Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 22 – Tự do và Ngục tù

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9568)
Đối thoại 22 – Tự do và Ngục tù

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

RISHI VALLEY 1971

Đối thoại 22

TỰ DO VÀ NGỤC TÙ

Rishi Valley, ngày 24 tháng 1 năm 1971

K

rishnamurti: Tôi không biết liệu sáng nay chúng ta có thể bàn luận, sự nhận biết có nghĩa gì. Ngoại trừ điều gì những người truyền thống và những người chuyên nghiệp và những người phê bình đã giải thích, sự nhận biết có nghĩa gì? Nhận biết là gì? Liệu nó chỉ là một qui trình thuộc trí năng hay nó là sự nhận biết bằng mắt hay nó là một kết hợp của cả hai? Nó là một trạng thái thuộc thần kinh cơ thể hay nó là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn?

 Cái trí thâu nhận nhiều hơn là hai mắt thâu nhận. Vì vậy khi chúng ta nói về sự nhận biết, chúng ta có ý gì qua từ ngữ đó? Liệu nó là một nhận biết thuộc trí năng, một kết luận bằng từ ngữ, một hiểu rõ bằng từ ngữ? Liệu mắt thấy trong một kích thước dài hay thẳng?

Người hỏi B: Ở đây anh có ý mắt như một cơ quan-giác quan?

Krishnamurti: Vâng.

SW: Sự nhận biết của mắt, sự nhận biết thuộc giác quan, thuộc thị giác không như nhau hay sao? Chúng ta đến căn phòng này, tôi thấy sự thiết kế của tấm thảm. Chẳng mấy chốc tôi đang thấy và không đang thấy. Mắt vật chất cũng không thấy tất cả trong một trạng thái đồng nhất. Phải có một nhân tố nào đó khác hơn sự tiếp xúc của sự vật và những giác quan trong sự nhận biết được ‘Tôi thấy’. Sự nhận biết đầu tiên của không-chú ý đến với tôi theo cách đó.

Krishnamurti: Tôi vẫn chưa đến mấu chốt đó. Tôi đang cố gắng hiểu rõ, từ ngữ sự nhận biết đó chuyển tải điều gì. Tôi không đang nói về chú ý và không chú ý. Tất cả mọi điều tôi biết là rằng tôi thấy. Có sự nhận biết bằng thị giác. Có sự nhận biết bằng giác quan. Tôi thấy bạn đang ngồi ở đó. Vì vậy, có hình ảnh đó mà sự nhận biết thuộc giác quan và khả năng thuộc trí năng của sự suy nghĩ bám chặt. Đó là điều gì thông thường chúng ta gọi là sự nhận biết, đúng chứ?

A: Nghĩa lý của từ ngữ ‘sự nhận biết’ là gì?

Krishnamurti: Nhận biết: không-chú ý hay chú ý chen vào việc này ở đâu?

A: Tôi thấy một vật. Sau đó có một hình ảnh của vật đó. Sau đó có ký ức của hình ảnh đó. Thế là tôi thấy cái gì khác và lại nữa toàn qui trình bắt đầu.

Krishnamurti: Tất cả những ấn tượng thuộc giác quan, những ấn tượng được ghi lại, tầng ý thức bên ngoài và tầng ý thức bên trong, vô số những hình ảnh, những kết luận, những thành kiến, tất cả điều đó được bao hàm trong sự nhận biết.

 Hãy quan sát, có sự nhận biết bằng giác quan và những hình ảnh khác nhau mà sự nhận biết, sự liên tưởng, những thành kiến, đã dựng lên. Và tôi thấy bạn và tôi có một chuỗi những hình ảnh khác, và vì vậy hàng ngàn và hàng ngàn hình ảnh được ghi lại, được thâu băng và được giữ lại trong những tế bào não. Và khi tôi gặp bạn tôi bật lên sự chú ý và những hình ảnh trỗi dậy. Đây là điều gì chúng ta gọi là sự nhận biết, đúng chứ? Đây là bộ máy mà vận hành trong từ ngữ ‘sự nhận biết’, đúng chứ? Đây là qui trình vận hành thông thường của sự nhận biết. Tôi muốn thấy. Đó là tất cả mọi điều tôi biết. Nơi nào sự rắc rối bắt đầu? Lúc này, có gì sai lầm với nó?

A: Nhân tố của nhạy cảmvô số những mức độ đang thay đổi của nhạy cảm, chúng không là yếu tố năng động trong sự nhận biết hay sao? Sự nhận biết của tôi về khu nhà tồi tàn khác biệt với sự nhận biết của anh. Liệu anh có thể tách rời sự nhận biết khỏi những mức độ của sự nhạy cảm? Sự nhận biết không là giống hệt đối với anh và tôi.

Krishnamurti: Khi tôi có tất cả những hình ảnh được tích lũy này, có ý thức hay không ý thức, cái trí của tôi chất đầy chúng. Nơi chỗ nào cho tánh nhạy cảm?

A: Sự nhận biết không là một hành động thụ động của ký ức. Luôn luôn có cái gì đó mới mẻ hiện diện ở đó cùng mỗi nhận biết mới mẻ. Cùng mỗi phản ứng mới mẻ, mà tôi gọi là sự nhận biết, nhân tố của mức độ là cố hữu. Tôi không hiểu rõ tại sao và từ nơi nào mức độ đó bắt đầu, bởi vì sự dốt nát là không thể lường được.

B: Thậm chí thấy này giống như một máy ảnh; nó thấy những màn trập của nó, không phải là sự vật.

A: Tôi nhìn qua ý tưởng; vậy là không có sự nhận biết.

Krishnamurti: Cái trí mà bị chất đầy những ý tưởng và thông tin của vật, thấy. Cái trí, bộ não, toàn cấu trúc không bao giờ trống không? Nó đầy nghẹt và qua gánh nặng này nó nhìn. Nó nhìn bạn bằng những liên tưởng của nó, bằng ganh tị, vui thú, đau khổ. Có gì sai lầm với điều đó?

R: Tôi không bao giờ đối diện trực tiếp. Tôi thấy có sự nhận biết thuộc giác quan, rồi thì những hình ảnh, rồi thì ưa thích, không ưa thích; đó cũng là những sự kiện. Chúng là những sự kiện mà tôi không nhận ra.

Krishnamurti: Chúng là những sự kiện, giống hệt như sự kiện rằng bạn đang ngồi đây. Vậy thì điều gì xảy ra? Mỗi lần tôi thấy bạn qua một bức màn. Có gì sai lầm với điều đó? Nó không là một tiến hành tự nhiên?

SW: Trong trạng thái đó tôi không thấy gì cả.

Krishnamurti: Trước hết tôi muốn rõ ràng về điều này. Có hàng ngàn ấn tượng, hàng ngàn nhận biết thuộc giác quan, hàng ngàn kết luậnchúng ta hãy sử dụng từ ngữ ‘những kết luận’ để bao gồm toàn bộ những điều đó. Qua những kết luận này tôi nhìn, và do bởi đang nhìn qua những kết luận này, chúng làm cho dày đặc hay trở nên mờ mờ; chúng không bao giờ biến mất. Mỗi nhận biết thuộc giác quan nối tiếp làm dày đặc cùng sự nhận biết. Đây là qui trình luôn luôn đang xảy ra, suốt sống.

 Vì vậy, tạo tác-hình ảnh và kết luận là thuộc quá khứ. Sự nhận biết là ngay tức khắc. Sự nhận biết thuộc giác quan là ngay tức khắc và sự kết luận trở thành quá khứ. Thế là, tôi đang nhìn ngắm bạn qua hai mắt của quá khứ. Đó là điều gì chúng ta đang làm. Đó là một sự kiện. Có gì sai lầm với nó, thưa bạn? Tại sao tôi không nên nhìn bạn theo cách đó? Điều gì đã bắt đầu bằng sự nhận biết không là sự nhận biết gì cả. Tuy nhiên đừng chỉ trích nó. Đó là điều gì chúng ta luôn luôn đang làm. Tôi muốn được bảo đảm trước khi chúng ta thâm nhập sâu thêm nữa. Hãy theo chầm chậm. Vì vậy, tất cả nhận biết bằng mắt được diễn giải dựa vào những kết luận. Lúc này, điều gì xảy ra? Đó là một sự kiện mà tất cả chúng ta đều biết. Đó là truyền thống, phải không? Đó là trải nghiệm. Trải nghiệm, hiểu biết, truyền thống, tất cả điều đó được chứa đựng trong từ ngữ ‘quá khứ’ và từ ngữ ‘kết luận’; và đó là cấu trúc và bản chất của những tế bào não. Những tế bào não là quá khứ: chúng giữ lại ký ức của quá khứ bởi vì trong đó có sự an toàn – trong những qui trình thuộc sinh học cũng như trong những tích lũy thuộc tâm lý – trong đó có sự an toàn vô cùng.

SW: Làm thế nào có được sự an toàn? Liệu tôi thực sự được an toàn?

Krishnamurti: Đừng vội vàng hỏi nó. Hãy quan sát nó. Ngược lại bạn sẽ không biết danh tánh của bạn, bạn sẽ không biết đi đến Bangalore như thế nào, nhận ra người chồng hay người vợ của bạn. Trong truyền thống đó, hiểu biết, trải nghiệm, những kết luận, không có gì mới mẻ, vì vậy không có gì gây xáo trộn, vì vậycảm thấy của hoàn toàn an toàn. Điều đó tuyệt đối đúng.

SW: Không có gì gây xáo trộn.

Krishnamurti: Bất kỳ cái gì mới mẻ đều gây xáo trộn và bởi vì những tế bào não cần trật tự, chúng tìm được trật tự trong quá khứ.

A: Nhưng quay lại câu hỏi của anh, có gì sai lầm với điều đó?

Krishnamurti: Không có gì sai lầm trong điều đó. Tôi đang thâm nhập vào bản chất của sự nhận biết bằng giác quan, bằng thị lực, vào những vận hành của bộ não, hệ thống máy móc của sự suy nghĩ, và cái trí vận hành như thế nào; có sự an toàn trong sự nhận biết thuộc giác quan, hình ảnh, kết luận, quá khứ. Tất cả điều đó là truyền thống. Trong truyền thống có sự an toàn: trong quá khứ có sự an toàn hoàn toàn.

SW: Sự an toàn hàm ý đấu tranh.

Krishnamurti: Sự an toàn hàm ý ý thức của mong muốn không bị xáo trộn. Tôi không biết liệu bạn đã nhận ra nó: bộ não cần trật tự. Nó có lẽ thiết lập trật tự trong vô trật tự mà là loạn thần kinh. Nó cần trật tựvì vậy nó sẽ tìm trật tự trong vô trật tựtrở thành loạn thần kinh. Thấy điều này?

 Bộ não đòi hỏi trật tự bởi vì trong trật tự có sự an toàn.

SW: Điều đó hoàn toàn rõ ràng.

Krishnamurti: Trong truyền thốngtrật tự. Trong sự tiếp tụctrật tự. Bộ não đang tìm kiếm trật tự sáng chế sự an toàn, một chỗ trú ẩn nơi nó cảm thấy an toàn. Và K xuất hiện cùng những ý tưởng cách mạnggiải thích cho bạn, đây không là trật tự, và thế là có sự xung đột giữa bạn và anh ta. Bạn thâu hẹp cái mới mẻ vào cái cũ kỹ và ở đó tìm được sự an toàn, sự bảo đảm. Tại sao cái trí làm việc này? Cách mạng Nga và cách mạng Pháp đã đảo lộn toàn cấu trúc được thiết lập sẵn nhưng chẳng mấy chốc bộ não lại sáng chế trật tự từ vô trật tự, và đã có một kết thúc cho cách mạng.

A: Chúng ta đã khám phá điều gì đó – rằng khoảnh khắc tôi thấy cái gì đó mới mẻ mà tạo tác một xáo trộn, sự nhận biết là dụng cụ mà qua nó tôi chuyển cái mới mẻ thành cái cũ kỹ.

Krishnamurti: Đó là qui trình thuộc sinh học của bộ não. Nó là một cần thiết thuộc sinh học cho bộ não, bởi vì trong đó nó tìm được phương cách hiệu quả nhất để vận hành.

A: Liệu anh sẽ thâm nhập sự không khả năng cố hữu của bộ não để thấy và biến dạng cái mới mẻ? 

Krishnamurti: Hãy chờ đó, thưa bạn. Nếu tôi không thấy rằng chính những tế bào não hiểu rõ sự nguy hiểm của quá khứ, sự nguy hiểm của tìm kiếm sự an toàn trong quá khứ, những tế bào não sẽ không thấy bất kỳ cái gì đó mới mẻ. Nếu chúng thấy cái gì đó mới mẻ chúng sẽ diễn giảidựa vào cái cũ kỹ. Vì vậy, chính những tế bào não phải thấy sự nguy hiểm vô cùng của điều gì chúng nghĩ là an toàn trong quá khứ.

A: Mà có nghĩa một thay đổi toàn bộ.

Krishnamurti: Tôi không biết một việc nào cả. Tôi chỉ thấy sự nhận biết thuộc giác quan, những hình ảnh, những kết luận, sự an toàn trong những kết luận. Nó có lẽ là một kết luận mới mẻ, một kết luậntrật tự, nhưng có sự an toàn ở đó; tuy nhiên nó là loạn thần kinh, trong loạn thần kinh đó có sự an toàn.

 Hãy thấy vẻ đẹp của nó. Đây là sự thật và đó là lý do tại sao nó là vẻ đẹp. Làm thế nào bộ não đang khăng khăng đòi hỏi sự an toàn, làm thế nào bộ não đó sẽ thấy rằng trong quá khứ không có sự an toàn, nhưng luôn luôn trong cái mới mẻ?

 Những tế bào não đang tìm kiếm sự an toàn, cả trong vô trật tự lẫn trong trật tự. Nếu bạn cống hiến một hệ thống, một trật tự theo phương pháp, bộ não chấp nhận nó. Đó là toàn qui trình thuộc sinh học. Đó là toàn qui trình thuộc truyền thống – sự an toàn trong quá khứ, không bao giờ trong tương lai, không bao giờ trong hiện tại, nhưng sự an toàn tuyệt đối trong quá khứ. Tuyệt đối.

 Và đó là sự hiểu biết: hiểu biết thuộc sinh học, hiểu biết thuộc công nghệ và hiểu biết đã được thâu lượm qua trải nghiệm. Trong sự hiểu biết có sự an toànhiểu biếtquá khứ. Vì vậy câu hỏi kế tiếp là gì?

SW: Có một tiếp tục được thay đổi trong qui trình này. Điều này tạo ra một cảm thấy của tiến bộ.

Krishnamurti: Khoảnh khắc bạn có hiểu biết nó có thể được tiếp tục, được thay đổi, nhưng nó vẫn còn ở trong lãnh vực của hiểu biết; toàn sự việc ở đó. Có gì sai lầm với điều này?

SW: Tất cả mọi điều anh giải thíchsự kiện. Tuy nhiên, có một nhân tố khác. Đây không là toàn sự việc: Có cái gì đó tại cơ bản đang mong muốn trong điều này.

Krishnamurti: Cái gì đang mong muốn trong điều này? Hãy theo sát từng bước một. Đây là cấu trúc. Cái gì đó mà hoàn toàn không đúng là gì? Hãy tìm ra. Tôi sẽ chỉ nó cho bạn.

SW: Không có vĩnh cửu.

Krishnamurti: Bạn đang nói gì? Hiểu biết là sự việc vĩnh cửu nhất. Tôi thấy hiểu biếtcần thiết, và hiểu biếtquá khứ và sự suy nghĩ là phản hồi của quá khứ và vì thế cái trí luôn luôn đang sống trong quá khứ. Vì vậy cái trí luôn luôn là một tù nhân. (Ngừng)

 Một tù nhân nói về cái gì? Tự do? Tại sao bạn lại không thấy nó? Ở trong ngục tù anh ấy nói về tự do, giải thoát, niết bàn. Anh ấy biết ngục tù của anh ấy không là tự do, nhưng anh ấy muốn tự do, bởi vì trong tự dohân hoan, có vẻ đẹp, có cái gì đó đang xảy ra. Sống hiện nay của anh ấy là một tiếp tục thuộc máy móc, lặp lại. Vì vậy, anh ấy phải sáng chế một lý tưởng, anh ấy phải sáng chế một giải thoát, một thiên đàng. Cũng có sự an toàn trong tương lai. Đúng chứ? Vì vậy, anh ấy sáng chế thượng đế, anh ấy theo đuổi thượng đế, sự thật, sự khai sáng, nhưng bởi vì anh ấy sáng chế, anh ấy luôn luôn bị trói buộc vào quá khứ. Sự trói buộc này là cần thiết – thuộc sinh học nó là cần thiết. Liệu bộ não có thể thấy rằng hiểu biếtcần thiết và liệu bộ não có thể thấy sự nguy hiểm của hiểu biết mà tạo ra sự phân chia? Hiểu biết mang lại sự phân chia? Nó có thể hay không, thưa bạn? Liệu hiểu biết là nhân tố phân chia?

SW: Vâng, dĩ nhiên.

Krishnamurti: Đừng đồng ý. ‘Thấy’. Liệu những tế bào não có thể tìm kiếm sự an toàn trong hiểu biết, và biết rằng trong hiểu biết có sự nguy hiểm của phân chia?

A: Ở đây bởi vì biết rằng hiểu biết là cần thiết…

Krishnamurti: Và cũng hiểu biết là nguy hiểm bởi vì nó phân chia.

SW: Thấy cả hai tại cùng thời điểm là khó khăn.

Krishnamurti: ‘Thấy’ nó tại cùng thời điểm. Ngược lại bạn sẽ không ‘thấy’ nó.

A: Hiểu biết phân chia cái gì?

Krishnamurti: Trong chính nó hiểu biếtphân chia. Cái đã được biết và cái không biết được. Ngày hôm qua, ngày hôm nay và ngày mai. Ngày hôm qua, mà là quá khứ, ngày hôm nay được thay đổi từ ngày hôm qua và ngày mai cũng được thay đổi. Trong đó có sự phân chia. Hiểu biết là ‘Tôi biết bạn’; trong đó là hình ảnh, kết luận. Nhưng bạn, trong lúc đó, đã thay đổi. Hình ảnh về bạn của tôi phân chia chúng ta: Hiểu biết là sự an toàn; và liệu những tế bào não đang tìm kiếm sự an toàn trong hiểu biết có thể biết rằng hiểu biết tại một mức độ nào đó là cần thiết, và tại mức độ khác là phân chiavì vậy nguy hiểm? Nhân tố của phân chia là việc dựng lên hình ảnh. Vì vậy liệu những tế bào não có thể thấy rằng hiểu biếtcần thiết để được an toàn phần thân thể? Và liệu những tế bào não có thể thấy rằng hiểu biết được đặt nền tảng trên hình ảnh được rút ra từ sự kết luận là phân chia? Vậy thì điều gì kế tiếp?

SW: Có hai loại của tạo tác-hình ảnh. Trong hiểu biết thuộc công nghệ cũng có một ghi lại, và đó cũng là một hình thức của tạo tác-hình ảnh.

A: Tôi nghĩ chúng ta đang sử dụng từ ngữ ‘tạo tác-hình ảnh’ nơi có nội dung cảm xúc nào đó. Trong cái khác nó không là như thế. Như một tẩu thoát khỏi điều này, sự chiếu rọi về tự do hiện diện.

Krishnamurti: Nó biết trong điều này không có tự dovì vậy nó phải sáng chế một tự do bên ngoài ngục tù.

 Khi bạn thấy toàn cấu trúc của hiểu biết, vậy thì tất cả đều được hiểu rõ.

A: Có một nghi vấn mà tôi muốn đặt ra: liệu cái trí có một khả năng của diễn đạt bằng từ ngữ cái gì đó mà nó không trải nghiệm, nhưng muốn trải nghiệm?

Krishnamurti: Chúng ta vẫn chưa chấm dứt, thưa bạn. Sự hiểu biết thuộc tâm lý, thuộc công nghê, thuộc sinh học được bao hàm trong từ ngữ ‘hiểu biết’. Tôi thấy, cái trí thấy, hiểu biếtphân chia và không hợp nhất.

 Trong điều này là ngục tù của thời gian. Nhưng, những tế bào não cũng biết rằng trong điều này không có tự do, và chúng muốn tự do. Trong tự do có lẽ là siêu-an toàn. Và đó là lý do tại sao từ những thời gian không thể nhớ được con người đã nói về tự do. Nhưng bởi vì tự do là không ở bên trong ngục tù, con người đã luôn luôn suy nghĩ về tự do ở bên ngoài. Và chúng ta đang nói tự do ở đây, không phải bên ngoài, đúng chứ?

A: Sự ham muốn cho tự do, nó là một đặc điểm thuộc sinh học? Sự ham muốn cho siêu-an toàn, liệu nó cũng không thuộc sinh học hay sao?

Krishnamurti: Vì vậy, liệu có tự do trong tất cả mọi sự việc mà suy nghĩ đã xây dựng kể cả suy nghĩ về tự do? Hãy quan sát nó. Trong cái này nó không thể tìm được tự do. Thế là, nó nói bởi vì suy nghĩ đã xây dựng tự do này bên trong ngục tù, vì vậy tự do phải ở bên ngoài.

SW: Nói cách khác, liệu có tự do trong hiểu biết?

Krishnamurti: Liệu có tự do trong quá khứ? Hiểu biếtquá khứ. Hiểu biếtsự tích lũy của một triệu năm trải nghiệm. Trải nghiệm trao tặng tự do? Chắc chắn không. Vì vậy liệu có một sự việc như tự do?

SW: Tôi không biết. Tôi thấy tự do không ở bên ngoài. Nó là một chiếu rọi. Và vẫn vậy không có tự do bên trong.

Krishnamurti: Tôi không biết. Tôi luôn luôn đã nghĩ về tự do ở bên ngoài. Tất cả những quyển sách tôn giáo, những luyện tập, đã nghĩ về nó ở đằng đó. Có lẽ có tự do tuyệt đối ở đây.

 Tôi đã nắm được nó: Tôi biết, bộ não biết, suy nghĩ nhận biết rằng nó đã tạo ra ngục tù này. Tất cả mọi điều mà suy nghĩ biết là đòi hỏi an toàn đó, nó đã tạo ra ngục tù. Và nó phải có an toàn, ngược lại nó không thể vận hành. Vì vậy suy nghĩ thâm nhập, tự do ở đâu? Nó tìm kiếm tự do ở nơi nào đó mà nó có thể nhận biết được, nơi nó không bị chiếu rọi, không bị hình thành, không bị sáng chế, nơi nó không là sự chiếu rọi của quá khứ mà vẫn còn là hiểu biết. Tự do phải là nơi nào đó.

A: Liệu nó là một hành động của sự nhận biết?

Krishnamurti: Đây là một hành động của sự nhận biết. Bằng mắt tôi nhận biết bạn. Sự nhận biết bằng mắt đã tạo ra tất cả điều này. Chính hiểu biết này đã tạo ra tất cả điều này. Hiểu biết và không-hiểu biết vẫn còn là những chiếu rọi của sự suy nghĩ.

R: Không-hiểu biết là gì?

A: Chúng ta nói tất cả hiểu biết, quá khứhiện tạichúng ta đang suy nghĩ về cái không biết được như tự do.

Krishnamurti: Thế là, cái không biết được là cái đã được biết. Lúc này nó rất đơn giản. Đây là cấu trúc của những tế bào não với những kỷ niệm của chúng mà chịu trách nhiệm cho sự suy nghĩ. Đây là cấu trúc của sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ nói hiểu biếtcần thiết. Sự suy nghĩ nói, bởi vì bạn đã thâm nhập nó, cũng không có tự do. Vì vậy tự do là gì? Liệu có một sự việc như thế?

A: Chúng ta chỉ thấy rằng bất kỳ điều gì sự suy nghĩ tạo ra đều không tự do.

Krishnamurti: Vì vậy, nó nói cái gì? Liệu có an toàn trong sự suy nghĩ? Sự suy nghĩ đã tạo ra tất cả điều này? Liệu có an toàn trong chính suy nghĩ?

SW: Chính suy nghĩ đã làm tất cả điều này.

Krishnamurti: Vì vậy, liệu có an toàn? Tôi đã thừa nhận an toàn. Tôi đã nói rằng tôi phải có hiểu biết, nhưng liệu đó là an toàn? Tôi thấy những chiến tranh, những phân chia, những cái của bạn và những cái của tôi, chúng tôichúng nó, gia đình của tôi, gia đình của bạn – liệu có an toàn trong tất cả điều này?

 Hãy thấy điều gì tôi đã tìm được? Trong hiểu biếtan toàn, nhưng không trong cái này mà là kết quả của hiểu biết. Vì vậy sự suy nghĩ tự nói với chính nó, liệu có an toàn trong ngay cấu trúc của chính suy nghĩ? Đúng chứ?

 Liệu có sự an toàn trong quá khứ? Liệu có an toàn trong truyền thống? Liệu có an toàn trong hiểu biết? Những tế bào não đã tìm kiếm an toàn trong đó, nhưng liệu có an toàn? Những tế bào não phải tự thấy cho chính chúng rằng không có an toàn ở đó. Thế là, điều gì xảy ra? (Ngừng) Tôi thấy không có an toàn ở đó. Nó là một khám phá lạ thường cho tôi. Vì vậy sự suy nghĩ nói, điều gì kế tiếp? Tôi phải tự giết chết chính tôi, tôi phải tự hủy diệt chính tôi, bởi vì tôi là sự nguy hiểm khôn lường nhất.

 Và lúc này, ai là ‘cái tôi’ mà sẽ tự hủy diệt chính nó? Vì vậy, lại nữa sự suy nghĩ nói, ‘Tôi không được phân chia’.

SW: Giết đi kẻ giết người.

Krishnamurti: Ngục tù và tù nhân, kẻ giết người và người bị giết.

 Vì vậy, liệu có một kết thúc của ‘chính tôi’ mà không có sự phân chia. Sự phân chia hàm ý mâu thuẫn. Liệu có một kết thúc của ‘chính tôi’ mà không có sự nỗ lực? Và trong đó là chất lượng của nhạy cảm. Để trải qua tất cả điều này và để đến được mấu chốt đòi hỏi sự tinh tế cực kỳ, mà là nhạy cảm. Vì vậy, liệu sự suy nghĩ có thể tự kết thúc?

 Tất cả điều này đã cần đến sự chú ý vô cùng, sự tỉnh táo vô cùng; chuyển động từng bước một, không bao giờ bỏ lỡ một sự việc, nó có kỷ luật riêng của nó, trật tự riêng của nó. Lúc này bộ não hoàn toàntrật tự, bởi vì nó đã theo sát từng bước một, đang thấy những thái độ chính đáng riêng của nó, đang thâm nhập những sự việc mà không có an toàn, đang thấy rằng nó đã tìm kiếm an toàn trong phân chia. Lúc này nó thấy rằng trong phân chia không có an toàn, thế là, mỗi bước là một bước trong trật tựtrật tự đó là an toàn riêng của nó.

 Vì vậy, trật tự là sự nhận biết của những sự vật như chúng là. Sự nhận biết của ‘bạn là gì’, không phải kết luận của tôi về bạn là gì.

 Tôi nói sự nhận biết là đang thấy những sự vật-sự việc như chúng là và tôi không thể thấy những sự vật-sự việc như chúng là nếu tôi có một kết luận. Vì vậy, trong kết luận có vô trật tự. Suy nghĩ đã tìm kiếm an toàn trong kết luận mà đã gieo rắctrật tự. Thế là, ngay tức khắc nó phủ nhận kết luận, bởi vì, nó muốn an toàn. Thế là, sự suy nghĩ vận hành chỉ trong hiểu biết nơi nó là cần thiết, nhưng không nơi nào khác nữa, bởi vì mọi nơi khác sự vận hành của sự suy nghĩ là tạo tác những kết luận, những hình ảnh. Thế là, sự suy nghĩ kết thúc.

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12576)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14160)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10907)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10576)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11244)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12050)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13212)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13701)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33723)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11392)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12985)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13109)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11682)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17943)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11489)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11913)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11563)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19029)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12609)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11392)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13206)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15837)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11878)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11753)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12845)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12704)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14012)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13030)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12992)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13346)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12825)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12747)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11781)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12398)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12448)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19894)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12027)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12051)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12726)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15129)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16193)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12946)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12296)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11972)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13217)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16563)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13278)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12566)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11905)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19918)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11210)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11319)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10455)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11150)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11016)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10072)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11790)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant