Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 11 – Vẻ đẹp và Sự Nhận biết

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9917)
Đối thoại 11 – Vẻ đẹp và Sự Nhận biết

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 11

VẺ ĐẸP VÀ SỰ NHẬN BIẾT

New Delhi, ngày 29 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Đâu là nơi nghỉ ngơi của vẻ đẹp. Nó trú ngụ ở đâu? Dĩ nhiên, những thể hiện phía bên ngoài của vẻ đẹp có thể quan sát được; sự tương quan đúng đắn giữa không gian, hình dạng và màu sắc và giữa những con người. Nhưng bản thể của vẻ đẹp là gì? Trong những quyển sách Sanscrit ba nhân tố được cân bằng – Sự thật, Tốt lành, Vẻ đẹp – Satyam, Sivam, Sundaram.

Krishnamurti: Bạn đang cố gắng tìm được cái gì? Bạn muốn tìm được bản chất của vẻ đẹp? Những người chuyên nghiệp nói gì?

P: Những người truyền thống thường nói – Satyam, Sivam, Sundaram. Những nghệ sĩ ngày nay sẽ không phân biệt giữa điều gì có vẻ xấu xí và điều gì có vẻ đẹp đẽ, nhưng sẽ coi hành động sáng tạo như sự diễn tả của một khoảnh khắc, của một nhận biết được thay đổi phía bên trong cá thể và tìm được sự diễn tả trong hành động của người nghệ sĩ.

Krishnamurti: Bạn đang hỏi vẻ đẹp là gì, sự diễn tả của vẻ đẹp là gì, và làm thế nào một cá thể tự thành tựu chính anh ấy qua vẻ đẹp. Vẻ đẹp là gì? Nếu bạn bắt đầu như thể bạn không biết gì về nó, phản ứng của bạn sẽ là gì? Đây là một vấn đề chung đối với những người Hy lạp, những người La mã và những người hiện đại. Vì vậy, vẻ đẹp là gì? Nó ở trong cảnh mặt trời lặn, trong một buổi sáng dễ thương, trong sự liên hệ của con người, trong người mẹ và người con, người chồng và người vợ, người đàn ông và người phụ nữ? Nó ở trong vẻ đẹp của một chuyển động tinh tế lạ thường của sự suy nghĩ và vẻ đẹp của sự nhận biết rõ ràng? Đó là điều gì bạn gọi là vẻ đẹp?

P: Liệu có thể có vẻ đẹp trong những khủng khiếp, những xấu xa?

Krishnamurti: Trong sát nhân, trong giết chóc, trong ném bom, trong bạo lực, trong tàn sát, tra tấn, tức giận, trong sự theo đuổi hung hăng, bạo lực, tàn nhẫn của một ý tưởng, trong muốn quan trọng hơn người nào đó – có vẻ đẹp trong đó?

P: Trong tất cả những hành động này không có vẻ đẹp.

Krishanmurti: Vẻ đẹp là gì nếu một người đánh một người khác?

P: Trong hành động sáng tạo của nghệ sĩ mà diễn tả những điều khủng khiếp, giống như bức tranh Guernica của Picasso, có vẻ đẹp?

Krishnamurti: Vì vậy chúng ta phải hỏi sự diễn tả là gì, sự sáng tạo là gì? Bạn đang hỏi vẻ đẹp là gì? Nó nằm trong cảnh hoàng hôn, trong ánh sáng rõ ràng của buổi sáng, buổi chiều, ánh sáng trên mặt nước, sự liên hệvân vân. Và liệu vẻ đẹp nằm trong bất kỳ hình thức nào của bạo lực; gồm cả những thành tựu ganh đua? Liệu có vẻ đẹp thuộc bản chất trong chính nó: và không phải trong cách người nghệ sĩ tự diễn tả về chính anh ấy? Một đứa trẻ bị hành hạ có thể được diễn tả bởi người nghệ sĩ, nhưng liệu nó là vẻ đẹp?

P: Vẻ đẹp là một điều tương đối.

Krishnamurti: ‘Cái tôi’ mà thấy là tương đối, bị quy định và đang đòi hỏi tự-thành tựu.

 Trước hết, vẻ đẹp là gì? Nó là sự thưởng thức giỏi? Hay vẻ đẹp không liên quan gì đến tất cả điều này? Vẻ đẹp nằm trong sự diễn tả và thế là sự thành tựu. Vì vậy người nghệ sĩ nói tôi phải tự thành tựu qua sự diễn tả. Người nghệ sĩ sẽ bị mất hút nếu không có sự diễn tả mà là bộ phận của vẻ đẹp và tự-thành tựu.

 Vì vậy trước khi chúng ta thâm nhập tất cả điều đó, trạng thái phía bên trong, sự cảm thấy, sự tinh tế của từ ngữ ‘vẻ đẹp’ là gì, để cho vẻ đẹp là sự thậtsự thật là vẻ đẹp?

 Trong chừng mực nào đó, qua sự diễn tả chúng ta cố gắng tìm ra vẻ đẹp trong kiến trúc, trong một cây cầu tuyệt vời – cầu San Francisco Golden Bridge hay cầu trên con sông Seine – trong những cao ốc hiện đại bằng kính và thép và vẻ thanh thanh của một vòi nước. Chúng ta tìm kiếm vẻ đẹp trong những viện bảo tàng, trong một bản nhạc giao hưởng. Chúng ta luôn luôn đang tìm kiếm vẻ đẹp trong sự diễn tả của những người khác. Điều gì sai lầm trong một con người đang tìm kiếm vẻ đẹp?

P: Những diễn tả của những người khác là những cái nguồn duy nhất của vẻ đẹp mà sẵn có cho chúng ta.

Krishnamurti: Mà có nghĩa gì?

P: Trong thấy cây cầu, một chất lượng nào đó nảy sinh trong tôi mà chúng ta gọi là vẻ đẹp. Chỉ trong sự nhận biết được cái gì đó đẹp đẽ mà chất lượng của vẻ đẹp mới nảy sinh trong nhiều cá thể.

Krishnamurti: Tôi hiểu điều đó. Tôi đang hỏi, liệu vẻ đẹp ở trong tự-diễn tả?

P: Người ta phải bắt đầu từ cái gì tồn tại.

Krishnamurti: Mà là sự diễn tả của những người khác. Bởi vì không có mắt nhận biết, cảm giác lạ thường phía bên trong của vẻ đẹp, tôi nói bức tranh đó, bài thơ đó, bản nhạc giao hưởng đó tuyệt vời làm sao. Gạt đi tất cả điều đó, cá thể không biết được vẻ đẹp. Vì vậy sự thưởng thức vẻ đẹp của anh ấy phải phụ thuộc sự diễn tả về sự vật, về một cây cầu hay một chiếc ghế đẹp.

 Liệu vẻ đẹp cần sự diễn tả, đặc biệt sự tự-diễn tả?

P: Liệu nó hiện diện độc lập khỏi sự diễn tả?

Krishnamurti: Nhận biết được vẻ đẹp là sự diễn tả của nó; hai cái này không tách rời. Nhận biết, đang thấy, đang hành động – đang nhận biết là đang diễn tả, Trong đó không có khoảng ngừng gì cả. Đang thấy là đang làm, đang hành động. Không có khoảng trống giữa đang thấy và đang làm.

 Tôi muốn hiểu rõ cái trí mà thấy, nơi đang thấy là đang hành động; tôi muốn quan sát bản chất của cái trí mà có chất lượng của đang thấy và đang hành động này. Cái trí này là gì?

 Tại cốt lõi, nó không quan tâm đến sự diễn tả. Sự diễn tả có lẽ xuất hiện nhưng nó không quan tâm. Bởi vì sự diễn tả cần đến thời gian – xây một cây cầu, viết một bài thơ – nhưng cái trí mà thấy, cái trí mà đang nhận biết là đang hành động, đối với một cái trí như thế không có thời gian, và một cái trí như thế là một cái trí nhạy cảm.

 Một cái trí như thế là cái trí thông minh nhất. Và nếu khôngthông minh đó, liệu có vẻ đẹp?

P: Vị trí của quả tim trong cái trí này là gì?

Krishnamurti: Bạn có ý, sự cảm thấy của tình yêu?

P: Từ ngữ ‘tình yêu’ là một từ ngữ bị định hướng. Nếu anh yên lặng, có một cảm giác lạ thường; một chuyển động xảy ra từ khu vực của quả tim này. Đây là gì? Đây là cần thiết hay nó là một cản trở?

Krishnamurti: Đây là phần cốt lõi nhất của nó. Không có sự nhận biết nếu không có điều đó. Sự nhận biết thuần túy thuộc trí năng không là sự nhận biết. Hành động của sự nhận biết thuần túy thuộc trí năngphân chia, trái lại thông minh hàm ý tình yêu, quả tim. Ngược lại bạn không nhạy cảm. Bạn không thể nhận biết. Nhận biết là hành động.

 Nhận biết, hành động mà không có thời gian là vẻ đẹp.

P: Hai mắt, quả tim, liệu chúng vận hành tại cùng thời điểm trong hành động của sự nhận biết?

Krishnamurti: Sự nhận biết hàm ý chú ý trọn vẹn – những dây thần kinh, hai tai, bộ não, quả tim, mọi thứ, tại chất lượng tột đỉnh. Ngược lại, không có sự nhận biết.

P: Chất lượng, bản chất phân chia của hành động thuộc giác quan là rằng, toàn cơ quan thân thể không vận hành tại cùng thời điểm.

Krishnamurti: Toàn cơ quan – bộ não, quả tim, những dây thần kinh, hai mắt, hai tai, không bao giờ trọn vẹn trong chú ý. Nếu chúng không trọn vẹn, bạn không thể nhận biết.

 Vì vậy vẻ đẹp là gì? Nó nằm trong sự diễn tả, trong hành động phân chia? Tôi có lẽ là một nghệ sĩ, một kỹ sư, một thi sĩ. Người thi sĩ, người kỹ sư, người nghệ sĩ, người khoa học, là những con người phân chia. Một mảnh trở nên nhận biết, nhạy cảm lạ thường và hành động của nó có lẽ diễn tả cái gì đó tuyệt vời, nhưng nó vẫn còn là một hành động phân chia.

P: Khi các cơ quan nhận biết bạo lực, kinh hãi hay xấu xa, trạng thái đó là gì?

Krishnamurti: Chúng ta hãy sử dụng từ ngữ bạo lực trong vô số hình thức khác nhau của nó, nhưng tại sao bạn đang đặt ra câu hỏi đó?

P: Nó cần thiết để thâm nhập điều này.

Krishnamurti: Liệu bạo lực là bộ phận của vẻ đẹp, đó là điều gì bạn đang hỏi?

P: Tôi sẽ không trình bày theo cách đó.

Krishnamurti: Bạn thấy bạo lực. Sự phản ứng của một cái trí nhận biết trong ý nghĩachúng ta đang sử dụng từ ngữ ‘nhận biết’ đối với mọi hình thức của hủy diệt, mà là bộ phận của bạo lực, là gì? (Ngừng).

 Tôi đã nắm được nó. Liệu bạo lực là một hành động mà nhận biết trọn vẹn, hay nó là một hành động phân chia?

P: Nó không rõ ràng. Nó không là điều đó.

Krishnamurti: Bạn giới thiệu bạo lực. Tôi muốn thâm nhập bạo lực. Liệu bạo lực là một hành động của một nhận biết hòa hợp trọn vẹn?

P: Không.

Krishnamurti: Vậy là bạn đang nói nó là một hành động phân chia và, hành động phân chia phải phủ nhận vẻ đẹp.

P: Anh đã đảo ngược tình huống.

Krishnamurti: Sự phản ứng của cái trí nhận biết là gì khi nó thấy bạo lực? Nó nhìn ngắm bạo lực, thâm nhập nó và thấy nó như một hành động phân chia, và vì vậy nó không là một hành động của vẻ đẹp. Điều gì xảy ra cho một cái trí nhận biết khi nó thấy một hành động bạo lực? Nó thấy ‘cái gì là’.

P: Được hiểu theo nghĩa thông thường, đối với anh bản chất của cái trí không thay đổi?

Krishnamurti: Tại sao nó phải thay đổi? Nó thấy ‘cái gì là’. Thâm nhập một bước sâu thẳm thêm.

P: Đang thấy ‘cái gì là’, liệu nó thay đổi bản chất của ‘cái gì là’? Có đang nhận biết. Có bạo lực mà là phân chia. Nhận biết điều đó, liệu nó thay đổi bản chất của bạo lực?

Krishnamurti: Chờ một chút. Bạn đang hỏi, ảnh hưởng của cái trí nhận biết khi nó quan sát bạo lực là gì?

P: Anh đã nói nó thấy ‘cái gì là’. Liệu nó thay đổi ‘cái gì là’? Cái trí nhận biết, đang quan sát bạo lực và đang thấy ‘cái gì là’, chính hành động của đang thấy, liệu nó hành động vào bạo lực, thay đổi bản chất của bạo lực?

Krishnamurti: Có phải bạn đang hỏi, liệu cái trí nhận biết đang thấy hành động của bạo lực, của ‘cái gì là’ hỏi, tôi sẽ làm gì? Liệu đó là câu hỏi?

P: Một cái trí như thế không làm, nhưng phải có hành động từ cái trí nhận biết đang thay đổi bản chất hành động của bạo lực.

Krishnamurti: Cái trí nhận biết thấy một hành động bạo lực. Một hành động như thế là phân chia. Bằng cái trí nhận biết, hành động gì có thể có?

P: Cái trí nhận biết thấy bạo lực về phần của X. Đang thấy là đang hành động.

Krishnamurti: Nhưng nó có thể làm gì?

P: Tôi muốn nói nếu cái trí nhận biết hành động, nó phải thay đổi bạo lực trong X.

Krishnamurti: Chúng ta hãy rõ ràng điều này. Cái trí nhận biết thấy một người khác đang hành động một cách bạo lực. Đối với cái trí nhận biết, chính đang thấy là đang làm. Đó là một sự kiện. Nhận biết là đang làm. Cái trí nhận biết này thấy X trong bạo lực. Hành động được bao hàm trong thấy đó là gì – kết thúc bạo lực?

P: Tất cả những việc đó là những hành động thuộc ngoại vi. Tôi đang nói rằng khi một cái trí nhận biết đối diện với một hành động của bạo lực, chính hành động của nhận biết sẽ thay đổi hành động của bạo lực.

Krishnamurti: Có nhiều sự việc được bao hàm. Cái trí nhận biết khi nó đang dạo bộ, thấy một hành động của bạo lực. Người đang hành động một cách bạo lực có lẽ phản ứng một cách không-bạo lực, bởi vì cái trí nhận biết ở gần anh ấy, sát cạnh anh ấy, và bỗng nhiên việc này xảy ra.

P: Người ta đến với anh bằng một vấn đề – ghen tuông. Điều gì xảy ra với anh trong một phỏng vấn khi một người đến với anh mà bị hoang mang?

 Trong chính hành động của nhận biết, sự hoang mang không còn.

Krishnamurti: Chắc chắn nó xảy ra bởi vì sự hiệp thông. Bạn đã cố gắng bàn luận về bạo lực và việc gì đó xảy ra bởi vì đang cùng nhau chia sẻ trực tiếp về vấn đề. Có sự chuyển tải, chia sẻ. Điều đó đơn giản. Bạn thấy một con người ở đằng xa đang hành động một cách bạo lực. Hành động của cái trí nhận biết ở đó là gì?

P: Phải có năng lượng lạ thường từ một cái trí nhận biết. Phải có hành động nào đó.

Krishnamurti: Nó có lẽ hành động. Bạn không thể chắc chắn về điều đó bởi vì bạn có thể là trạng thái gần gũi. Người còn lại có lẽ thức giấc vào nửa đêm, anh ấy có lẽ nhận biết được cái phản ứng lạ lùng đến sau đó, phụ thuộc vào sự nhạy cảm của anh ấy. Có lẽ do bởi cái trí nhận biết và ảnh hưởng của nó, ngược lại sự chuyển tải gần gũi này là khác hẳn. Nó có thay đổi.

 Chúng ta hãy quay lại. Bạn đang hỏi vẻ đẹp là gì. Tôi nghĩ chúng ta có thể nói, cái trí mà không phân chia trong chính nó, mà không bị vỡ vụn, có vẻ đẹp này.

P: Liệu nó có bất kỳ liên quan nào đối với sự nhận biết thuộc giác quan nếu anh bịt hai mắt của anh, hai tai của anh…

Krishnamurti: Nó độc lập khỏi việc đó. Khi bạn bịt hai mắt của bạn, hai tai của bạn, không có sự phân chiavì vậy nó có chất lượng này của vẻ đẹp, của nhạy cảm. Nó không phụ thuộc vào vẻ đẹp bên ngoài. Đặt dụng cụ của một cái trí như thế ngay giữa thành phố ồn ào nhất. Điều gì xảy ra? Thuộc thân thể nó bị ảnh hưởng nhưng không phải chất lượng của cái trí, mà không-phân chia. Nó độc lập khỏi môi trường sống, vì vậy nó không bận tâm đến sự diễn tả.

P: Đó là sự cô đơn của nó.

Krishnamurti: Vì vậy vẻ đẹp là cô đơn. Tại sao lại có sự khao khát tự-diễn tả này? Liệu sự khao khát đó là bộ phận của vẻ đẹp, liệu nó là sự khao khát của một người phụ nữ muốn có một em bé, một người chồng cho hoạt động tình dục trong khoảnh khắc của trạng thái âu yếm đó, hay người nghệ sĩ đang khao khát cho sự diễn tả?

 Liệu cái trí nhận biết đòi hỏi bất kỳ hình thức nào của sự diễn tả? Nó không cần, bởi vì đang nhận biết là đang diễn tả, đang hành động. Người nghệ sĩ, người họa sĩ, người xây dựng tìm kiếm sự tự-diễn tả. Nó là phân chiavì vậy sự diễn tả của nó không là vẻ đẹp.

 Một cái trí bị quy định, mà phân chia, diễn tả cảm thấy của vẻ đẹp đó, nhưng nó bị quy định. Đó là vẻ đẹp? Vì vậy, cái tôi mà là cái trí bị quy định, không bao giờ có thể thấy vẻ đẹp, và bất kỳ thứ gì nó diễn tả phải thuộc chất lượng của nó.

P: Anh vẫn chưa trả lời một khía cạnh của câu hỏi. Có một sự việc như là tài năng sáng tạo; khả năng sắp xếp những sự việc vào cùng nhau trong một cách mang lại hân hoan.

Krishnamurti: Người nội trợ làm bánh mì, nhưng ‘không vì mục đích’. Khoảnh khắc bạn làm vì mục đích, bạn đã bị xa rời.

P: Sáng chế hân hoan.

Krishnamurti: Không phải bởi gì cái gì khác. Người nói không ngồi trên bục gỗ và nói chuyện bởi vì ông ta được hân hoan.

 Cái nguồn của nước không bao giờ cạn. Nó luôn luôn bập bềnh, dù có sự ô nhiễm hay sự tôn trọng nước; nó đang bập bềnh, nó hiện diện ở đó.

 Hầu hết những người quan tâm đến tự-diễn tả đều có tánh tư lợi. Chính là cái tôi mới tạo ra sự phân chia. Không có cái tôi, có sự nhận biết. Sự nhận biết là đang làm và đó là vẻ đẹp.

 Tôi chắc chắn người điêu khắc mà chạm khắc Mahesha Murti tại Elephanta đã sáng tạo nó từ thiền định của anh ấy. Trước khi bạn chạm bàn tay của bạn vào một hòn đá hay viết một bài thơ, trạng thái phải trong thiền định. Sự ngẫu hứng phải không hiện diện từ cái tôi.

P: Truyền thống của điêu khắc Ấn độ là điều đó.

Krishnamurti: Và người họa sĩ vĩ đại, người họa sĩ xoàng xĩnh, người họa sĩ tầm thường đều của loại đó – của tự-diễn tả.

 Vẻ đẹp là tự-từ bỏ tổng thể và cùng sự vắng mặt hoàn toàn của cái tôi, có ‘cái đó’. Chúng ta đang cố gắng bắt gặp ‘cái đó’ mà không muốn buông bỏ cái tôi, và thế là sáng tạo trở thành một công việc phô trương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12576)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14161)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10907)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10576)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11245)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12050)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13212)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13701)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33723)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11392)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12985)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13109)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11682)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17943)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11489)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11913)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11563)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19029)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12609)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11392)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13206)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15837)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11878)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11753)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12845)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12705)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14012)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13030)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12993)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13346)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12825)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12747)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11783)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12399)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12448)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19894)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12028)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12051)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12727)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15130)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16194)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12946)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12296)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11972)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13217)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16563)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13278)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12567)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11905)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19918)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11210)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11319)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10455)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11151)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11016)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10072)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11791)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant