Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 18 – Năng lượngPhân chia

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9577)
Đối thoại 18 – Năng lượng và Phân chia

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

Madras, 1971

Đối thoại 18

NĂNG LƯỢNGPHÂN CHIA

Madras, ngày 14 tháng 1 năm 1971

N

gười hỏi A: Sau khi lắng nghe nói chuyện của ngày hôm qua, tôi tự hỏi điều gì được hàm ý qua từ ngữ năng lượng? Chúng ta chỉ biết năng lượng phân chia.

Krishnamurti: Liệu bạn sẽ trình bày nó theo một cách khác? Liệu bạn sẽ nói rằng tất cả năng lượng đều bị phân chia?

A: Nếu tôi nghe nói chuyện của anh và tôi nhìn vào tất cả những lãnh vực thuộc hoạt động của tôi, dường như tôi không biết gì ngoại trừ năng lượng phân chia.

Krishnamurti: Đó là năng lượng bị phân chia.

A: Trong quan sát tôi thấy rằng tôi chỉ biết năng lượng bị phân chia và tôi không biết điều gì anh đang nói.

Krishnamurti: Có năng lượng thuộc vật chất, năng lượng thuộc trí năng, năng lượng thuộc cảm xúc, có năng lượng của tức giận, của tham lam; chúng là tất cả những hình thức khác nhau của năng lượng, giống như năng lượng con ngườinăng lượng vũ trụ. Tất cả chúng đều bị phân chia, nhưng chúng đều là năng lượng.

A: Tôi lắng nghe anh, nhưng dường như tôi không bao giờ bắt gặp điều gì anh nói.

Krishnamurti: Theo truyền thống, người ta đã nói năng lượng tình dục phải được kiểm soát.

A: Những người truyền thống khẳng định rằng nếu tất cả những hao tán của năng lượng không được chặn đứng, người ta sẽ không bao giờ biết được ‘cái khác lạ’. Dường như nó không là cách đó. Giữa sự kiềm chế và sự phủ nhận mà anh nói, không có sự liên quan. Sự thật là tôi chỉ biết năng lượng bị phân chia.

Krishnamurti: Có lẽ do bởi sự tiếp cận thuộc truyền thống mới kiềm chế chúng ta vào một khuôn mẫu đặc biệt, vào năng lượng bị phân chia đó.

A: Có lẽ do bởi mỗi dạng năng lượngchúng ta biết đều hủy hoại. Năng lượng thuộc trí năng của chúng ta tạo ra những hệ thống và những khuôn mẫu; năng lượng thuộc cảm xúc của chúng ta là sự phản ứng chống lại những cá thể.

Krishnamurti: Ngày hôm qua liệu người nói đã không trình bày rằng tất cả năng lượng đều bắt đầu từ một nguồn của năng lượng?

A: Điều gì anh đang nói hiện diện từ một nguồn khác hẳn. Và anh nói rằng chức năng của mảnh trí năng là thấy rằng chính trí năng là phân chia và, vì vậy, nó không trọn vẹn.

 Khi mảnh trí năng thấy không-trọn vẹn của nó, đó là sự thật tột đỉnh mà mảnh trí năng có thể nhận biết. Chỉ khi anh đến mấu chốt này thì mới có ‘cái khác lạ’. Dường như tất cả mọi điều chúng tôi biết đều là những phân chia, và anh nói về điều gì khác hẳn.

Krishnamurti: Vậy thì bạn sẽ làm gì? Làm thế nào bạn kết thúc sự phân chia của năng lượng?

A: Tôi sẽ không nói làm thế nào, bởi vì chính hành động đó là một qui trình trở thành.

Krishnamurti: Vậy thì bạn sẽ làm gì? Làm thế nào những người chuyên nghiệp, những người truyền thống, tiếp cận vấn đề này – vấn đề của vô số dạng năng lượng đang mâu thuẫn lẫn nhau và một dạng năng lượng đang đảm đương sự độc tài đối với phần còn lại, đang cố gắng kiểm soát, kiềm chế? Liệu việc này xảy ra bằng cách giới thiệu ‘cái tôi’?

A: Nó là shunyata, sự trống không. Vì đã loại bỏ, đây là một trống không. Trong trống không là mọi thứ. Anh đến cái này một cách tự nhiên?

Krishnamurti: Những người chuyên nghiệp nói gì?

A: Sankara nói: ‘Thâu lượm học hànhthanh danh theo cùng nó, vậy thì cái gì? Thâu lượm của cải và quyền hành theo cùng nó, vậy thì cái gì? Viếng thăm nhiều quốc gia, nuôi ăn và khoản đãi những bạn bè của bạn, giúp đỡ những người nghèo khổ và người bệnh tật, tắm trong dòng sông Hằng, bố thí vô lượng, lặp lại hàng triệu lần những câu kinh kệthần chú, vân vân, vậy thì cái gì? Tất cả việc này không lợi ích gì cả nếu ‘cái tôi’ không được nhận ra.

 Và Sankara kết luận bằng cách nói rằng, chỉ cái người mà khám phá được rằng tất cả những hình thức của hành động đem lại thanh danh này tước đoạt sự quan trọng của hiểu rõ về chính mình, chính cái người ấy có thể tự-nhận ra.

Krishnamurti: Tôi không thể tưởng tượng được rằng nghi vấn này đã không được giải đáp bởi những người chuyên môn.

A: Họ gọi nó là chitta và chaitanya. Từ ngữ chung của ‘gốc rễ’ là chit ‘mầm’.

N: ‘Chit’ mầm là ý thức.

A: Họ thâm nhập bản chất phân chia của cái trí hay họ nói rằng những hoạt động của cái trí là không thật?

Krishnamurti: Vì vậy, nghi vấn là gì, chúng ta đang cố gắng bàn luận, thâm nhập điều gì?

A: Chúng ta chỉ biết những diễn tả bị phân chia khác nhau của năng lượng. Liệu có thể thấy tổng thể cánh đồng? Hay nó là một nghi vấn sai lầm?

Krishnamurti: Nếu một mảnh hay nhiều mảnh tồn tại, ai là thực thể mà sẽ quan sát tổng thể của năng lượng? Những cái trí của chúng ta không bị quy định quá nặng nề đến độ chúng ta không thể tự phá vỡ chính chúng ta khỏi tình trạng bị quy định, hay sao?

A: Chúng ta quá bị quy định.

R: Ngày hôm trước tại bàn luận anh đã nói rằng một người nào đó đã sỉ nhục tôi. Tôi cảm thấy bị tổn thương, vân vân, nhưng nếu tại ngay khoảnh khắc đó sự chú ý hiện diện, vậy thì tôi không cảm thấy bị tổn thương. Không có sự ghi lại của nó. Nhưng sự kiện là, phản ứng là ngay tức khắc. Tôi phản ứng đến sự tổn thương đó ngay tức khắc. Làm thế nào sự chú ý có thể hiện diện tại ngay khoảnh khắc đó?

Krishnamurti: Vấn đề là gì? Tôi đã và đang chỉ thấy mảnh này (chỉ vào một phần của tấm thảm) và bạn nói mảnh này sẽ không tồn tại nếu không có toàn tấm thảm. Có một phần tí ti của tấm thảm này mà là bộ phận của toàn tấm thảm. Tôi đang nói trong mảnh này có nhiều mảnh khác. Toàn sống của tôi đã được dùng trong quan sát mảnh. Bạn đến và nói đây là bộ phận của tổng thể, cái này sẽ không tồn tại nếu cái còn lại không tồn tại. Nhưng tôi không thể nhấc hai mắt của tôi khỏi cái này. Tôi đồng ý rằng mảnh này chỉ có thể tồn tại bởi toàn tấm thảm nhưng tôi không bao giờ, không bao giờ nhìn ngắm toàn tấm thảm. Tôi không bao giờ chuyển động khỏi mảnh này. Mảnh này tồn tại do bởi toàn tấm thảm. Chú ý của tôi đã bị cố định vào cái mảnh tí ti của tấm thảm. Và tôi không biết làm thế nào để nhấc hai mắt của tôi lên và nhìn ngắm toàn tấm thảm. Nếu tôi có thể làm điều đó, không có mâu thuẫn. Nếu tôi có thể nhấc hai mắt của tôi lên và nhìn ngắm toàn tấm thảm, tôi thấy không có sự mâu thuẫn, không có sự phân hai. Nhưng nếu tôi nói tôi phải kiềm chế cái mảnh với mục đích để thấy tổng thể, có sự phân hai.

R: Thuộc trí năng điều đó rõ ràng.

Krishnamurti: Nó là một ví dụ rất tốt. Vậy thì bạn làm gì? Mảnh trí năng cũng là một bộ phận. Nó là một trong những mảnh bên trong tấm thảm. Tôi vẫn còn không đang nhìn ngắm tấm thảm. Nếu trí năng thấy, sự nhận biết lại quay trở về mảnh.

 Trước hết, thuộc trí năng tôi phải hiểu rõ điều gì đang được nói. Đây là bộ phận của tổng thể. Và chừng nào sự nhận biết còn được tập trung vào mảnh, không có sự nhận biết của tổng thể tấm thảm. Bạn nói tôi hiểu rõ điều này theo trí năng. Thế là, bạn đã chuyển động ra khỏi rồi. Bạn cũng thấy mảnh trí năng đó là một mảnh. Bạn đang nhìn ngắm tổng thể bằng những phần khác biệt.

R: Cái gì đang nhìn cũng là một mảnh.

Krishnamurti: Vì vậy, phủ nhận ‘mảnh’. (Ngừng)

 Bạn thấy, chúng ta quen đọc trong những hàng thẳng. Vì vậy, chúng ta luôn luôn suy nghĩ trong những hàng thẳng. Nếu chúng ta quen đọc, giống như người Trung quốc, theo hàng dọc, vậy thì toàn suy nghĩ của chúng ta theo hàng dọc. Vì vậy, chính suy nghĩ là một suy nghĩ theo hàng thẳng. Tất cả điều đó là một hình thức của sự phân chia. Vậy thì, câu hỏi là gì? Hãy nghĩ ra câu hỏi của bạn. (Ngừng)

 Liệu có một nhận biết không theo hàng thẳng cũng không theo hàng dọc, và, vì vậy, không-phân chia?

 Làm thế nào bạn thấy cái gì đó một cách tổng thể? Khả năng của sự nhận biết mà thấy tổng thể toàn cấu trúc thuộc sống của con người, tổng thể cánh đồng, tại một thoáng nhìn là gì?

 Tôi nghĩ tôi thấy cái gì đó.

 Hãy quan sát, có toàn cánh đồng của sống, sự tồn tại vật chất, cảm xúc, trí năng, hệ thần kinh thân thể; và trong đó có vô số những mâu thuẫn – những đau khổ, những lo âu, những tội lỗi, những tham vọng, khiêm tốn, kiêu ngạo, tình dục, không-tình dục, Thượng đế, không-Thượng đế, cộng sản – đây là toàn cánh đồng của sự tồn tại. Lúc này làm thế nào cái trí thấy tổng thể của cánh đồng này? Nếu nó không thấy tổng thể cánh đồng, nhưng chỉ giải quyết một xó xỉnh, nó sẽ tạo ra nhiều ma mãnh hơn.

A: Nó đến mấu chốt này, toàn tiến trình này, bảy mươi lăm ngàn năm của lịch sử loài người, toàn quá khứ sản sinh cái này và chết. Đây là ‘cái gì là’, không có việc quay trở lại. Nhưng thậm chí mấu chốt này phải đến được mà không có bất kỳ chuyển động nào.

Krishnamurti: Trước tiên hãy lắng nghe. Có toàn cánh đồng của sự tồn tại này, tất cả điều đó chúng ta đã diễn tả. Cũng có những nhân tố khác. Lúc này, làm thế nào tôi nhìn toàn cái bản đồ này cùng tất cả những cây cầu, những ngôi làng, những thị trấn nhỏ xíu, tất cả đó tại một thoáng nhìn? Tôi không thể bay lên trong một chiếc máy bay. Đại Ngã là chiếc máy bay được sáng chế bởi sự suy nghĩ.

 Bạn đến và bảo tôi, nhìn kìa, nếu bạn cố gắng giải đáp tổng thể của sự tồn tại dựa vào một trong những mảnh, bạn sẽ chỉ tạo ra nhiều hỗn loạn thêm nữa. Vì vậy bạn nói, tổng thể của nó. Bạn nói điều đó và biến mất. Chính công việc của tôi là phải tìm ra. Làm thế nào tôi khởi sự nó? Tôi không biết sự nhận biết tổng thể này là gì. Tôi thấy vẻ đẹp, sự chính đáng, sự thông minh của nó. Tôi nói, làm thế nào tôi thâm nhập nó?

A: Có sự mãnh liệt, sự đam mê vô cùng trong mấu chốt này bởi vì tôi cũng cảm thấy mấu chốt này là bờ của một vực thẳm. Không còn trạng thái lờ đờ nào cả. Tất cả đều ở đó tại khoảnh khắc này.

Krishnamurti: Bạn có mấu chốt này, đứa bé này được bỏ lại đang ngồi trên đùi của bạn. Bạn sẽ làm gì đây? Bạn phải trả lời. Điều gì ngăn cản sự nhận biết tổng thể?

A: Theo trí năng tôi hiểu rằng tôi không thể thấy tổng thể của nó.

Krishnamurti: Hãy để nó lại ở đó. Điều gì ngăn cản sự nhận biết tổng thể của sự tồn tại phức tạp, rộng lớn này? Liệu bạn có một đáp án? Tôi đã nắm được nó. Hãy tìm ra. (Ngừng)

 Khi tôi vào phòng, một vật cuốn hút hai mắt của tôi. Miếng khăn trải giường đẹp, và tình cờ tôi nhìn những vật khác. Tôi nói miếng khăn trải giường đẹp quá, màu sắc, trang trí, và nó cho tôi sự hài lòng vô cùng.

 Vì vậy, điều gì đã xảy ra? Có toàn cánh đồng của sự tồn tại. Hai mắt bị cuốn hút bởi duy nhất một vật. Điều gì ngăn cản thấy được những vật khác; điều gì khiến cho những vật khác lờ mờ, không rõ rệt? Chỉ lắng nghe.

R: Người quan sát.

Krishnamurti: Hãy theo chầm chậm. Miếng khăn trải giường rất đẹp nhưng sự quan sát của tôi về những vật khác vẫn còn mờ mờ. Vật này rõ ràng. Nó nhìn ngắm vật này rất rõ ràng. Những vật khác không rõ ràng.

 Lúc này, trong cánh đồng rộng lớn của sự tồn tại, tôi bị cuốn hút bởi một phần và những phần còn lại trở nên rất mơ hồ. Tại sao một phần trở thành quan trọng? Hay tại sao sự nhận biết đã tập trung vào phần đó? Tại sao hai mắt, tại sao sự nhận biết chỉ bị cuốn hút đến phần này?

R: Phần này gây hài lòng.

Krishnamurti: Mà có nghĩa gì? Yếu tố của vui thú. Có toàn cánh đồng này và chỉ một phần cuốn hút tôi. Vì vậy, điều gì xảy ra? Tôi diễn giải tổng thể cánh đồng của sự tồn tại thành vui thú. Tôi vào căn phòng này, tôi nhìn miếng khăn trải giường và tôi nói tôi thích nó và nó kia kìa. Và có sự tồn tại bao la này và trong nó, một việc duy nhất mà cuốn hút tôi là sự duy trì vui thú bằng bất kỳ giá nào.

A: Đối với hầu hết mọi người sống là đau khổ.

Krishnamurti: Sống là đau khổ bởi vì chúng ta đang suy nghĩ dựa vào sự vui thú. Sự vui thú là nguyên tắc, là nhân tố đang ngăn cản tôi không thấy tổng thể.

 

A: Sáng nay tôi đã thâm nhập. Sankara nói sợ hãi của đau khổ là cái gai trong bụi cây.

Kríhnamurti: Tôi thấy tổng thể cánh đồng của sự sống này chỉ dựa vào sự theo đuổi vui thú. Tôi thấy tổng thể cánh đồng này, cùng tất cả những phức tạp, dựa vào vui thú hay mong muốn vui thú. Điều đó ngăn cản sự nhận biết tổng thể?

R: Nó rất phức tạp. Đây là mảnh mà là bộ phận của tổng thể. Sau đó sự chú ý của chúng ta hướng về mảnh này. Cái gì đang trao sự chú ý là một mảnh. Cái gì đang mong muốn vui thú từ sự chú ý này là một mảnh.

Krishnamurti: Chúng ta đã trình bày tất cả điều này.

R: Vì vậy vui thú là một mảnh.

Krishnamurti: Không, không.

 Tôi muốn vui thú suốt cuộc đời. Không có cái gì khác mà tôi muốn. Tiền bạc, tình dục, vị trí, thanh danh, thượng đế, đạo đức, những ý tưởng – điều này được hiểu rõ – vui thú qua mọi thứ.

 Và tôi không thấy vui thú là cái gai. Tôi không thấy điều đó. Vì vậy, trong sự nhận biết có một nhân tố đang hướng dẫn, và nếu đó là một nhân tố đang hướng dẫn, làm thế nào tôi có thể thấy tổng thể cánh đồng mà vui thú đã tạo ra? Tôi muốn vui thú; vì vậy, tôi tạo ra một xã hội mà sẽ cho tôi vui thú. Động cơ của tôi là vui thú. Và xã hội đó có luân lý của nó, và luân lý đó luôn luôn được đặt nền tảng trên nguyên tắc của vui thú.

 Làm thế nào cái trí có thể thấy tổng thể của cánh đồng khi chỉ có sự tìm kiếm cho vui thú? Nhân tố của vui thú là gì? Nó phải luôn luôn là riêng tư – nó phải là cái của tôi, không phải cái của bạn. Tôi sẽ hy sinh vui thú của tôi cho vui thú lớn lao hơn trong công việc tập thể, nhưng nó vẫn còn là vui thú. Vui thú luôn luôn là riêng tư.

 Vì vậy, hãy quan sát điều gì tôi đã làm, nếu như thế sống trở thành một chuyển động của vui thú.

A: Giá trị của mọi thứ là vui thú.

Krishnamurti: Vì vậy, chừng nào cái trí còn theo đuổi vui thú như ‘cái tôi’, làm thế nào tôi có thể thấy tổng thể cánh đồng này? Tôi phải hiểu rõ vui thú, không kiềm chế nó, không phủ nhận nó.

 Vì vậy, rất quan trọng phải thấy tổng thể, không phải cái riêng biệt và cái riêng biệt phải luôn luôn tồn tại khi có sự theo đuổi vui thú. Và phải có hiểu rõ vui thú, không phải cắt đứt nó bằng mảnh trí năng.

A: Nó không thể được cắt đứt.

Krishnamurti: Điều gì con người đã làm, điều gì những tôn giáo đã dạy bảo là cắt đứt bằng mảnh trí năng. Điều gì hành hạ những vị thánh phải trải qua, gây đau đớn, tra tấn thân thểtinh thần. Đó là phương cách truyền thống.

 Vì vậy, tôi thấy nhân tố trung tâm rằng khi một sự việc trở thành quan trọng nhất, lúc đó tôi không thấy tổng thể của sống. Tại sao có sự theo đuổi vui thú này?

A: Nguyên tắc vui thú quá mạnh mẽ.

Krishnamurti: Điều gì những người chuyên nghiệp nói về sự theo đuổi vui thú này?

A: Họ nói rằng mọi vui thú đều dẫn đến đau khổ; con người suy ngẫm về đau khổ nhưng suy ngẫm đó vẫn còn dẫn đến sự phân chia. Tập trung vào đau khổ thay vì vào vui thú là cùng sự việc.

Krishnamurti: Tại sao con người đã theo đuổi vui thú bằng bất kỳ giá nào?

A: Những nhu cầu thuộc sinh lý đã bám rễ quá sâu trong chúng ta.

Krishnamurti: Không có gì sai lầm trong đó – chúng ta cần thức ăn bổ dưỡng, sạch sẽ. Có gì sai lầm với điều đó? Một sàn nhà sạch để ngủ trên đó, có gì sai lầm? Nhưng hãy thấy việc gì xảy ra – tôi phải có nó ngày mai. Điều đó có nghĩa nhu cầu sinh lý của ngày hôm nay đã được biến thành sự vui thú của ngày mai; mà là, suy nghĩ đã đảm dương. Vì vậy suy nghĩ là nhân tố mà người ta phải hiểu rõ, không phải sự vui thú.

A: Chúng ta đã đến mấu chốt thấy rằng vui thú đó được chuyển động trong sự suy nghĩ.

Krishnamurti: Lúc này, bạn đã nắm được nó.

 Vì vậy trước khi bạn làm bất kỳ việc gì với vui thú, hãy hiểu rõ sự suy nghĩ. Trước khi bạn củng cố vui thú, trước khi bạn bồi bổ nó, đầu tiên hãy tìm ra sự suy nghĩ là gì.

A: Chuyển động của sự suy nghĩ như vui thú phải được hiểu rõ.

Krishnamurti: Không. Chính sự suy nghĩ duy trì điều này. Tôi sẽ làm gì với sự suy nghĩ? Làm thế nào tôi chấm dứt được sự suy nghĩ về tình dục hay thức ăn, làm thế nào?

A: Chúng ta bắt đầu bằng năng lượng. Tại mấu chốt này nó trở thành bị phân chia.

Krishnamurti: Trong bản thể sự suy nghĩ là vật tạo tác của những mảnh. Truyền thống đã luôn luôn nói về sự kiềm chế suy nghĩ. Hãy hành động và quên nó hoàn toàn và đừng chuyển nó qua. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12575)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14158)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10907)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10576)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11244)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12047)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13209)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13700)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33722)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11389)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12984)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13107)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11681)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17943)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11489)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11913)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11563)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19028)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12607)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11392)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13206)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15836)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11877)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11749)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12844)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12703)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14012)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13030)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12991)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13345)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12825)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12747)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11801)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11779)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12398)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12445)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19893)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12026)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12049)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12724)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15128)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16193)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12946)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12295)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11971)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13217)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16562)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13277)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12564)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11904)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19917)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11210)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11319)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10455)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11150)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11016)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10072)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11789)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant