Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 4: Không Nên Hiểu Sai Về Phật Giáo

25 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8700)
Phần 4: Không Nên Hiểu Sai Về Phật Giáo

HỌC PHẬT NÊN BIẾT
學佛須知
Dịch Việt: Thích Nguyên Thành

Phần IV.

Không Nên Hiểu Sai Về Phật Giáo

(Pháp Sư Ấn Thuận)

1. Hiểu Sai Giáo Nghĩa Phật Giáo

Đạo lí của Phật Giáo rất thâm sâu. Có người không hiểu rõ Ý nghĩa thâm sâu của Phật Giáo, chỉ hiểu được trên phương diện văn chương, tùy tiện nghe qua mấy danh từ Thuật Ngữ Phật Học liền giảng thế này, giảng thế kia, kết quả không phù hợp với Ý nghĩa của Phật Giáo. Phổ biến nhất là những danh từ như, “Cuộc Đời Là Khổ, Xuất Thế Gian, Nhất Thiết Giai Không…vv”. Những điều này, đương nhiên Đức Phật nói ra, chính là những lí luận quan trọng của Phật Giáo, người bình thường ít có thể hiểu chính xác. Bây giờ, chúng ta có thể phân biệtgiải thích:

  1. 1. Cuộc Đời Là Khổ:

Đức Phật chỉ thị chúng ta, cuộc đời này là khổ. Một vài người, do không hiểu rõ chân lí bên trong của Phật Giáo, liền sinh khởi những quan niệm sai lầm, cảm thấy cuộc đời của chúng ta không hề có Ý nghĩa gì. Vì vậy, dẫn đến bi quan tiêu cực đối với cuộc đời, nên không nổ lực vươn lên, đó là hiểu biết sai lầm phố biến nhất. Trong xã hội ngày nay, tín ngưỡng Phật Giáo, một số người rơi vào những sai lầm bi quan tiêu cực. Kỳ thật, câu nói “Cuộc đời là khổ”, tuyệt đối không phải Ý Nghĩa như thế.

Phàm là một ranh giới, khi chúng ta tiếp xúc đến, sinh khởi một loại cảm thọ không phù hợp với sự ham muốn của chính mình, dẫn đến khổ đau ưu phiền, như lấy Ý nghĩa này diễn tả sự khổ, không thể nói cuộc đời là khổ. Vì sao? Bởi vì, cuộc đời cũng có rất nhiều điều hạnh phúc, nghe nói đến những âm thanh không êm tai thì cảm thấy chán ghét, nhưng đã nghe được những âm điệu tuyệt vời, không phải là yêu thích sao? Thân thể có bệnh, gia cảnh khốn khổ, người thân xa cách, đương nhiên là khổ, nhưng mà thân thể khỏe mạnh, kinh tế giàu có, gia đình đoàn tụ, không phải là rất hạnh phúc sao? Bất luận sự việc gì, khổ đau và hạnh phúc đều là tương đối, giả sử gặp được sự việc không như Ý thì nói cuộc đời là khổ, há không thiên kiến sao!

Như vậy, Đức Phật nói, “Cuộc đời là khổ”, “Khổ”có Ý nghĩa gì? Trong Kinh nói: “Vô thường cố khổ” (vô thường nên là khổ). Tất cả sự vật đều vô thường, đều sẽ biến hóa, Đức Phật đem Ý nghĩa vô thường biến hóa nói cuộc đời là khổ. Ví như, thân thể khỏe mạnh còn không vĩnh cửu, sẽ dần dần ốm yếu già bệnh chết. Người có tiền của cũng không thể vĩnh cửu đảm bảo, có lúc cũng có thể biến thành nghèo khổ; thế lực quyền lợi địa vị cũng không phải vĩnh cữu, cuối cùng còn phải mất đi. Theo hoàn cảnh thay đổi, không cố định, tuy có hạnh phúc nhưng không vĩnh cửu, không có triệt để, khi hoàn cảnh thay đổi thì khổ đau sẽ đến. Cho nên, Đức Phật nói “cuộc đời là khổ”. “Khổ” có Ý nghĩa là chưa hoàn hảo, không viễn cửu, không triệt để. Người học Phật dường như không hiểu rõ Ý nghĩa chân thật, cho rằng cuộc đời tuyệt đối không có viên mãn, liền dẫn đến thái độ bi quan tiêu cực. Người hiểu Phật Pháp chân chánh, có cách nhìn hoàn toàn khác nhau. Cần phải hiểu biết Đức Phật nói “cuộc đời là khổ”, đó là cần chúng ta hiểu biết, cuộc đời này không triệt để, không vĩnh cửu. Sự hiểu biết về sau, mới có thể tạo thành một cuộc sống viên mãn tốt đẹp. Chẳng khác nào người bệnh, trước biết có bệnh, mới chịu mời Thầy Thuốc đến khám bệnh và điều trị. Bệnh mới có thể giảm bớt, thân thể được hồi phục khỏe mạnh như thường. Vì sao cuôc đời không triệt để, không vĩnh cửu mà có sự khổ đau? Nhất định có sự tồn tại nguyên nhân của khổ đau. Đã biết nguyên nhân của khổ đau thì mới biết ra sức diệt trừ khổ đau. Sau đó mới có thể đạt được hạnh phúc viên mãn. Cho nên, Đức Phật không giảng nói cuộc đời là khổ, mà còn nói là khổ có nguyên nhân của khổ, đã đoạn trừ nguyên nhân của khổ thì có thể đat được hạnh phúc cứu cánh. Học Phật, nên y theo phương pháp chỉ dạy của Đức Phật để tu hành, sửa đổi cuộc sống không viên mãn, không triệt để trong quá khứ trở thành một cuộc sống cứu cánh viên mãn. Cảnh giới này, Đức Phật gọi là “Thường Lạc Ngã Tịnh”.

 “Thường” là vĩnh cửu, “Lạc” là hạnh phúc, “Ngã” là tự do tự tại, “Tịnh” là trong sạch thanh tịnh. Bốn từ “Thường Lạc Ngã Tịnh” hợp lại, chính là hạnh phúc vĩnh cửu, tự do vĩnh cửu, và trong sạch vĩnh cửu. Mục tiêu quan trọng của Phật Giáo, không chỉ nói xuyên tạc ra “Cuộc Đời Là Khổ”, mà là cuộc sống chủ yếu quyết định bởi sự khổ đau này mang đến. Có thể sửa đổi cuộc sống quá khứ (Phật Pháp gọi là truyền Y) tạo thành cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu, tự do tự tại, trong sạch thanh tịnh. Chỉ dẫn chúng ta nguyên nhân khổ đau ở đâu. Làm sao hướng đến mục tiêu “cuộc đời là khổ” này, để nổ lực tu trì. Hoàn cảnh của “Thường Lạc Ngã Tịnh” là cảnh giới lí tưởng tuyệt đối, là cảnh giớihy vọng nhất, mỗi người chúng ta đều có thể đạt được. Như thế có thể nói, Phật Giáobi quan tiêu cực sao?

Tuy nhiên, mỗi người học Phật không nhất định có thể đều đạt được cảnh giới cao nhất, nhưng hiểu biết được qui luật này, thật là sự lợi ích vô biên. Như một người bình thường, lúc cuộc sống đang khốn khổ, còn biết nổ lực làm điều thiện, chờ đến lúc giàu có lên thì tất cả đều quên mất việc làm thiện, chỉ lo tự mình hưởng phước, mơ hồ đi theo con đường sai lầm. Người học Phật, không chỉ khi đang có cuộc sống khốn khổ mới nổ lực vươn lên, chính là lúc hưởng thụ hạnh phúc cũng thường xuyên để Ý đến làm việc thiện. Bởi vì hạnh phúc không phải vĩnh viễn đáng tin cậy, nếu không ngừng nổ lực hướng thiện thì sẽ nhanh chóng thất bại và đọa lạc. Cuộc đời là khổ, cho nên cảnh giác chúng ta không nên chuyên môn coi trọng hưởng thụ, mà đi theo con đường sai lầm, đó cũng chính là Ý nghĩa quan trọng mà Đức Phật nói cuộc đời là khổ.

  1. 2. Xuất Thế:

Phật Pháp nói có Thế gian, Xuất Thế Gian. Nhưng rất nhiều người đã hiểu lầm cho rằng Thế Gian chính là thế giới chúng ta đang ở, Xuất Thế Gian chính là đi đến một nơi nào khác. Đây là điều sai lầm. Con người chúng ta đang sống trong thế giới này và cũng trong thế giới này,người xuất gia đã trở thành A La Hán, Bồ Tát, Phật là Xuất Thế Gian. Bậc Thánh Nhân trong Xuất Thế Gian, nhưng cứu độ chúng sanh đều ở trong thế giới này, có thế thấy được Ý nghĩa của Xuất Thế Gian, lại không phải là chạy đi đến một nơi nào khác.

Như vậy, Phật Giáo nói Thế GianXuất Thế Gian là có Ý nghĩa gì? Theo từ trước đến nay, Trung Quốc nói, “Thế” có Ý nghĩa tính thời gian, như 30 năm là một Thế. Chữ “Thế” ở Các Nước Âu Mỹ cũng có Ý nghĩa này, 100 năm là một Thế Kỷ. Cho nên, Ý nghĩa của chữ “Thế” chính là tính thời gian, từ quá khứ đến hiện tại, hiện tại đến vị lai, ở trong thời gian này, gọi là Thế Gian. Phật Pháp cũng như thế: Các sự vật hiện tượng trong vũ trụ có thể thay đổi, gọi là “Thế”, ở trong thời gian từ quá khứ đến hiện tại, hiện tại đến vị lại, có đến không có, tốt đến xấu, đều vẫn đang thay đổi, tất cả trong sự thay đổi, đều gọi là Thế Gian. “Thế”, còn có Ý nghĩa là che giấu, che đậy. Người bình thường, không hiểu rõ nhân quả ba đời trong quá khứ, hiện tạivị lai, không biết từ nơi nào đến, sao phải làm người, chết đi về đâu, không biết Ý nghĩa của cuộc sống, bản tánh của vũ trụ, mơ hồ trong nhân quả 3 đời, đó gọi là Thế Gian.

Thế nào, mới gọi là Xuất Thế? “Xuất”, Ý nghĩa là vượt lên trước hoặc hơn hẳn. Có thể tu hành Phật Pháp, có trí tuệ, thông đạt chơn lí của nhân sinh vũ trụ, tâm được thanh tịnh, không có phiền não, thể nghiệm chân lí vĩnh hằng thì gọi là Xuất Thế. Phật và Bồ Tát đều ở trong thế gian này, nhưng không có ai sánh bằng Các Ngài. Vì Các Ngài đều thông đạt được trí tuệ chân lí, tâm được thanh tịnh, không giống như người bình thường. Cho nên, danh từ “Xuất Thế Gian” là cần chúng ta tu học Phật Pháp. Tiến lên một bước nữa, con người có thể làm được Bậc Thượng Nhân, từ phàm phu làm được Thánh Nhân, chứ không phải gọi chúng ta chạy đến một thế giới khác. Người không hiểu Ý nghĩa Phật Pháp Xuất Thế, hiểu lầm Phật Giáotrốn tránh hiện thực, mà dẫn đến phê bình không chính xác về Phật Giáo.

  1. Nhất Thiết Giai Không: (tất cả đều không)

Đức Phật nói, tất cả đều Không. Có một vài người đã hiểu lầm, cho rằng thế này cũng không, thế kia cũng không, cái gì đều không có, thế nào cũng là không, không Ý nghĩa, việc xấu không làm, việc tốt cũng không làm, nhìn thấy mơ mơ màng màng một chỗ, còn sống là tốt lắm rồi. Thật sự, Ý nghĩa “Không” trong Phật Giáo, có triết lí rất sâu xa. Chư Phật và Bồ Tát chính là người ngộ được chân lí “Không”.“Không” lại không phải cái gì cũng đều không có, trái lại tất cả các loại cũng đều có, thế giớithế giới; cuộc đờicuộc đời; khổ là khổ; vui là vui; tất cả đều có sẳn. Trong Phật Pháp nói rõ ràng, có tà có chánh, có thiện có ác, có nhân có quả. Cần bỏ tà trở về chánh, lìa ác hướng thiện, làm thiện được quả thiện, tu hành thành đạo, nếu nói cái gì cũng đều không có, điều đó chúng ta hà tất phải học Phật?

Đã là nhân quả, thiện ác, Phàm Phu, Thánh Nhân, các loại nào cũng đều có, Đức Phật vì sao nói tất cả đều “Không”? “Không”, có Ý nghĩa gì? Các sự vật hiện tượng do nhân duyên hợp lại mà hình thành, không có thực tại nào mà không có sự biến thể, gọi là “Không”. Tà chánh, thiện ác, nhân duyên, tất cả sự vật, đều không phải đã hình thành mà không thể thay đổi thực tại. Tất cả đều là mối liên hệ dựa vào nhân duyên mà có. Bởi vì từ nhân duyên đã nảy sanh, cho nên theo chuyển hóa của nhân duyên mà thay đổi, không có thực thể, cho nên gọi là “Không”. Đưa ra một sự thật đã nói, ví như, một người đối diện với tấm gương, thì sẽ hiện hình bóng trong tấm gương, làm sao biết có hình bóng đó? Có tấm gương, có người, còn phải tiếp nhận ánh sáng mặt trời mới có thể nhìn ra hình bóng. Nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì sẽ không hình thành được hình bóng. Vì vậy hình bóng là do các yếu tốđiều kiện nhân duyên nảy sanh; không phải một vật thể thực tại. Tuy không phải thực thể nhưng đã nhìn thấy được hình bóng, đó rõ ràng không thể không có. Nhất Thiết Giai Không, (tất cả đều không) chính là dựa theo Ý nghĩa nhân duyên sinh khởi mà nói. Cho nên, Đức Phật nói, tất cả đều không. Đồng thời liền có thể nói tất cả nhân duyên đều có. Không những cần phải thấu hiểu tất cả đều không, mà còn phải biết có nhân có quả, có thiện có ác. Người học Phật, từ trong quá trình tu học lìa ác làm thiện, chuyển mê khai ngộ, chứng được tánh không, tức không tức có, nhị đế dung thông (hai chân lí hòa hợp trọn vẹn với nhau). Mọi người cho rằng, Phật Pháp nói không, giống như cái gì cũng đều không có. Đây là tiêu cực, là bi quan, đều là do không hiểu rõ giáo lí Đức Phật mà dẫn đến sự hiểu lầm, cần phải lập tức triệt để sửa chữa ngay!

  1. 4. Hiểu Sai Qui Chế Phật Giáo

Phật Giáo truyền vào Trung Quốc từ Ấn Độ, phương diện qui chế có một vài chỗ khác nhau. Ví như Xuất GiaĂn Chay, người không hiểu rõ, không có thói quen, dẫn đến hiểu lầm về Phật Giáo.

(1). Xuất Gia:

Xuất Gia là qui chế của Phật Giáo Ấn Độ. Xã hội đất nước Trung Quốc, đặc biệtNho Giáo, gây ra nhiều hiểu lầm với Phật Giáo. Ở trong nước, thường nghe thấy người khác nói: Mọi người học Phật thì tất cả mọi người trên thế giới đều không có. Vì sao? Mọi người đều đã Xuất Gia, không có vợ chồng con cái, xã hội trở thành cái gì? Đây là điều hiểu lầm rất nghiêm trọng. Tôi thường thí dụ nói: như các Giáo Sư dạy học sinh, nơi ấy là dạy con người làm Giáo Viên, vậy mọi người trở thành thế giới Giáo Viên phải không? Điều này ở hòn đảo Phi Lập Tân, phần lớn hiều lầm, bởi vì khắp nơi nhìn thấy được Cha Cố, Nữ Tu, các Vị Ấy cũng là Người Xuất Gia. Nhưng đây chỉ là bộ phận nhỏ trong Tín Đồ Thiên Chúa Giáo, mà không phải mỗi người Tín Đồ Thiên Chúa Giáo phải làm Cha Cố, Nữ Tu. Người học Phật có Đệ Tử Xuất Gia, có Đệ Tử Tại Gia. Người Xuất Gia có thể học Phật, Người Tại Gia cũng có thể học Phật. Người xuất Gia đã có thể tu hành thoát ly sanh tử, Người Tại Gia cũng có thể tu hành thoát ly sanh tử giống như nhau. Hơn nữa, không phải người học Phật nhất định đều phải Xuất Gia, nhất định không phải mọi người đều học Phật, thì làm sao hủy hoại nhân loại. Xuất GiaTại Gia đều có thể tu hành thoát ly sanh tử, nhưng vì sao cần phải Xuất Gia? Bởi vì cần hoằng dương Phật Giáo, phát triển Phật Giáo, cần phải có một số vị Trụ Trì Phật Giáo. Điều tốt nhất của Vị Trù Trì là Người Xuất Gia. Nhờ không có gánh vác gia đình, lại không làm các công việc khác, nên trọn tâm tu hành, hết lòng hoằng dương Phật Pháp. Phật Giáo cần tồn tại trên thế giới này, nhất định phải có các Vị Trụ Trì để phát triển Phật Giáo. Cho nên từ xưa đã có qui chế Xuất Gia.

 Công đức Xuất Gia lớn không? Đương nhiên rất lớn. Nhưng người không thể Xuất Gia thì cũng không phải miễn cưỡng. Miễn cưỡng Xuất Gia có lúc không thể giống như Pháp, còn không bằng Người Tại Gia. Người trèo được lên cao, ngã xuống thì càng nặng. Công đức Người Xuất Gia rất lớn, nhưng hể không để Ý sẽ bị đọa lạc càng lợi hại hơn. Cần có thể chơn thật phát tâm, cần cù chịu khó tu hành, vì Phật Giáo hy sinh chính mình, nỗ lực hoằng dương Phật Pháp, mới không hổ thẹn danh nghĩa của Người Xuất Gia. Người Xuất Giaphần tử chủ yếu của Phật Giáo, là chủ thể phát triển Phật Giáo. Người Xuất Gia không dựng vợ giả chồng. Tôn Giáo Phương Tây cũng có qui chế này. Có rất nhiều Nhà Khoa Học, Nhà Triết Học, vì học tập, tuân thủ chủ nghĩa độc thân, không vì mệt nhọc công việc gia đình mà nổ lực đi làm triết học khoa học. Qui chế Xuất Gia của Phật Giáo, chính là giải thoát mệt nhọc dục vọng thế gian, mà chú tâm phục vụ Phật Pháp. Cho nên, Xuất Gia là công việc của Bậc Đại Trượng Phu, đặc biệt cần phải chăm chỉ cần cù. Như tùy tiện Xuất Gia, Xuất Gia mà không làm công việc của Người Xuất Gia, đó không những không có lợi ích, trái lại làm ảnh hưởng xấu đến Phật Giáo. Có người, vừa mới học Phật liền muốn Xuất Gia, giống như học Phật không Xuất Gia không được, không những tự mình đã hiểu sai mà khiến người khác đều phải sợ, không dám đến Chùa học Phật. Tư tưởng này, học Phật chính là phải Xuất Gia, không thể chấp nhận được! Nên biết Xuất Gia không dễ dàng, trước làm một vị CưTại Gia lương thiện, vì Phật Pháp tu học, tự lợi lợi tha. Như có thể chân thật phát tâm tu hành đạo hạnh của Người Xuất Gia, hiến thân cho Phật Giáo, trở lại việc Xuất Gia, như vậy tự mình đã thận trọng thỏa thuận, đối với xã hội cũng sẽ sản sinh nhiều sự ảnh hưởng tốt đẹp.

Liên quan với người Xuất Gia, tiện thể nói 2 điều:

  • Có người nhìn thấy Chùa Phật rộng lớn trang nghiêm, vắng vẻ thanh tịnh, do đó ước ao làm Người Xuất Gia. Cho rằng Người Xuất Gia Sống trong Chùa, có thí chủ đến cúng dường, không phải làm việc, ngồi yên hưởng phước. Như có câu nói “Nhật cao tam trượng do vị khởi”, “bất cặp Tăng Gia bán nhật nhàn” (mặt trời lên cao 3 trượng vẫn còn chưa thức dậy, không thua gì các Vị Tăng cả ngày nhàn rổi), đây chính là luận thuyết này. Không biết người Xuất Gia có sự việc của Người Xuất Gia, cần dũng mãnh tinh tấn. Khi tự mình tu hành, (Sơ dạ hậu dạ, tinh cần Phật đạo) “thức khuya dạy sớm, tinh tấn cần cù theo con đường của Đức Phật”. Giảng pháp với Tín đồ, phải đi du hóa khắp nơi, tuyên truyền rộng rãi chân lí. Trãi qua cuộc sống thanh vắng khổ cực, vì chúng sanh, vì Phật Giáo, mà nổ lực tự lợi lợi tha, rất ít thấy được. Cho nên gọi là Tăng Bảo; Đâu phải sự việc gì cũng đều không làm, ngồi sẳn hưởng phước, ngồi đợi các thí chủ đến cúng dường? Đây đại kháitrách nhiệm của Người Xuất Gia. Có một số ít các vị Xuất Gia khác không thể làm hết trách nhiệm của mình, cho nên xã hội có sự hiểu lầm!
  • Có một vài người phản đối Phật Giáo, nói người Xuất gia cái gì cũng đều không làm, là người tiêu dùng ăn bám xã hội, dường như một chút công ích cũng không có. Chẳng biết con người không nhất định phải làm công việc của Nông Công Thương, làm Giáo Viên, kí giả tin tức, và các nghề nghiệp tự do khác cũng đều có thể nói là người tiêu dùng phải không? Người Xuất Gia không phải không có việc làm. Trãi qua cuộc sống yên lặng khổ cực mà dũng mãnh tinh tấn, đã làm việc, ngoài tự lợi ra, còn chỉ dẫn mọi người hướng thiện, coi trọng đức hạnh, tu trì, khiến cho nhân cách của Tín đồ càng ngày càng được nâng cao, có thể tu hành sống chết, khiến thế giới nhân sinh đạt được nhiều lợi ích, làm sao có thể nói là Người ăn bám không có làm việc gì? Người Xuất Gia là Thầy nhơn thiên, có thể nói nghĩa rộng là người cao thượng làm công việc giáo dục. Cho nên, người không hiểu Phật Giáo nói người Xuất Gia thanh nhàn, hoặc nói Người xuất Gia ăn bám tiêu dùng của xã hội, đều không đúng. Người Xuất Gia chân chính không phải như thế, lại không phải thanh nhàn mà bận rộn, không phải tiêu hao mà có thể Báo Ân của Thí chủ.

(2). Ăn Chay:

Tín đồ Phật Giáo Trung Quốc, đặc biệt coi trọng ăn chay. Cho nên Người Học Phật, thường cho rằng học Phật cần phải ăn chay. Còn có người không thể bỏ ăn thịt thì hiểu lầm tự mình không thể học Phật được. Nhìn xem các Tín đồ Phật Giáo Nhật Bản, Silanka, Miến Điện,Thái Lan, Tây Tạng, Mông Cổ, không những là Tín Đồ Tại Gia ngay cả Người Xuất Gia cũng đều ăn thịt. Như thế các Vị Ấy không có học Phật, không phải Tín Đồ Phật Giáo sao? Đừng hiểu sai lầm học Phật thì phải ăn chay, không thể ăn chay thì không thể học Phật. Học Phật và ăn chay đều không phải hoàn toàn nhất trí với nhau. Người bình thường nhìn thấy vài người học Phật, không có học được cái gì, chỉ học biết ăn chay. Cha Mẹ Anh Chị trong gia đình cảm thấy không thích, cho rằng ăn chay nhiều phiền não. Kỳ thật, người học Phật phải nên làm như thế này: Khi học Phật, trước phải hiểu giáo lí của đức Phật, rồi ứng dụng Giáo lý vào trong đời sống gia đìnhxã hội. Làm cho đức hạnh của chính mình càng thêm tốt đẹp, tâm được thanh tịnh. Khiến người trong gia đình, cảm thấy bạn trước kia chưa học Phật, lòng tham lamsân hận rất nhiều, thiếu tâm trách nhiệmlòng từ bi, sau khi học phật tất cả đều được thay đổi, lòng tham lamsân hận giảm bớt, có tình thương yêu người khác, làm việc càng có trách nhiệm hơn. Khiến cho người khác cảm thấy học Phật có sự lợi ích cho xã hộigia đình. Lúc đó cần phải ăn chay, người trong nhà không những không phản đối, trái lại nảy sinh tấm lòng thông cảmdần dần cùng học Phật với bạn. Nếu mới vừa học Phật thì chỉ học ăn chay, không phải học cái gì khác, nhất định sẽ phát sinh chướng ngại.

Tuy nhiên, người học Phật không nhất định phải ăn chay, nhưng ăn chay xác thực là truyền thống lương thiện của Phật Giáo Trung Quốc, đáng được đề xướng. Phật Giáo nói ăn chay có thể nuôi dưỡng lòng từ bi, không nhẫn tâm sát hại sinh mạng của chúng sanh, không nhẫn tâm ăn máu thịt của động vật. Không những giảm bớt nghiệp sát sanh, mà còn tăng trưởng lòng thông cảm đối với sự đau khổ của nhân loại. Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt đề xướng ăn chay, nói ăn chaycông đức rất lớn đối với việc tăng trưởngnuôi dưỡng lòng từ bi. Cho nên, ăn chay mà không có thể tăng trưởngnuôi dưỡng lòng từ bi, chỉ là tiêu cực giữ giới sát, điều đó gần với Tiểu Thừa!

Theo Pháp Thế Gian có thể nói, lợi ích ăn chay rất rộng lớn, so với giá trị kinh tế và dinh dưỡng cũng rất cao, cho nên giảm đi bệnh khổ. Hiện nay trên thế giới, có tổ chức Hội Ăn Chay Quốc Tế, bất luận người nào, phàm là người thích ăn chay đều có thể tham gia. Có thể nhìn thấy, ăn chay là sự việc tốt. Người học Phật càng nên đề xướng. Nhưng cần phải chú Ý, chính là không phải đưa ra những tiêu chuẩn rất cao cho người học Phật, cho rằng học Phật không ăn chay không thể được. Gặp người học Phật thì sẽ hỏi: có ăn chay không? Vì sao học Phật lâu như thế lại không ăn chay? Như vậy, học Phật cần phải phù hợp thống nhất với việc ăn chay, đối với sự việc hoằng Pháp có trở ngại!

  1. 5. Hiểu Sai Nghi Thức Phật Giáo

Người không hiểu giáo lí Đức Phật, khi đến Chùa nhìn thấy nghi thức Lễ Phật, Tụng Kinh, Bái Sám, và Khóa Tụng sáng chiều…vv, không hiểu rõ Ý nghĩa chân thật trong Kinh liền nói đó là mê tín. Ở đây có nhiều vấn đề có thể thảo luận, hiện tại nói đơn giản có mấy vấn đề sau:

(1). Lễ Phật:

Vào Chùa Lễ Phật, cầm hương hoa đèn cầy đến cúng Phật. Tín Đồ Thần Giáo Phương Tây nói chúng ta Lễ Bái Ngẫu Tượng, là mê tín. Kỳ thật, Đức PhậtGiáo Chủ chúng ta, là Thánh Giả tiến lên đạt được cứu cánh viên mãn. Các Vị Đại Bồ Tát cũng là người sắp Thành Phật. Đây là chỗ nương tựa của chúng ta, là người lãnh đạo chúng ta. Tôn trọng Phật Bồ Tát, đương nhiên phải có sự biểu hiện giống như cung kính Cha Mẹ, cần phảilễ phép như nhau. Khi Đức Phật còn tại thế gian, có vấn đề gì có thể trực tiếp bày tỏ sự cung kính với Ngài, nhưng bây giờ Đức Phật Thích Ca đã vào Niết Bàn và các vị Phật Bồ Tát ở trong thế giới khác, đều không ở tại thế gian chúng ta. Không những không dùng giấy vẽ, đất, gỗ, đá cho đến điêu khắc hình tượng của Các Ngài, coi là đối tượng Cung Kính Lễ Bái. Bởi vì, đây là thể hiện hình tượng của Các Vị Phật Bồ Tát, chúng ta cần phải cung kính lễ bái Các Ngài. Không nên nghĩ rằng các Ngài là giấy, đất, gỗ, đá. Như chúng ta cung kính đất nước của chúng ta, làm sao phải bày tỏ sự cung kính? Dùng vải màu làm thành Quốc Kỳ, khi kéo lá cờ lên, cung kính hướng đến lá cờ làm lễ. Chúng ta có thể nói, đây phải chănghành vi mê tín? Thiên Chúa Giáo cũng có Hình Tượng. Cơ Đốc Giáo tuy không có Thần Tượng, nhưng cũng có Cây Thập Tự (Thánh Giá), coi là đối tượng cung kính Niệm Kinh, có người còn quì xuống cầu khấn, đây có gì khác biệt với Lễ Lạy Đức Phật? Nói Phật Giáo lễ Đức PhậtLễ Bái Ngẫu Tượng, đây là chỉ Tín Đồ Thần Giáo Tây Phương có sự phá hoạiác Ý với Phật Giáo.

Thậm chí, Hoa Hương Đèn Cầy, khi Phật còn tại thế, người Ấn Độ dùng hoa hương đèn cầy đến cúng dường Đức Phật. Đèn cầy là tượng trưng sáng suốt, hương hoatượng trưng mùi thơm tinh khiết. Phật Giáo lễ lạy Đức Phật, một mặt là dùng hương hoa đèn cầy đến cúng dường và bày tỏ sự cung kính Đức Phật, mặt khác là bảy tỏ Đức Phật đã đạt được ánh sáng thanh tịnh. Không phải dâng hoa thắp hương, khiến cho Đức Phật ngữi được mùi thơm. Thắp đèn, châm đèn cầy lên thì Đức Phật có thể thấy được tất cả. Tôn Giáo Tây Phương, đặc biệtThiên Chúa Giáo, còn chưa từng dùng những đồ vật này phải không? Đây vốn là nghi thức cộng đồng của các Tôn Giáo nói chung. Lễ Phật cần phải cung kính chân thành. Khi lễ Phật cần chân thành quán tưởng Đức Phật. Nếu vừa lạy vừa nghĩ đông nghĩ tây, hoặc nói chuyện, điều này không được tôn kính mà còn đánh mất đi Ý nghĩa Lễ Phật.

(2). Lễ Sám:

Tín Đồ Phật Giáo, mỗi lần Lễ Sám Tụng Kinh, người không có Tôn GiáoTín Đồ Tôn Giáo khác, cũng thường hiểu lầm cho là mê tín. Không biết, “Sám”, Ngôn ngữ Ấn Độ gọi là Sám Ma, nó có Ý nghĩa, tự mình sau khi đã làm sai, thừa nhận sai lầm của chính mình. Bởi vì người sống trong thế giới quá khứthế giới hiện tại, ai cũng đều làm qua những lỗi lầm, phạm những tội ác, lưu giữ lại nghiệp lực khổ đau và làm cản trở tu đạo giải thoát. Vì để làm giảm bớt nghiệp chướngtiêu trừ chướng ngại khổ đau, nên ở trước Tượng Phật Bồ Tát, trước Chúng Tăng, thừa nhận lỗi lầm của mình làm để tiêu trừ nghiệp chướng của mình. Trong Phật Giáo, có pháp môn Lễ Sám. Đây chẳng khác nào sự hối cải của Kỳ Na Giáo. Lễ Sám là rất quan trọng trong con đường tiến tu của Tôn Giáo. Sám hối, cần tự mình sám hối, sám hối nội tâm, cần thiết tha chân thật mới phù hợp với Ý nghĩa của Phật Giáo.

Người bình thường, không biết Sám Hối như thế nào? Các Vị Tổ Sư, thời xưa biên chép nghi thức sám hối, dạy chúng ta từng câu tụng Kinh, miệng tụng tâm nghĩ, cũng chính là hiểu biết Ý nghĩa bên trong Kinh, sám hối nghiệp ác của chính mình. Trong Nghi Thức Sám Hối, dạy chúng ta làm sao Lễ Phật, cầu Phật Bồ Tát từ bi gia hộ, thừa nhận tội lỗi chính mình, không phải Sát Sanh, Trộm Cắp, Tà Dâm…vv, nhất tâm phát nguyện sám hối tu tập. Những nghi thức này, đều là Các Vị Tổ Sư quá khứ dạy bảo chúng ta sám hối, nhưng chủ yếu cần phải tự tâm mình phát ra những lời hối cải thiết tha chân thật.

Có vài người, ngay cả nghi thức Lễ Sám có sẵn cũng không biết đọc tụng, liền mời các Vị Xuất Gia hướng dẫn đọc tụng. Dần dần chính mình cũng không biết Sám Hối, chuyên môn mời các Vị Xuất Gia đến nhà vì mình Tụng Kinh Sám Hối. Có Cha Mẹ Quyến Thuộc đã qua đời, vì cần oai đức của Tam Bảo đến để tiêu trừ tội nghiệp của Cha Mẹ Quyến Thuộc, cũng mời các Vị Xuất Gia đến Tụng Kinh Sám Hối, cầu mong người chết sớm siêu thăng. Nhưng người không hiểu Ý nghĩa chủ yếu của Phật Pháp, vì bộ mặt bên ngoài, vì phong tục nhân gian, chỉ tốn vài đồng tiền, mời Các Vị Xuất Gia đến Tụng Kinh Sám Hối làm công đức, mà tự mình không tin Phật Pháp, tự mình không một chút thành tâm thiết tha Sám Hối, đó là đánh mất đi Ý nghĩa của việc Tụng Kinh Sám Hối.

Đến với Phật giáo như thế, Ý nghĩa Sám Hối rất mơ hồ. Học Phật không tự mình sám hối, bất cứ sự việc lớn nhỏ cũng đều mời các Vị Xuất Gia. Do vậy người Xuất Gia bận rộn Phật Sự. Hôm nay Tụng Kinh Sám Hối nhà này, ngày mai làm công đức nhà kia. Những Tự Viện lớn, mỗi ngày lấy việc làm Phật Sựsự nghiệp duy nhất. Sự nghiệp chủ yếu của Người Xuất Gia thì buông bỏ không đảm nhiệm, nên khó tránh Phật Giáo sắp suy bại.Vì thế, Sám Hối chủ yếu là tự mình. Nếu tự mình sám hối thiết tha thành thật, thậm chí sám hối trong một thời gian ngắn cũng hơn hẳn mời nhiều người, hơn hẳn làm nhiều ngày công đức Phật Sự. Hiểu được qui luật này, như con cái cần hết lòng hiếu thảo với Cha Mẹ, vì duyên cớ huyết thống tương thông, quan hệ mật thiết, thì nên tự mình vì Cha Mẹ làm nhiều công đức Tụng Kinh Sám Hối. Không phải làm công đức Tụng Kinh Sám Hối, xem như nghề nghiệp của Người Xuất Gia, đó không những không hề có lợi ích mà chỉ có tăng thêm sự phỉ bánghiểu lầm của thế tục.

(3). Khóa Tụng:

Người học Phật, sớm tối Tụng Kinh Niệm Phật, ở trong Phật Giáo gọi là Khóa Tụng. Cơ Đốc Giáo sớm tối và lúc ăn uống cũng có cầu nguyện. Tín Đồ Thiên Chúa Giáo sớm tối phải Tụng Kinh. Đó là nghi thức thực hành của Các Tôn Giáo, vốn không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng vì sự việc này, có vài Phật Tử hỏi tôi: không học Phật còn tốt hơn, vì học Phật rất mênh mông. Thân Mẫu tôi, sáng tối làm việc một hai tiếng đồng hồ, giống như học Phật đều như thế, sự việc trong nhà không có biện pháp thúc đẩy. Trong các Vị Cư Sĩ, thật sự có tình huống này, khiến mọi người hiểu lầm Phật Giáo, là việc thư giản của các người lớn tuổi, không phải người thông thường thích nghi học Phật. Kỳ thật, Khóa Tụng sáng tối lại không nhất định Tụng Kinh gì, cũng không nhất định Tụng Trì rất lâu, có thể tùy theo sự nhàn rỗi và bận rộn của mình, dựa theo tình hình thực tế mà qui định thời gian. Khóa Tụng chủ yếu nên Tụng Niệm Tam Qui YThập Nguyện. Phật Giáo Nhật Bản từ Trung Quốc truyền sang, như Tịnh Độ Tông, Thiên Thai Tông, Mật Tông…vv, đều có Khóa Tụng riêng biệt của các Tông Phái. Tụng Niệm rất đơn giản mà không lãng phí nhiều thời gian, đây còn là tình hình Phật Giáo trong Thời Đại Tống, Đường. Khóa Tụng thời cận đại Trung Quốc:

1. Sử Dụng trong Tùng Lâm: Tùng Lâm được lưu trú vài trăm người, mỗi lần tập hợp thì mất nhiều thời gian, vì để thích nghi hoàn cảnh đặc biệt, cho nên Khóa Tụng tương đối dài.

  1. Phật Giáo đời Nguyên Minh, có xu hướng hỗn hợp, do đó biên tập nghi thức Tụng Kinh, đầy đủ các nội dung, thích nghi sự tu học của các Tông Phái khác. Kỳ thật, cư Sĩ Tại Gia không nhất định phải như thế. Thời xưa, người thực hành theo Phật Giáo Ấn Độ Đại Thừa, mỗi ngày 5 lần Tụng Niệm,và 5 pháp môn sám hối. Thời gian ngắn không sao cả, số lần Khóa Tụng dần dần tăng lên.

Tóm lại, học Phật không chỉ là nghi thức Tụng Niệm. Tại Gia học Phật, nhất định không thể vì Khóa Tụng quá lâu và thời gian dài mà làm ánh hưởng đến công việc gia đình.

(4). Đốt Giấy:

Khi Thờ Cúng Tổ Tiên, Thời Cổ Đại Trung Quốc, có phong tục đốt lụa, đốt một ít tờ lụa cho Tổ Tiên thọ dụng. Sau đó, vì tiết kiệm liền chuyển dùng giấy để thay thế, đến sau đó làm thành tiền, nguyên bảo[1], giấy bạc, và thậm chí làm thành nhà cửa, xe cộ để thiêu đốt. Những vấn đề đốt giấy, đều là do phong tục tập quán Cổ Đại lưu truyền lại, diễn biến hình thành, chớ không phải là sở hữu bên trong của Giáo Lí Phật Giáo.

Những sự việc này cũng có một vài lợi ích, chính là làm cho con cái bày tỏ lòng hiếu thảo với cha Mẹ. Tự mình ăn uống, nhớ đến Cha Mẹ Tổ Tiên: tự mình may quần áo và xây nhà ở, nghĩ đến Tổ Tiên, không quên ân đức Cha Mẹ Tổ Tiên, có Ý nghĩa thận trọng truy tìm xa. Phật giáo truyền vào Trung Quốc, thích nghi phong tục tập quán Trung Quốc, phù hợp với phương tiện Tụng Kinh Niệm Phật. Nhưng mà, dưới tập tục Của Nhà Nho “Tống tử vi đại sự cập hậu táng”(Đưa người chết là sự việc lớn và coi trọng chôn cất), không tránh phô trương lãng phí, thiêu đốt càng nhiều càng tốt giấy vàng bạc. Đây mới dẫn đến phê bình của các Vị Nhân Sĩ Thời Đại Tư Bản Chủ Nghĩa, mà Phật Giáo cũng cho là mê tín lãng phí. Tín Đồ Phật Giáo hiểu rõ Ý nghĩa này, tốt nhất đừng đốt nhiều giấy vàng bạc. Trong Phật Giáo không có sự việc này. Nếu vì cần tưởng nhớ người quá cố, giống như đốt tượng trưng một ít giấy vàng bạc, không cần đem đến Chùa Chiền đốt, để tránh cho Phật Giáo, vì chúng ta chịu tội.

(5). Bốc Thăm, Xem Bói, Lên Đồng:

Một vài ngôi Chùa, có hành động Bốc Thăm, Coi Bói, thậm chí Lên Đồng…vv, dẫn đến sự châm biến, chê bai của xã hội, ám chỉmê tín. Kỳ thật, Phật Giáo thuần túy không cho phép người học Phật chân chính thực hiện những việc làm này, mà chỉ tin tưởng vào nhân quả. Nếu quá khứhiện tại tạo tác nhiều nghiệp ác, nhất định không thể dùng phương pháp làm lành tránh dữ có thể ngăn ngừa. Tu thiện đạt được kết quả hạnh phúc, làm ác tương lai tránh không được quả báo khổ. Muốn đạt được quả báo tốt thì phải làm nhiều sự việc có công đức. Đệ Tử Đức Phật, chỉ biết làm nhiều việc thiện. Tất cả sự việc phải làm hợp lí với Phật Pháp, quyết không sử dụng tập tục thấp kém, đầu cơ trục lợi bằng thủ đoạn. Việc Bốc Thăm, Xem Bói, Lên Đồng đều không liên quan đến Phật Giáo, Người Đệ Tử Phật chân chính tín ngưỡng Phật Giáo, nên tuyệt đối ngăn ngừa những hành vi Tôn Giáo thấp kém này.

  1. 6. Hiểu Sai Tình hình Hiện Tại Phật Giáo

Người Trung Quốc nói chung, không hiểu Phật Giáo, không hiểu tình hình Phật Giáo Quốc Tế, chuyên xem tình hình hiện tại Phật Giáo Trung Quốc, tùy tiện phê bình Phật Giáo. Dưới đây là 2 quan điểm thường nghe nói đến:

(1). Tín Ngưỡng Quốc Gia Phật Giáo Sẽ Suy Vong:

Mọi người nghĩ rằng, Ấn Độ vì tin Đức Phật mới làm mất nước. Các vị ấy muốn Đất Nước Giàu Mạnh , thế là quyết đoán bừa bãi cho rằng không thể tín ngưỡng Phật Giáo. Kỳ thật, đây là điều hoàn toàn sai lầm. Nghiên cứu qua Lịch Sử Phật Giáo, đều biết quá khứ Ấn Độ, thời đại thịnh vượng giàu có nhất, cũng chính là thời đại thịnh vượng nhất Phật Giáo. Lúc đó, Vua A Dục của Vương Triều Khổng Tước thống nhất Ấn Độ, và đem Phật Giáo truyền bá đến toàn thế giới. Sau đó, Bà La Môn Giáo phục hưng, tàn phá Phật Giáo.Ấn Độ cũng chính lúc đó mỗi ngày một hỗn loạn. Khi Ấn Độ bị Hồi Giáo và Đế Quốc Anh diệt vong, Phật Giáo đã suy bại, thậm chí không còn hiện hữu nữa. Trong Lịch Sử Trung Quốc, cũng có vài thí dụ có thật này. Hiện tại gọi là Hoa Kiều biến thành Đường Nhân(con người Triều Đường), Trung Quốc đổi thành Đường Sơn, đây có thể thấy được sự cường thịnh của thế lực Nước Đường Triều Trung Quốc. Lúc đó, đúng là thời đại hưng thịnh nhất Phật Giáo, Đường Võ Tông phá hoại Phật Giáo, cũng chính là khiến cho Triều Đại Đường suy yếu. Sau Triều Đường, Tống Thái Tổ, Thái Tông, Chơn Tông, Nhân Tông, đều tôn sùng kính ngưỡng Phật Giáo, cũng chính là thời đại hưng thịnh của Triều Tống. Minh Thái Tổ, bản thân là Người Xuất Gia, Thái Tông cũng rất tin Phật, không những chính trị có kỷ cương, mà còn là thời đại thực lực của một quốc gia hưng thịnh. Nhật Bản hiện tai tuy rất thất bại, nhưng sau Thời Minh cai trị đổi mới, xếp vào hàng đầu của cường quốc Thế Giới. Nhân dân Nhật Bản đa sốtin tưởngphụng thờ Phật Giáo. Tin Phật, ai có thể nói khiến cho đất nước suy yếu? Cho nên, nhìn xem Lịch Sử mà nói, thời đại cường thịnh của thế lực đất nước chính là thời đại hưng thịnh của Phật Giáo. Tại sao, hy vọng sự giàu mạnh của đất nước Trung Quốc hiện đại, mà phản đối khởi xướng Phật Giáo?

(2). Phật Giáo Không Có Lợi Ích Đối Với Xã Hội:

Nhân Sĩ Trung Quốc cận đại, nhìn thấy Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc Giáo…vv, có những Học Viện, Trường Học mà Phật Giáo ít có tổ chức, liền cho rằng Phật Giáotiêu cực, không làm ích lợi cho xã hội, không có ích với xã hội. Đây là Ý kiến nghị luận sai lầm! Đa số chỉ có thể nói: Tín Đồ Phật Giáo Trung Quốc cận đại không nổ lực, không làm hết trách nhiệm. Nhất định không phải Phật Giáo cần chúng ta không làm. Phật Giáo Trung Quốc trong quá khứ, đại khái cũng có làm công việc Từ Thiện. Tín Đồ Phật Giáo Nhật Bản hiện đại, xây dựng nhiều trường Đại Học, Trung Học, có nhiều Vị Người Xuất Gia cũng làm Giáo Sư, Hiệu Trưởng của Trường Trung Học và Đại Học. Công việc Từ Thiện, cũng thường do Tăng Chúng Tự Viện chịu trách nhiệm chính. Đặc biệt, Tín Đồ Phật Giáo Thái Lan, Miến Điện, và Sri Lanka đều có thể duy trì quan hệ mật thiết với nền giáo dục, và làm công việc Từ Thiện. Cho nên không thể nói Phật Giáo không thể làm nhiều lợi ích thực sự cho xã hội, mà chỉ có thể nói, Tín Đồ Phật Giáo Trung Quốc nên cảm thấy tự mình không có trách nhiệm hết lòng với bổn phận Phật Tử của Đức Phật. Từ phương diện này nên hết sức nổ lực, mới phù hợp với Ý nghĩa nguồn gốc của Phật Giáo là cứu đời độ người, khiến cho Phật Giáo càng ngày càng phát đạt hơn.

Nhân Sĩ Trung Quốc nói chung, đối với Phật Giáo còn có nhiều quan điểm hiểu sai lầm. Hiện tại đã nói những điều đó tương đối phổ biến. Hy vọng mọi người đã hiểu biết Ý Nghĩa này, sau đó làm một người Tín Đồ Phật Giáoniềm tin đúng đắn, và cũng có thể loại trừ triệt để một vài hiểu lầm đối với Phật Giáo, khiến Ý nghĩa nguồn gốc của Phật Giáo thuần túy phát triển mạnh hơn. Nếu không, với cách nhìn thành tâm tín ngưỡng sai lầm về Phật Giáo, tin một cách mù quán, đây cũng khó tránh sự châm biếm của xã hội!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11711)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12037)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11189)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11429)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12135)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12636)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10853)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18091)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11803)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10026)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10235)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12439)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15440)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11310)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14416)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12195)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15473)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12087)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12487)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11274)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12155)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10698)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12613)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13261)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14948)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12775)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16665)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19759)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13201)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12755)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12361)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11950)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11004)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13619)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12029)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11935)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11712)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12831)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14621)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12696)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15765)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13708)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12999)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9953)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18102)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11255)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9141)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12278)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13132)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10363)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12262)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15430)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16688)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12318)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11586)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14358)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19824)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14239)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24726)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10760)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant