căn đều thuộc 5 giác quan đã nói đến trước. Căn thứ 6 và căn thứ 7 gọi là bhavindriya hay tánh căn. Mạng căn gồm cả danh mạng cănsắc mạng căn. Căn số 10, 11, 12, 13 và 14 thuộc 15 loại thọ. Căn số 15, 16, 17, 18 và 19 vừa là căn vừa là lực, vì chúng chi phối những pháp câu hữu, vừa điều phục các pháp đối lập. Ba căn cuối rất quan hệ và thuộc siêu-thế. Cụ-tri-căn chỉ Niết-Bàn. Khi chứng quả thứ nhất, Dự-Lưu, 4 Ðế được giác ngộ lần đầu tiên và vì vậy Dự-Lưu đạo trí được gọi là Vị tri đương tri căn. 6 trí chặng giữa từ Dự-Lưu quả-trí đến A la hán đạo trí được gọi là Dĩ-tri-căn. Vì trí-tuệ được tìm thấy trong tất cả 7 siêu-thế-tâm chế-ngự 37 trợ-đạo-phẩm câu-hữu, nên gọi là Indriya. Một vị A la hán được gọi là Annàtàvì, vì vị này đã giác ngộ hoàn toàn 4 Ðế. Căn cuối cùng chỉ cho trí-tuệ vô-thượng của A la hán quả.

I. PÀLI VĂN. 

- 19) Nava balàni: saddhà-balam, viriyabalam, satibalam, samàdhibalam, pannà-balam, hiribalam, ottappabalam, ahirikabalam, anottappabalam.

20) Cattàro adhipati-chandàdhipati, cittàdhipati, viriyàhipati, vìmamsà-adhipati.

21) Cattàro àhàrà-kabalìkàro àhàro, phasso dutiyo, manosancetanà tatiyà, vinnànam catuttham.

II. THÍCH VĂN. 

- Bala: Lực. Adhipati: Tăng-thượng. Àhàra: Thực.

III. VIỆT VĂN. 

- 19) Có chín lực: Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực, tàm lực, quý lực, vô tàm lực, vô quý lực.

20) Có bốn tăng-thượng: Dục tăng thượng, Tâm tăng thượng, Tinh tấn tăng thượng, Tư duy tăng thượng.

21) Có bốn đồ ăn: Ðoàn thực, xúc thực là thứ hai, tư thực là thứ ba, thức thực là thứ tư.

IV. THÍCH NGHĨA

- 19) Chín lực (bala), được gọi vậy vì chúng không bị chi phối bởi những lực lượng đối lập và vì chúng tăng cường cho các pháp câu hữu. 7 pháp đầu thuộc thiện pháp, hai pháp sau thuộc bất thiện pháp. 

Adhipati: Tăng thượng. Adhipati khác với căn. Tăng thượng có thể ví như một quốc vương, cầm đầu mọi bộ trưởng. Indiya (căn) được xem như các bộ trưởng cầm đầu bộ riêng của mình nhưng không can thiệp vào các bộ khác. Như nhãn căn chỉ chi phối các sắc pháp chớ không can thiệp vào đối tượng của nhĩ căn. Còn Ahipati thời chi phối mọi pháp câu hữu. Không hai Adhipati đồng khởi và chi phối một lần. Trái lại, các căn có thể đồng khởi. 

Cittàdhipati chỉ cho Javana citta (tốc hành tâm). 

Vìmamsàdhipati chỉ cho Tuệ căn (pannindriya).

Àhàra: Ðoàn thực nuôi dưỡng thân-thể, xúc thực nuôi dưỡng 5 món cảm thọ

Tư thực chỉ cho các tư tâm sở có mặt trong 29 Thiện và bất thiện Dục giới, sắc giới, vô-sắc-giới tâm. Các tâm này nuôi dưỡng hay tạo ra tái-sanh trong ba giới. 

Thức thực chỉ cho Patisandhi vinnàna (Kiết-sanh-thức) đã nuôi dưỡng nàmarùpa (Danh-sắc) đã khởi tiếp tục theo. Có 19 loại kiết sanh thức. Ðối với vô tưởng giới, thức thực chỉ nuôi dưỡng sắc pháp; Ðối với Vô sắc giới, chỉ nuôi dưỡng danh-pháp. Trong các đời sống có 5 uẩn, thức-thực nuôi dưỡng các tâm pháp, sắc pháp.

I. PÀLI VĂN. 

- 22) Indriyesu panettha sotàpattimagganànam anannàtannassàmitindriyam, arahattaphalanànam annàtàvindriyam. Majjhe cha nànàni annindriyànìti vuccati. Jìvitindriyam ca rùpàrùpavasena duvidham hoti.

23) Pancavinnànesu jhànangàni, aviriyesu balàni, ahetukesu maggangàni na labbhanti. Tathà vicikicchàcitte ekaggatà maggindriyabalabhàvam na gacchati. Dvihetukatihetukajavanesveva yathàsambhavam adhipati ekova labbhati.

II. THÍCH VĂN. 

- Dvihetuka: Nhị nhân. Tihetuka: Tam nhân. Ekova: chỉ có một.

III. VIỆT VĂN. 

- 22) Nay trong các căn, vị tri đương tri căn tức là Dự lưu đạo trí, và Cụ tri căn tức là A la hán quả trí. Trong các căn ở giữa, Dĩ tri căn tức là 6 trí. Mạng căn gồm cả hai sắc mạng cănDanh mạng căn.

23) Các Thiền chi không thể tìm được trong 5 thức, các lực không thể tìm được trong các tâm không tinh tấn, các Ðạo chi không thể tìm được trong các vô nhân tâm; cũng vậy, trong nghi tâm, nhứt tâm không thể trở thành Ðạo chi, căn hay lực. Trong 4 Tăng Thượng (Dục, tâm, tinh tấn, tư duy) chỉ một Tăng thượng được chứng một lần, tùy theo trường hợp, chỉ ở trong các tâm, thuộc nhị nhân hay tam nhân tâm.

IV. THÍCH NGHĨA

- Không có một Thiền chi nào trong 10 thức vì sự cảm thọ rất yếu và ý thức đối tượng không có. Các tâm không tinh tấn và 16, tức 10 thức tâm, 2 tiếp thọ tâm, 3 Suy đạc tâm, và ngũ môn hướng tâm. Nhứt tâm trong các tâm này không được cho mạnh. Vô nhân tâm có 18. Nhứt tâm trong Nghi tâm giúp tâm trí được thăng bằng, nhưng không mạnh. Không có Adhipati trong vô nhân tâm và nhứt nhân tâm. Sự thật, chỉ có 5 Thiền chi và 3 cảm thọ có thể xem như một; Ðạo chi chỉ có 9 vì tà tư duy, tà tinh tấnnhứt tâm được gồm vào trong Tầm, tinh tấnnhứt tâm. Các căn chỉ có 16 khi 5 cảm thọ xem như một và ba siêu thế tâm được nhập vào Tuệ căn.

I. PÀLI VĂN. 

- 24) Cha hetù panca jhànangà maggangà nava vatthuto.
Solasindriyadhammà ca baladhammà naverit.
Cattàrodhipati vuttà tathàhàrà ti sattadhà.
Kusalàdisamàkinno vutto missakasangaho.

II. THÍCH VĂN. 

- Vatthuto: Về sở-y. Samàkinno: Ðược kê-khai. Vutto: Nói đến. Naverità: (Nava) erità: Ðược diễn tả.

III. VIỆT VĂN 

- 24) Trên thực tế, 6 nhân, 5 thiền chi, 9 Ðạo chi, 16 căn và 9 lực lượng diễn tả. Cũng vậy, 4 tăng thượng và 4 Thực được nói đến. Như vậy, Tạp loại tập yếu được kê khai theo bảy loại như thiện v.v...

I. PÀLI VĂN. 

- 25) Bodhipakkhiyasangahe cattàro satipatthanà kàyànupassanà-satipatthànam, vedanànupassanà-satipatthànam, cittànupassanà-satipatthànam, dhammànupassanàsatipatthànam.

26) Cattàro samappadhànà-uppannànam pàpakànam dhammànam pahànàya vàyàmo, anuppannànam pàpakànam dhammànam anuppàdàya vàyàmo, anupannànam kusalànam dhammànam uppàdàya vàyàmo, uppannànam kusalànam dhammànam bhiyyobhàvàya vàyàmo.

II. THÍCH VĂN. 

- Bodhipakkhiyasangahe: Bồ-đề-phần tập-yếu. Kàyànupassanà-satipatthànam: Thân quán niệm xứ Vàyàmo: Tinh-tấn. Bhiyyobhàvàya: Làm cho tăng trưởng.

III. VIỆT VĂN. 

- 25) Trong Bồ-đề-phần tập yếu có bốn Niệm xứ tức là Thân quán niệm xứ, Thọ quán niệm xứ, Tâm quán niệm xứ, Pháp quán niệm xứ.

26) Có bốn chánh - cần tứctinh tấn trừ diệt các bất thiện pháp đã sanh, tinh tấn không cho sanh các bất thiện pháp chưa sanh, tinh tấn làm cho sanh các thiện pháp chưa sanh và tinh tấn làm cho tăng trưởng các thiện pháp đã sanh.

IV. THÍCH NGHĨA

- Bodhipakkhiya: Bodhi là Bồ đề, nghĩa là giác ngộ. Pakkhiya: có nghĩa là phần, thuộc về. Satipatthàna: Niệm xứ. Sati là niệm, giác tĩnh hay chú tâm. Patthàna là đặt vào, áp vào, cơ bản, nền tảng. Các niệm xứ này hướng đến phát triển chỉ và quán. Mỗi niệm xứ có một mục đích riêng. Do quán bốn đối tượng này, các niệm bất tinh, khổ, vô - thường, vô - ngã được tăng - trưởng và các niệm tham - ái, cầu dục lạc, thường còn và hữu ngã được diệt trừ. Có thể chia các đối - tượng của Bốn Niệm xứ theo Danh (Nàma) và Sắc (Rùpa). Ðối tượng đầu thuộc Sắc, vì hơi thở cũng được xem là Sắc pháp. Ðối tượng thứ hai và thứ ba thuộc cảm thọ và tâm tư, thuộc Danh pháp. Và đối tượng thứ tư, Dhamma (Pháp) gồm cả Danh và Sắc. Sammappadhànà: 4 chánh - cần, tức là tinh - tấn.

I. PÀLI VĂN. 

- 27) Cattàro iddhipàdà-chandiddhipàdo, cittiddhipàdo, viriyiddhipàdo, vìmansiddhipàdo.

28) Pancindriyàni-saddhindriyam, viriyindriyam, satindriyam, samàdhindriyam, pannindriyam.

29) Panca balàni - saddhà balam, viriyabalam, satibalam, samàdhibalam, pannàbalam.

II. THÍCH VĂN. 

- Iddhipàdà: Như ý túc.

III. VIỆT VĂN. 

- 27) Có 4 như ý túc: Dục như ý túc, Tâm như ý túc, Cần như ý túc và Quán như ý túc.

28) Có 5 căn: Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Tuệ căn.

29) Có 5 lực: Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Ðịnh lực, Tuệ lực.

IV. THÍCH NGHĨA

- Iddhipàda là phương tiện để thực hiện mục đích của mình. Cả 4 như ý túc này thuộc Siêu thế giới. Chanda là Dục-tâm-sở. Cần như ý túc thuộc 4 chánh cần. Citta: thuộc Siêu thế tâm và Vìmansà là Tuệ tâm-sở thuộc Siêu thế-giới. 4 Tâm sở này chỉ được gọi là Như ý túc khi được khởi lên trong Siêu thế giới.

I. PÀLI VĂN. 

- 30) Satta bojjhangà: Satisambojjhango, dhammavicayasambojjhango, viriyasambojjhango, pìtisambojjhango, passaddhisambojjhango, samàdhisambojjhango, upekkhàsambojjhango.

31) Attha maggangàni: Sammàditthi, sammàsankappo, sammàvàcà, sammàkammanto, sammààjìvo, sammàvàyàmo, sammàsati, sammàsamàdhi.

32) Ettha pana cattàro satipatthànà ti sammàsati ekà va pavuccati, tathà cattàro sammappadhànà tica sammàvàyàmo.

II. THÍCH VĂN. 

- Bojjhango: Giác chi. Dhammavicaya: Trạch pháp.

III. VIỆT VĂN. 

- 30) Có bảy giác chi: Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh-tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh-an giác chi, Ðịnh giác chi, Xả giác chi.

31) Có Tám Ðạo chi: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

32) Ở nơi đây, 4 Niệm xứ được xem là một chánh niệm; cũng vậy, 4 chánh cần được xem là chánh tinh-tấn.

IV. THÍCH NGHĨA

- Sambojjhanga: Sam là Thiện, tốt đẹp. Bodhi: Bồ-đề, giác. Anga: Chi-phần. Dhammavicaya: nghĩa là thấy Tâm và Sắc như chơn, đúng với sự thực. Passaddhi: là khinh-an, tâm khinh-an và tâm-sở khinh-an. Upekkhà, không có nghĩa là thản nhiên, mà có nghĩa là tâm trí bình tĩnh, thăng bằng đối với sự vật. Dhammavicaya, viriya và pìti chống với thìna-middha; passaddhi, Sàmàdhi và Upekkhà chống với Uddhacca. Sammàditthi: Chánh tri-kiến là sự hiểu biết về lý Tứ Ðế. Sammàsankappo: Chánh Tư-duy, đây là Vitakka (Tầm tâm-sở) đưa tâm hướng đến Niết-Bàn, diệt trừ Kàma (Dục lạc) Vyàpàda (Sân) và himsà (Hại tâm) bằng cách tu hành Nekkhamma (ly dục), Avyàpàda (vô sân) và Avihimsà (vô hại).

I. PÀLI VĂN. 

- 33) Chando cittamupekkhà ca saddhàpassaddhipìtiyo.
Sammàditthi ca sankappo vàyàmo viratittayam
Sammàsati samàdhìti cuddasete sabhàvato
Sattatimsappabhedena sattadhà tattha sangaho.

II. THÍCH VĂN. 

- Sabhàvato: Theo tự-tánh. Guddasa: 14. Sattatimsa: 37.

III. VIỆT VĂN. 

- 33) Như vậy, Tập yếu chia theo 7 loại, gồm có 37 pháp, được chia thành 14 pháp như sau, theo tự tánh của chúng: Dục, Tâm, Xả, Tín, Khinh-an, Hỷ, Chánh kiến, Tư duy, Tinh-tấn, ba Tiết chế, Chánh niệmChánh định.

IV. THÍCH NGHĨA
- Như vậy, 37 danh từ nêu trên được diễn tả theo 7 loại như sau:

i) Satipàtthàna (Niệm xứ):

4

ii) Sammappadhàna (Chánh cần):

4

iii) Iddhipàda (Như ý-túc):

4

iv) Indriya (Căn):

5

v) Bala (Lực):

5

vi) Bojjhanga (Bồ-đề phần):

7

vii) Magganga (Ðạo-chi):

8

Tổng cộng:

37

Nay 4 Niệm xứ xem như 1 Chánh niệm, và 4 Chánh cần như 1 Chánh niệm, thành thử thật sự chỉ có 14 Pháp như sau: 

i) Satipatthàna (Niệm xứ): Sammàsati (Chánh niệm):

1

ii) Sammappadhàna (Chánh cần) = Sammàvàyàmo (Chánh tinh tấn):

1

iii) Iddhipàda (Như ý túc) = Dục, Tâm, Quán:

3

iv) Indriya (Căn) = Tín, Ðịnh:

2

v) Bala (Lực) :

0

vi) Bojjhanga (Bồ-đề phần) = Hỷ, khinh an, xả:

3

vii) Magganga (Ðạo-chi) = Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tư duy:

4

Tổng cộng:

14

I. PÀLI VĂN. 

- 34) Sankappa - passaddhi ca pìtupekkhà, Chando ca cittam viratittayan ca,
Navekatthànà viriyam navattha
Sati, samàdhi catu panca pannà;
Saddhà dutthànuttamasattatimsa,
Dhammànameso pavaro vibhàgo.

35) Sabbe lokuttare honti na và sankappapìtiyo
Lokiye piyathàyoyam chabbisuddhippavattiyam.

II. THÍCH VĂN. 

- Nava: 9. Ekatthànà: Một lần. Dutthànà: Hai lần. Uttama sattatimsa: 37 thượng pháp. Pavaro: Tối thượng. Vibhàgo: Sự phân loại. Yathàgogam: Tùy theo trường hợp. Chabbisuddhi: 6 loại thanh tịnh. Pavattiyam: Trong khi thực hành, trong sự diễn tiến.

III. VIỆT VĂN. 

- 34) Sự phân loại tối thượng của 37 pháp tối thượng này được chia như sau: Tư-duy, Khinh-an, Hỷ, Xả, Dục, Tâm và ba tiết chế, 9 pháp này được nói đến một lần; Tinh-tấn, 9 lần; Niệm 8 lần; Ðịnh, 4 lần; Tuệ, 5 lần và Tín 2 lần.

35) Tất cả những pháp này, trừ đôi khi Tư-duy và Hỷ, khởi lên trong Siêu thế tâm, và cũng trong Thế giới, tùy theo trường hợp, trong sự diễn-tiến của 6 loại Thanh tịnh (Visuddhi).

IV. THÍCH NGHĨA

a). 9 pháp sau đây được nói đến một lần: Chánh Tư-duy, Khinh-an giác-chi, Hỷ giác-chi, Xả giác-chi, Dục như ý túc, Tâm như ý túc, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

b) Tinh-tấn được nói đến 9 lần: 4 chánh cần, Tinh-tấn như ý túc, Tinh-tấn căn, Tinh-tấn lực, Tinh-tấn giác chi, Chánh Tinh-tấn.

c) Niệm được nói đến 8 lần; 4 Niệm xứ, Niệm căn, Niệm lực, Niệm giác-chi, Chánh niệm.

d) Ðịnh được nói đến 4 lần: Ðịnh căn, Ðịnh lực, Ðịnh giác-chi, Chánh định.

e) Tuệ được nói đến 5 lần: Quán như ý túc, Tuệ căn, Tuệ lực, Trạch pháp, Chánh tri-kiến.

f) Tín được nói đến 2 lần: Tín cănTín lực.

Khi chứng được Siêu-thế-tâm thuộc Ðệ Nhị thiền không có tầm (Vitakka). Khi chứng được Siêu-thế-tâm thuộc Ðệ Tam thiền, Ðệ Tứ thiền, thì không có Hỷ. 37 pháp này cùng khởi một lần trong Siêu-thế-tâm, nhưng trong các giới khác, chúng khởi lên riêng biệt. 

 

 

 

 

(a)

(b)

(c)

(d)

(e)

(f)

(g)

1

Viriya: Tinh-tấn

9

 

+4

+

+

+

+

+

2

Sati: Niệm

8

+4

 

 

+

+

+

+

3

Pannà: Tuệ

5

 

 

+

+

+

+

+

4

Samàdhi: Ðịnh

4

 

 

 

+

+

+

+

5

Saddhà: Tín

2

 

 

 

+

+

 

 

6

Sankappa: Tư-duy

1

 

 

 

 

 

 

+

7

Passaddhi: Khinh-an

1

 

 

 

 

 

+

 

8

Pìti: Hỷ

1

 

 

 

 

 

+

 

9

Upekkhà: Xả 

 

 

 

 

 

+

 

10

Chanda: Dục

1

 

 

+

 

 

 

 

11.

Citta: Tâm

1

 

 

+

 

 

 

 

12

Sammàvàcà: Chánh ngữ

1

 

 

 

 

 

 

+

13

Sammàkammanto: Chánh nghiệp

1

 

 

 

 

 

 

+

14

Sammà àjìvo: Chánh mạng

1

 

 

 

 

 

 

+


SABBASANGAHO - TỔNG QUÁT TẬP YẾU

I. PÀLI VĂN. 

- 36) Sabbasangahe pancakkhandhà-rùpakkhandho, vedanàkkhandho, sannàkkhandho, sankhàrakkhandho, vinnànakkhandho.

37)Pancupàdànakkhandhà: Rùpupàdànakkhandho, vedanupàdànakkhandho, sannupàdànakkhandho, sankhàrupàdànakkhan dho, vinnànupàdànakkhandho.

38)Dvàdasàyatanàni - cakkhàyatanam, sotàyatanam, ghànàyatanam, jivhàyatanam, kàyàyatanam, manàyatanam, rùpàyatanam, saddàyatanam, gandhàyatanam, rasàyatanam, photthabbàyatanam, dhammàyatanam.

II. THÍCH VĂN. 

- Sabbasangahe: Tập yếu tổng quát.

III. VIỆT VĂN. 

- 36) Trong tập yếu tổng quát, có 5 uẩn: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn.

37) Có 5 thủ-uẩn: Sắc thủ uẩn, Thọ thủ uẩn, Tưởng thủ uẩn, Hành thủ uẩn, Thức thủ uẩn.

38) Có 12 xứ: Nhãn xứ, Nhĩ xứ, Tỷ xứ, Thiệt xứ, Thân xứ, Ý xứ, Sắc xứ, Thanh xứ, Hương xứ, Vị xứ, Xúc xứ, Pháp xứ.

IV. THÍCH NGHĨA

- Khandha: nghĩa là uẩn, nhóm họp. Ðức Phật chia chúng sanh thành 5 uẩn. Tất cả sắc-pháp quá khứ, hiện tạivị lai đều chung gọi là Rùpakkhandha. Ở đây danh từ Sankhàra (Hành) được dùng theo nghĩa đặc biệt. Trong 52 tâm-sở, trừ thọ và tưởng-tâm-sở, còn lại 50 tâm-sở, được chung gọi là Hành (Sankhàra). 

Upàdànakkhandha: Thủ uẩn, sở dĩ gọi vậy vì chúng trở thành đối tượng để nắm giữ, ôm ấp. Tám siêu-thế-tâm và các tâm-sở câu hữu, cùng 10 sắc-pháp không do nghiệp sanh, không được xem là Thủ uẩn

Cakkhàyatana: nhãn xứ, chỉ cho tịnh sắc căn của con mắt. 

Manàyatana: Ý xứ đây không có một căn đặc biệt cho ý như các căn khác. Chữ ý xứ đây chỉ cho manadvàràvajjana (ý môn hướng tâm) cùng với Bhavangupaccheda (Hữu phần dừng nghỉ).

I. PÀLI VĂN. 

- 39) Atthàrasa dhàtuyo: Cakkhudhàtu, sotadhàtu, ghànadhàtu - jivhàdhàtu, kàya-dhàtu, rùpa-dhàtu, saddadhàtu, gandha-dhàtu, rasa-dhàtu, phottabba-dhàtu, cakkhuvinnàna-dhàtu, sotavinnànadhàtu, ghànavinnànadhàtu, jivhàvinnàna-dhàtu, kỳyavinnànadhàtu, manodhàtu, dhammadhàtu, manovinnàna-dhàtu.

40) Cattàri ariyasaccàni: dukkham ariyasaccam, dukkhasamudaya ariyasaccam, dukkhanirodham ariyasaccam, dukkhanirodhagàminìpatipadà ariyasaccam.

41. Ettha pana cetasika - sukhumarùpa - nibbànavasena ekùnasattati dhammà dhammàyatanam, dhammadhàtù ti ca sankham gacchanti. Manàyatananameva sattavinnànadhàtu-vasena bhijjati.

II. THÍCH VĂN. 

- Sukkhumarùpa: Tế sắc. Ekùnasattati: 69. Bhijjati: Chia chẻ, bị đổ bể.

III. VIỆT VĂN. 

- 39) có 18 giới. Nhãn giới, Nhĩ giới, Tỷ giới, Thiệt giới, Thân giới, Sắc giới, Thanh giới, Hương giới, Vị giới, Xúc giới, Nhãn thức giới, Nhĩ thức giới, Tỷ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới, Ý giới, Pháp giới, Ý thức giới.

40) Có 4 Thánh-đế: Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, Khổ diệt đạo thánh đế.

41) Ở đây 69 pháp gồm có tâm-sở, tế-sắc và Niết-Bàn được xem họp thành pháp-xứ và pháp-giới. Chỉ có ý xứ được chia thành 7 thức giới.

IV. THÍCH NGHĨA

- Dhàtu có nghĩa là cái gì mang theo đặc tánh của mình. Dhammadhàtu đồng nghĩa với dhammàyatana nhưng khác với Dhammàrammana (Pháp-sở-duyên), vì không gồm có citta (tâm), pannatti (giả danh, thi thiết) và pasàdarùpa (Tịnh-sắc-căn). Manovinnànadhàtu: Ý-thức-giới. Trong 89 tâm, 76 tâm được xem là ý thức, trừ 10 thức tâm và ba ý giới (2 tiếp-thọ-tâm và ngũ môn hướng tâm).

I. PÀLI VĂN. 

- 42) Rùpam ca vedanà sannà sesà cetankà tathà,
Vinnànamiti pancete pancakkhandhà ti bhàsità,
Pancupàdànakkhandhàti tathà tebhùmakà matà,
Bhedàbhàvena nibbànam khandhasangahanissatam,
Dvàràlambanabhedena bhavantàyatanàni ca,
Dvàràlambanataduppanna-pariyàyena dhàtuyo.

43. Dukkham tebhùmakam vattam tanhà samùdayobhave,
Nirodho nàma nibbànam maggo lokuttaro mato.
Maggayuttà phalà ceva catusaccavinissatà,
Iti pancappabhedena pavutto sabbasangaho.

II. THÍCH VĂN. 

- Tebhùmakà: 3 giới. Matà: Ðược biết, được hiểu. Bhedàbhàvena: Vì thiếu sự phân biệt (thành quá khứ, hiện tại, vị lai). Khandhasangahanissatam: Không thuộc vào tập yếu (năm) uẩn. Dvàràlambanabhedena: Do sự sai biệt giữa cửa và sở duyên. Bhavantàyatanàni: Có 12 xứ. Taduppannapariyàyena: Do thức y nơi chúng khởi lên. Vattam: Sự có mặt. Maggayutà phalà: Các tâm-sở tương tứng với Ðạo và Quả. Catusaccavinissatà: Ðược trừ ra khỏi Tứ Ðế.

III. VIỆT VĂN. 

- 42) Sắc, Thọ, Tưởng và các tâm-sở còn lại và các thức gọi năm uẩn, cũng vậy những pháp gì liên hệ đến ba giới được xem là năm thủ uẩn.

Vì Niết-Bàn thiếu sự phân biệt (như quá khứ, hiện tại, vị lai), Niết-Bàn được đặt ra ngoài 5 uẩn.

Do sự sai khác giữa căn môn và đối tượng nên có 12 xứ. Do sự phân biệt giữa căn môn, đối tượng và thức, y nơi chúng khởi, nên có các giới.

43) Sự có mặt trong ba giới là khổ. Tham-ái là nguyên nhân của chúng. Khổ diệt gọi là Niết-Bàn. Ðạo là con đường siêu thế.

Các tâm sở tương ưng với Ðạo và Quả được đặt ra ngoài 4 Ðế. Như vậy tập yếu tổng kết được giải thích theo 5 đề mục

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32344)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11026)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30270)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12130)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12481)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34281)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52062)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10580)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10331)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10535)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16009)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16067)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13686)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16328)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11885)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13651)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11635)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14214)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16049)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12579)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11904)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11638)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11360)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13875)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11860)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12413)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14787)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11834)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14303)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20448)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13048)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10823)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20524)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14182)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20076)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13792)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant