Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 4 – Sự thức dậy của Năng lượng

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10065)
Đối thoại 4 – Sự thức dậy của Năng lượng

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 4

SỰ THỨC DẬY CỦA NĂNG LƯỢNG

New Delhi, ngày 16 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Khi chúng ta bàn luận về Tantra, anh đã nói rằng có một cách làm thức dậy năng lượng. Những người Tantra tập trung vào những trung tâm tinh thần nào đó, và vì vậy giải thoát năng lượng ngủ yên trong những trung tâm đó. Anh sẽ nói liệu có bất kỳ giá trị nào trong việc này? Cách để làm thức dậy năng lượng là gì?

Krishnamurti: Điều gì bạn vừa nói lúc nãy, tập trung vào những trung tâm thân thể-tinh thần, hàm ý, một qui trình của thời gian, đúng chứ? Vì vậy tôi muốn hỏi, liệu năng lượng đó có thể được thức dậy mà không có một qui trình của thời gian?

P: Trong toàn qui trình này, phương pháp truyền thống bắt buộc tư thế đúng đắn và một cân bằng của hơi thở. Nếu thân thể không biết làm thế nào để ngồi ngay thẳng, và làm thế nào để hít thở một cách đúng đắn, không thể có sự kết thúc của suy nghĩ. Muốn mang thân thểhơi thở đến một cân bằng, chắc chắn cần đến một qui trình của thời gian.

Krishnamurti: Có lẽ có một loại tiếp cận hoàn toàn khác hẳn với vấn đề này. Truyền thống bắt đầu từ hệ thần kinh cơ thể, tư thế ngồi, kiểm soát hơi thở và từ từ qua những hình thức khác nhau của tập trung dẫn đến sự thức dậy trọn vẹn của năng lượng. Đó là cách đã được chấp nhận. Liệu có một thức dậy của năng lượng này mà không trải qua tất cả những luyện tập này.

P: Nó giống như những Bậc Thầy về Zen mà nói rằng người thầy thực sự là người buông bỏ mọi nỗ lực, và tuy nhiên trong Zen muốn thấu triệt thuật bắn cung phải cần đến một tinh thông hoàn hảo của phương pháp kỹ thuật. Chỉ khi nào có sự tinh thông hoàn hảo thì nỗ lực mới không cần đến.

Krishnamurti: Bạn đang bắt đầu tại đầu này hơn là tại đầu kia – đầu này là thời gian, kiểm soát, năng lượng, hoàn hảo, sự cân bằng hoàn hảo.

 Đối với tôi có vẻ tất cả việc này giống như đang tiếp xúc với một xó xỉnh của một cánh đồng bao la. Truyền thống trao sự quan trọng lạ lùng cho quá khứ, cho hít thở, cho tư thế đúng đắn. Tất cả việc này bị giới hạn trong một xó xỉnh của cánh đồng, và qua xó xỉnh đó bạn mong chờ kiếm được sự khai sáng. Vậy thì xó xỉnh đó trở thành một lừa bịp. Qua loại uốn éo thuộc hệ thần kinh cơ thể như thế nào đó, hy vọng rằng bạn sẽ nắm bắt được ánh sáng, nguyên vũ trụ. Tôi nghĩ sự khai sáng không hiện diện ở đó – không qua một xó xỉnh. Nó giống như nhìn thấy bầu trời qua một khung cửa sổ nhỏ và không bao giờ ra ngoài để nhìn ngắm bầu trời. Tôi cảm thấy rằng cách đó là một cách vô lý để tiếp cận cái gì đó vô cùng mênh mang, không thời gian.

P: Thậm chí như vậy, anh sẽ thừa nhận rằng tư thế đúng đắn và hít thở đúng đắn củng cố cấu trúc của cái trí.

Krishnamurti: Tôi muốn tiếp cận tất cả điều này hoàn toàn khác hẳn. Trong tiếp cận nó hoàn toàn khác hẳn, rất cần thiết phải quẳng đi tất cả điều gì đã được nói. Tôi thấy cái xó xỉnh giống như một cây đèn cầy trong ánh sáng mặt trời. Cây đèn cầy đang được thắp sáng rất cẩn thận trong ánh sáng mặt trời rực rỡ. Bạn không quan tâm đến ánh sáng mặt trời nhưng lại tiếp tục thắp sáng cây đèn cầy.

 Có những sự việc khác được bao hàm; có sự thức dậy của năng lượng đã bị hao tán từ trước đến nay.

 Muốn tập trung năng lượng, muốn thâu gom toàn bộ nó, sự chú ý được cần đến, và sự loại bỏ hoàn toàn của thời gian.

 Tôi nghĩ, có những vấn đề cơ bản này – thời gian, chú ý không-ép buộc, không-tập trung, không-vây quanh một mảnh, và sự tập hợp năng lượng. Tôi nghĩ, đây là những vấn đề cơ bản mà người ta phải thông suốt bởi vì sự khai sáng phải hiện diện và là thấu triệt lẫn hiểu rõ về sự sống bao la này – sự sống là đang sống, đang chết, đang thương yêu; toàn bộ khó nhọc và vượt khỏi nó.

 Những Bậc Thầy truyền thống cũng sẽ đồng ý rằng bạn phải có sự chú ý để vượt khỏi thời gian. Nhưng họ là những người tôn sùng cái xó xỉnh. Họ sử dụng thời gian để vượt khỏi thời gian.

P: Làm thế nào, thưa anh? Tôi giữ một tư thế ngồi và hướng dẫn sự chú ý của tôi. Thời gian được bao hàm trong việc này là gì?

Krishnamurti: Liệu sự chú ý là kết quả của thời gian?

P: Không. Anh đưa ra một câu hỏi và có sự chú ý tức khắc. Liệu sự chú ý này là sản phẩm của thời gian?

Krishnamurti: Không, chắc chắn không.

P: Câu hỏi của anh và sự chú ý của tôi đồng-hiện diện ở đó, liệu có thời gian bị dính dáng? Nếu anh muốn coi điều này là như thế, tiến hành hiểu rõ về chính mình mà luôn luôn đang xảy ra cũng bao hàm thời gian. Cách đây hai mươi năm cái trí của tôi không bao giờ biết chất lượng hiện nay. Trạng thái này đã không hiện diện lúc đó.

Krishnamurti: Chúng ta hãy theo chầm chậm. Chúng ta đang cố gắng hiểu rõ cái gì đó vượt khỏi thời gian.

P: Truyền thống nói hãy chuẩn bị thân thể và cái trí.

Krishnamurti: Qua thời gian bạn chuẩn bị thân thể và cái trí để thâu nhận, để hiểu rõ, để được tự do khỏi thời gian. Qua thời gian, liệu bạn có thể thực hiện được điều này?

P: Truyền thống cũng gợi ý rằng, qua thời gian anh không thể vượt khỏi thời gian?

Krishnamurti: Tôi đang hỏi, khi bạn nói qua thời gian bạn hoàn thiện cái dụng cụ, nó như thế à? Tôi nghi ngờ điều đó. Qua thời gian liệu bạn có thể hoàn thiện cái dụng cụ? Lúc này, đầu tiên ai là người đang hoàn thiện cái dụng cụ? Liệu nó là sự suy nghĩ?

P: Sẽ không có giá trị gì cả khi nói chỉ có sự suy nghĩ. Có nhiều nhân tố khác bị dính dáng.

Krishnamurti: Sự suy nghĩ, biết của sự suy nghĩ, thông minh, tất cả đều được duy trì bởi sự suy nghĩ. Lại nữa, khi nói rằng sự suy nghĩ phải kết thúcthông minh phải hiện diện là một hành động của sự suy nghĩ. Lại nữa câu phát biểu, người suy nghĩsuy nghĩ là một, là một hành động của sự suy nghĩ. Bạn đang nói, hoàn thiện cái dụng cụ qua sự suy nghĩ. Đối với tôi sự tiếp cận thuộc truyền thống để hoàn thiện cái dụng cụ qua sự suy nghĩ và vì thế vượt khỏi nó, và hành động của vun đắp thông minh và vượt khỏi thời gian – tất cả việc này vẫn còn trong lãnh vực của sự suy nghĩ. Đó là như thế. Vì vậy, trong chính suy nghĩ đó có người suy nghĩ. Người suy nghĩ đó nói điều này phải xảy ra, điều này không được xảy ra. Người suy nghĩ đó đã trở thành ý muốn của sự thành tựu. Ý muốn để hoàn thiện cái dụng cụ là bộ phận của sự suy nghĩ.

P: Trong vòng tròn này mà anh đang nói; trong điều mà vừa lúc nãy anh diễn tả, cũng được hàm ý nghi vấn của chính dụng cụ mà là sự suy nghĩ.

Krishnamurti: Nhưng người nghi vấn là bộ phận của sự suy nghĩ; toàn cấu trúc là bộ phận của sự suy nghĩ. Bạn có thể phân chia, phân chia nhỏ thêm, thay đổi, nhưng tất cả vẫn còn trong lãnh vực của sự suy nghĩ, và đó là thời gian. Sự suy nghĩ là ký ức, sự suy nghĩvật chất; vật chất là ký ức. Chúng ta vẫn còn đang vận hành trong lãnh vực của cái đã được biết, và cái người đang vun quén sự suy nghĩ nói rằng anh ấy sẽ tiếp cận cái không biết được qua cái đã được biết, hoàn thiện cái đã được biết và đạt được sự khai sáng. Lại nữa tất cả việc này là sự suy nghĩ.

P: Nếu mọi thứ là sự suy nghĩ, vậy thì phải cần thiết để sinh ra một dụng cụ mới mẻ.

Krishnamurti: Khi sự suy nghĩ nói nó phải yên lặng, và được yên lặng, nó vẫn còn là sự suy nghĩ. Điều gì những người truyền thống làm là, làm việc trong lãnh vực của sự suy nghĩ mà là xó xỉnh của cánh đồng. Nhưng nó vẫn còn là kết quả của sự suy nghĩ. Đại Ngã là kết quả của sự suy nghĩ. Cái tinh thần vũ trụcon người hướng đến, là kết quả của sự suy nghĩ. Người đã trải nghiệm nó không liên quan gì đến sự suy nghĩ. Nó chỉ xảy ra, trái lại người học trò của anh ấy xuất hiện và nói hãy làm điều này, hãy làm điều kia. Tất cả đều ở trong lãnh vực của sự suy nghĩ.

P: Vậy là không có thâm nhập sâu thêm.

Krishnamurti: Hãy thấy làm thế nào sự suy nghĩ đang đùa giỡn với chính nó – tôi phải có cân bằng, tôi phải có tư thế đúng đắn với mục đích để năng lượng sự sống trôi chảy qua. Đúng chứ? Tôi nói, sự suy nghĩ thuộc về quá khứ. Sự suy nghĩ có thể tạo ra cái dụng cụ tuyệt vời nhất – nó có thể đi đến mặt trăng, đến sao Kim; nhưng sự suy nghĩ không bao giờ có thể chạm được ‘cái khác lạ’ bởi vì sự suy nghĩ không bao giờ được tự do, sự suy nghĩ luôn luôn cũ kỹ, sự suy nghĩ bị quy định. Sự suy nghĩ là toàn cấu trúc của cái đã được biết.

P: Anh có ý gì qua từ ngữ ‘cái khác lạ’.

Krishnamurti: Cái đó không là nó.

P: Cái đó không là cái gì? 

Krishnamuri: Cái này ở bên trong lãnh vực của thời gian; sự suy nghĩ mà là thời gian. Cái đó ở bên trong lãnh vực của yên lặng. Vì vậy hãy tìm ra liệu đau khổ có thể kết thúc? Hãy ra khỏi cái xó xỉnh. Hãy tìm ra sống là gì, chết là gì, nó có nghĩa gì khi kết thúc đau khổ. Nếu bạn không bắt gặp cái này, đang đùa giỡn cùng sự suy nghĩ không có ý nghĩa gì cả. Bạn có thể đánh thức tất cả những huyệt đạo kudalini, nhưng với mục đích gì?

 Vì vậy một người đang chỉ dạy phương pháp đánh thức những huyệt đạo hay đang khiến cho một con người tài giỏi môn bắn cung trong phương pháp của Zen hay trong luyện tập vô số hình thức khác nhau của Tantra, tất cả vẫn còn trong ngục tù của thời gian, mà là sự suy nghĩ. Tôi thấy điều đó, và tôi thấy rằng nó vẫn còn luẩn quẩn trong những vòng tròn. Vòng tròn có lẽ to lớn hơn nhưng nó vẫn là một vòng tròn, một ngục tù, mà là thời gian.

 Thế là, tôi sẽ không sử dụng nó. Tôi sẽ không sử dụng nó bởi vì tôi thấy bản chất, cấu trúc và trật tự của xó xỉnh này. Xó xỉnh này không có ý nghĩa gì đối với tôi. Khi có mặt trời kỳ diệu, tất cả những mức độ khai sáng siddhi và những quyền năng đều giống như những cây đèn cầy.

Liệu cái trí, đang lắng nghe tất cả điều này, có thể xóa sạch nó? Chính đang lắng nghe là đang xóa sạch. Vậy là bạn có nó. Vậy là có chú ý, tình yêu; mọi thứ hiện diện ở đó. Bạn thấy, một cách chính đáng, cái này giam cầm ngược lại cái khác lạ không giam cầm. Sự vận dụng của bộ não là tìm ra sự thật và sự giả dối; thấy sự giả dối như sự giả dối. Bạn thấy, khi cậu bé Krishnamurti thấy sự thật, nó kết thúc. Cậu ta từ bỏ tất cả những tổ chức, vân vân. Cậu ta không có luyện tập ‘để thấy’.

P: Nhưng anh đã có luyện tập. Anh đã trải qua một luyện tập khắc nghiệt của thân thể.

Krishnamurti: Họ bảo cho chúng tôi như thế. Bởi vì thân thể đã bị lơ là. Và vì vậy họ đã nói nếu cậu ta không được chăm sóc cậu ta sẽ bị bệnh tật.

P: Nhưng thưa anh, ngoại trừ sự kỷ luật thân thể, có những hướng dẫn của làm thế nào để nuôi nấng cậu trai đó.

Krishnamurti: Nó giống như chải tóc, thực hiện những bài tập yoga, hít thở; tất cả đều ở cùng mức độ.

B: Nó rất tinh tế. Tôi không đang nói rằng việc gì đã xảy ra có bất kỳ liên quan nào đến sự khai sáng, nhưng chăm sóc thân thể là việc rất cần thiết.

Krishnamurti: Vâng, giữ gìn thân thể khỏe mạnh là việc rất cần thiết.

P: Nếu tôi được phép nói như thế này, anh có dáng dấp của yogi, anh giống như một yogi, thân thể của anh có tư thế của một yogi. Anh đã luyện tập những tư thế, hít thở, mỗi ngày trong quá nhiều năm. Tại sao?

Krishnamurti: Việc đó không quan trọng. Nó giống như giữ gìn những móng tay của tôi được sạch sẽ. Tôi đang nói điều còn lại rất ngây thơ; trải qua nhiều năm trong việc hoàn thiện cái dụng cụ. Tất cả mọi việc mà bạn phải làm là ‘thấy’.

P: Nhưng nếu người ta sinh ra bị mù lòa, chỉ khi nào một người giống như anh đến và nói, hãy thấy, điều gì đó xảy ra. Hầu hết mọi người sẽ không hiểu rõ điều gì anh đang nói.

Krishnamurti: Hầu hết mọi người sẽ không lắng nghe tất cả điều này. Họ sẽ gạt nó đi.

P: Điều còn lại dễ dàng hơn. Nó trao tặng cái gì đó, ngược lại cái này không cho gì cả.

Krishnamurti: Cái này trao tặng mọi thứ nếu bạn hiệp thông cùng nó.

B: Nhưng điều còn lại dễ dàng hơn.

Krishnamurti: Bạn thấy tôi quan tâm vô cùng đến cái này. Làm thế nào cái trí của Krishnamurti đã duy trì được trạng thái vô nhiễm này?

P: Điều gì anh nói không có liên quan. Anh có lẽ là một ngoại lệ. Làm thế nào cậu bé Krishnamurti đã đến được nó? Cậu ta đã có tiền bạc, tổ chức, mọi thứ, và tuy nhiên cậu ta đã từ bỏ mọi thứ. Nếu tôi dắt người cháu gái của tôi lại và giao cho anh và cháu không có sự bầu bạn nào khác ngoại trừ anh, thậm chí như thế cháu cũng không có nó.

Krishnamurti: Không, cháu sẽ không có nó. (Ngừng) Xóa sạch tất cả điều này.

P: Khi anh nói điều đó, nó giống như câu châm ngôn của Zen; con ngỗng đang ló ra khỏi cổ chai. Liệu anh đã có một trung tâm để xóa sạch?

Krishnamurti: Không.

P: Vậy là, anh không có trung tâm phải xóa sạch? Anh là độc nhất và vì vậy anh là một hiện tượng, và vì vậy anh không thể bảo cho chúng tôi anh đã làm việc này và vì vậy nó đã xảy ra. Anh chỉ có thể bảo chúng tôi ‘Đây không phải là nó’ và dù chúng tôi có chết đuối hay không, không ai có thể bảo cho chúng tôi. Chúng tôi thấy điều này. Chúng tôi có lẽ không được khai sáng, nhưng chúng tôi không phải là không-được khai sáng.

Krishnamurti: Tôi nghĩ điều này lý thú vô cùng – khi thấy rằng bất kỳ điều gì sự suy nghĩ tiếp xúc đều không là sự thật. Sự suy nghĩthời gian. Sự suy nghĩ là ký ức. Suy nghĩ không thể chạm vào sự thật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12574)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14152)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10896)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10574)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11243)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12045)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13207)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13690)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33722)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11379)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12981)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13105)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11679)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17943)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11488)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11902)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11561)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19028)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12597)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11390)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13195)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15835)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11876)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11742)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12841)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12688)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14010)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13028)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12990)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13341)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12825)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12745)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11801)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11775)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12398)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12439)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19892)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12012)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12046)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16943)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12722)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15128)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16181)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12944)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11970)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13215)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16561)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13277)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12561)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11895)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19914)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11201)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11319)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10454)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11139)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11015)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10071)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11787)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant