Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 17 – Sự vật, Hiểu biếtNhận biết

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9809)
Đối thoại 17 – Sự vật, Hiểu biết và Nhận biết

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

Madras, 1971

Đối thoại 17

SỰ VẬT, HIỂU BIẾTNHẬN BIẾT

Madras, ngày 11 tháng 1 năm 1971

N

gười hỏi A: Tôi nghĩ chúng ta nên thâm nhập nghi vấn, sự nhận biết của vẻ đẹp. Ngày hôm trước anh đã nói rằng truyền thống đã bỏ quên lãnh vực của vẻ đẹp. Chúng ta cần thâm nhập điều này

Krishnamurti: Vì vậy câu hỏi là gì? Vẻ đẹp là gì? Bạn có ý sự nhận biết và sau đó vẻ đẹp? Chắc chắn nó không là sự nhận biết và vẻ đẹp, nhưng sự nhận biết. Sự tiếp cận truyền thống đến điều này là gì?

R: Một nguồn của truyền thống khẳng định rằng vẻ đẹp là ý thức của hạnh phúchiện diện khi có sự kết thúc của ham muốn hay khao khát trải nghiệm.

Krishnamurti: Đây là một lý thuyết hay một thực sự?

R: Tác giả đã diễn tả điều gì anh ấy đã cảm thấy; rốt cuộc, anh ấy đã viết cách đây lâu lắm rồi và chỉ những mảnh của những bản viết của anh ấy còn được giữ lại.

A: Kalidasa nói rằng trải nghiệm của vẻ đẹp là mới mẻ từng khoảnh khắc.

R: Cả ở Ấn độ và Hy lạp đều có cảm thấy này, rằng những nhận biết tối thượng là những nhận biết của vẻ đẹp, sự thậttốt lành.

Krishnamurti: Chúng ta đang bàn luận về vẻ đẹp hay sự nhận biết? Chúng ta sẽ bàn luận về sự nhận biết. Sự tiếp cận truyền thống đến sự nhận biết là gì?

R: Họ nói về nó nhiều lắm và có nhiều quan điểm mâu thuẫn.

A: Sự nhận biết là ‘Pratyaksham’, sự nhận biết là thấy chính bản chất của những sự vật, chất lượng cốt lõi của những sự vật.

Krishnamurti: Thấy bản thể của cái gì đó là sự nhận biết, liệu đó là nó? Tôi đang nói không phải về cái gì bạn thấy nhưng về hành động của thấy. Liệu họ nói về hành động của thấy và không phải cái gì được thấy?

R: Họ nói về điều gì là sự hiểu biếtgiá trị và điều gì là sự hiểu biết không giá trị.

Krishnamurti: Thấy là một việc và thấy cái gì đó là một việc khác. Họ đang nói về điều gì? Thấy, chính nó hay thấy cái gì khác, nó là thấy nào?

A: Tôi nghĩ, thấy. Họ quan tâm đến sự nguy hiểm liên tục của thấy một cách sai lầm.

Krishnamurti: Không. Chúng ta không đang nói về thấy một cách đúng đắn hay sai lầm, nhưng sự nhận biết là gì; không phải cái gì bạn thấy – cái ghế, sợi dây, con rắn.

A: Có một khác biệt giữa thấy và biết?

Krishnamurti: Thấy, biết và thấy sự vật; thấy qua hiểu biết cái sự vật, cái hình ảnh, cái biểu tượng; và thấy – đây là sự khác biệt hoàn toàn. Họ nói về thấy như thế nào?

A: Họ không bàn luận nó theo cách này.

Krishnamurti: Giống như đói trong chính nó; nó không liên quan đến thức ăn. Bạn có thức ăn bởi vì bạn đói, nhưng bản chất của đói là đói. Đối với bạn, thấy, nhận biết là gì? Không phải thấy sự vật, nhưng chất lượng của cái trí mà nhận biết? Thấy sự vật bằng hai mắt là một việc, thấy bằng hiểu biết là một việc khác. Tôi đang nói về thấy trong chính nó. Liệu có một thấy mà không có hiểu biết, mà không có sự vật? Tôi thấy cái tủ đó. Thấy đó là bằng từ ngữhiểu biết, từ ngữ đang được liên kết đến cái tủ. Liệu có một thấy mà không có hình ảnh, mà không có sự vật? Thấy sự vật qua hiểu biết, qua hình ảnh, biểu tượng, từ ngữ, mảnh trí năng; và thấy mà không có hiểu biếthình ảnh, một thấy mà không có sự vật.

A: Thấy mà không có sự vật là gì? Người ta có thể thấy mà không có hiểu biết. Như anh nói, có một cái tủ mà không có hình ảnh nhưng vẫn vậy chúng ta biết nó là một cái tủ, mà có nghĩa nó là một sự vật.

Krishnamurti: Có một bụi cây nhỏ, và liệu tôi thấy hay không thấy nó, nó sẽ lớn lên thành một cái cây. Nó độc lập khỏi thấy của tôi. Tôi có thể gọi nó là cây xoài và, vì vậy, liên kết nó với chủng loại xoài, và cây xoài sẽ lớn lên thậm chí nếu tôi không thấy nó.

R: Sự tồn tại của nó không liên quan gì đến thấy…

A: Sự vật tồn tại mà không có thấy của chúng ta, nhưng một nhận biết như thế có lẽ hiện diện mà không có sự vật.

Krishnamurti: Cái cây đó tiếp tục tồn tại.

A: Trong thiền định của Phật giáo, họ đã liên quan đến bầu trời khi họ nói về sự nhận biết mà không có sự vật. Bầu trời là một sự vật và tuy nhiên lại không là một sự vật.

Krishnamurti: Ý nghĩa từ điển của từ ngữ ‘sự nhận biết’ là ý thức được, hiểu rõ. Đó là, bạn thấy cái tủ, bạn có một ý tưởng trước của nó; đó không là sự nhận biết. Liệu có thấy mà không có ý tưởng trước? Chỉ cái trí không có kết luận, một cái trí như thế có thể thấy. Cái trí khác không thể thấy. Nếu tôi có hiểu biết từ trước của cái tủ đó, cái trí đồng hóa nó như cái tủ. Nhìn cái tủ đó mà không có sự tích lũy từ trước của những thành kiến hay những tổn thương, là nhìn. Nếu tôi có những tổn thương, những kỷ niệm, đau khổ, vui thú, không-vui thú từ trước, tôi đã không nhìn.

Liệu có một nhìn mà không có sự vật, mà không có hiểu biết của sự vật? Dĩ nhiên, có. Liệu bạn có thể nhìn cái cây đó, mà không có hiểu biết của bụi cây, hình ảnh, biểu tượng, và mọi chuyện của nó? Chỉ nhìn.

Một người nào đó đã đến gặp tôi. Anh ấy là một đạo diễn phim ảnh. Anh ấy đã sử dụng LSD, và họ đã ghi băng lại nó. Anh ấy ngồi ngả người trên một chiếc ghế và chờ đợi ảnh hưởng của thuốc. Không có gì xảy ra. Anh ấy chờ đợi và chuyển động vị trí ngồi của anh ấy một chút xíu. Ngay tức khắc khoảng không gian giữa anh ấy và sự vật biến mất. Trước kia người quan sát đã có không gian giữa anh ấy và sự vật anh ấy quan sát, mà tình cờ là một bông hoa. Khoảnh khắc không gian biến mất, nó không là bông hoa, nó là cái gì đó thật lạ thường. Đó là một ảnh hưởng của thuốc. Nhưng ở đây nó khác hẳn. Không gian giữa người quan sát và vật được quan sát không còn; người quan sát là người nắm giữ hiểu biết và chính là hiểu biếtcông nhận cái tủ. Chính là người quan sát mà thấy cái tủ.

Trước hết hãy thấy điều gì xảy ra. Người quan sát với hiểu biết của anh ấy công nhận cái tủ. Công nhận hàm ý sự hiểu biết có trước. Vì vậy người quan sáthiểu biết như quá khứ. Lúc này chúng ta đang hỏi, liệu có sự nhận biết mà không có người quan sát, đó là hiểu biết, mà là quá khứ? Sự nhận biết cho chính nó, không phải cho hay về cái gì khác.

R: Nếu sự hiểu biết không hiện diện ở đó, người quan sát không ở đó. Nếu người quan sát không ở đó, sự hiểu biết của quá khứ không hiện diện ở đó.

Krishnamurti: Vì vậy, liệu có thể thấy mà không có người quan sát. Tôi đang nói: ‘có thể’. Có thể trở thành một lý thuyết, vì vậy chúng ta không nên sử dụng những lý thuyết nhưng thấy rằng người quan sátcặn bã của quá khứ. Vì vậy, người quan sát không thể thấy. Anh ấy chỉ có thể thấy qua bức màn của quá khứ. Vì vậy, thấy của anh ấy là thiên vị. Nếu muốn có sự nhận biết, người quan sát phải không được hiện diện ở đó. Liệu điều đó có thể được?

R: Điều gì xảy ra cho một nghệ sĩ? Chắc chắn anh ấy nhận biết bằng một nhận biết mà không phải là nhận biết thông thường như chúng ta có.

Krishnamurti: Lúc này, hãy chờ một phút. Liệu sự nhận biết thuộc trí năng?

R: Không, mảnh trí năngquá khứ.

Krishnamurti: Vì vậy, nó không là thấy của một nghệ sĩ hay không-nghệ sĩ, nhưng thấy mà không có quá khứ. Đó thực sự là nghi vấn. Người nghệ sĩ có lẽ thấy trong một khoảnh khắc mà không có quá khứ nhưng anh ấy diễn giải nó.

R: Nó là một nhận biết khoảnh khắc.

Krishnamurti: Liệu có một hành động của sự nhận biết mà không có người quan sát? Hành động hàm ý hành động tức khắc, không phải một hành động liên tục? Và chính từ ngữ, ‘hành động’, có nghĩa đang làm, không phải đã làm hay sẽ làm.

 Vì vậy, sự nhận biết là một hành động, không phải dựa vào hiểu biết; không phải hành động của người diễn viên cùng hiểu biết của anh ấy. Vì vậy, những người chuyên nghiệp không quan tâm đến hành động, đúng chứ? Họ quan tâm đến hiểu biết và hành động. Điều đó đúng phải không?

R: Tôi không biết. Có vài trang sách nào đó mà trong nó họ đã nói rằng sự nhận biết của vẻ đẹp là khoảnh khắc đó khi thời gian, cái tên, hình dángkhông gian không hiện diện.

Krishnamurti: Chúng ta không đang nói về vẻ đẹp. Sự nhận biết hàm ý hành động. Tôi biết hành động là gì khi người quan sát hành động. Người quan sát, bởi vì đã học một ngôn ngữ hay công nghệ đặc biệt, bởi vì đã thâu lượm hiểu biết, hành động.

A: Liệu sự nhận biết có nghĩa là tiếp xúc trực tiếp giữa cơ quan và sự vật, giữa cơ quan-tri giác và sự vật?

R: Những người truyền thống nói về thiền định và sự nhận biết tức khắc. Sự nhận biết thiền định là qua dụng cụ, qua một trung gian, trái lại sự nhận biết tức khắc không cần đến cơ quan-tri giác theo cùng nó để thấy. Có lẽ sự nhận biết tức khắc gần gũi hơn điều gì anh đang nói.

Krishnamurti: Bạn thấy, sự nhận biết của hiểu biết và hành động, là hành động từ quá khứ. Đó là một việc. Sự nhận biết, hành động là một việc khác.

A: Chính sự nhận biết là hành động, vì vậy không có thời gian.

Krishnamurti: Khoảng ngừng thời gian kết thúc giữa hành động và hiểu biết, hiểu biết như người quan sát. Hiểu biết và hành động đó là đang trói buộc vào thời gian và cái còn lại thì không. Vì vậy điều này rõ ràng.

 Vậy thì, vẻ đẹp liên quan đến sự nhận biết là gì?

R: Nó là sự kết thúc của ham muốn trải nghiệm. Đây là điều gì những người truyền thống nói.

Krishnamurti: Thấy của tốt lành, vẻ đẹp, tình yêu, sự thật, gạt bỏ đi tất cả điều đó.

 Lúc này vẻ đẹp là gì? Điều gì là cần thiết cho đang nhận biết vẻ đẹp?

R: Nó không chỉ là sự nhận biết thuần túy, bởi vì sự nhận biết có thể thuộc mọi thứ, thậm chí thuộc điều mà không là đẹp đẽ.

Krishnamurti: Đừng mang vào điều xấu xí. Sự nhận biết là hành động, đang nhận biết là đang hành động – hãy bỏ điều đó đi. Chúng ta đang nói về vẻ đẹp. Bạn đã nói điều gì những người chuyên nghiệp đã nói. Lúc này, vẻ đẹp là gì? Chúng ta hãy quên đi điều gì những người khác đã nói. Tôi muốn tìm ra vẻ đẹp là gì. Chúng ta nói tòa nhà đó là đẹp đẽ, bài thơ đó là hay ho, người phụ nữ đó là xinh xắn, cảm thấy của một chất lượng nào đó là vẻ đẹp – sự diễn tả đang trở thành phương tiện của sự công nhận vẻ đẹp. Tôi thấy một tòa nhà, và nói nó đẹp làm sao. Vì vậy, qua sự vật chúng ta công nhận vẻ đẹp.

 Có những những diễn tả khác nhau về vẻ đẹp. Qua sự vật chúng ta nói rằng đó là vẻ đẹp. Qua sự vật, chúng ta công nhận vẻ đẹp là gì. Lúc này, hãy gạt điều đó đi. Vẻ đẹp không là sự diễn tả. Vẻ đẹp không là sự vật. Vậy thì vẻ đẹp là gì? Nó ở trong người nhìn ngắm? Người nhìn ngắm là người quan sát. Người quan sát cùng sự hiểu biết quá khứ của anh ấy công nhận cái gì đó là đẹp đẽ, bởi vì văn hóa của anh ấy đã bảo cho anh ấy nó là đẹp đẽ, văn hóa của anh ấy đã quy định anh ấy. 

A: Người phụ nữcống hiến sự vui thú là đẹp đẽ, và khi cô ấy không cống hiến sự vui thú, cô ấy không còn đẹp đẽ nữa.

Krishnamurti: Tôi loại bỏ sự diễn tả, tôi loại bỏ sự vật được tạo ra và tôi loại bỏ người nhận biết đang thấy vẻ đẹp trong sự vật. Tôi loại bỏ tất cả điều này. Vậy thì, chất lượng của cái trí mà đã loại bỏ chúng là gì? Tôi đã loại bỏ mọi thứ mà con người đã giải thích về vẻ đẹp, bởi vì tôi thấy vẻ đẹp không ở trong bất kỳ điều gì đã được giải thích. Điều gì đã xảy ra cho cái trí mà đã loại bỏ suy nghĩ, suy nghĩ mà đã tạo ra sự vật? Chất lượng của cái trí mà đã loại bỏ tất cả những cấu trúc được sắp xếp vào chung bởi con người mà đã nói đây là đẹp đẽ và đây là không đẹp đẽ, là gì?

 Chắc chắn cái trí rất nhạy cảm, bởi vì trước đây nó đã mang một gánh nặng và lúc này nó nhẹ nhàng hơn nhiều. Thế là, nó nhạy cảm, tỉnh táo, thức dậy.

R: Anh đã nói anh đã loại bỏ sự vật và sự suy nghĩ mà đã tạo ra sự vật.

A: Sự suy nghĩhiểu biết.

Krishnamurti: Sự suy nghĩhiểu biết, mà đã tích lũy qua hiểu biết, qua văn hóa mà nói vẻ đẹp là thế này. Suy nghĩ là sự phản hồi của ký ức mà đã tạo ra sự vật. Tôi đã loại bỏ tất cả điều đó, ý tưởng của vẻ đẹp như sự thật, tốt lành, tình yêu. Sự nhận biết của điều đó là hành động và hành động là đang-xóa sạch, không phải ‘tôi đang xóa sạch’, nhưng đang-xóa sạch. Thế là lúc này cái trí được tự do. Tự do hàm ý không phải tự do khỏi cái gì đó, nhưng tự do. Nó nhạy cảm cao độ. Tiếp theo, điều gì xảy ra? Cái trí được tự do, nhạy cảm cao độ, không còn bị chất nặng bởi quá khứ; mà có nghĩa trong cái trí đó không còn người quan sát nữa; mà có nghĩa không còn ‘cái tôi’ đang quan sát, bởi vì ‘cái tôi’ đang quan sát là một việc rất, rất bị giới hạn. ‘Cái tôi’, quá khứ, là người quan sát, ‘cái tôi’ là quá khứ. Hãy thấy điều gì chúng ta đã làm. Có sự vật, hiểu biết và sự nhận biết; qua hiểu biết chúng ta công nhận sự vật; và chúng ta đang đặt ra câu hỏi, liệu có sự nhận biết mà không có hiểu biết, mà không có người quan sát? Vì vậy, chúng ta loại bỏ cả hai: sự vật và hiểu biết. Trong nhận biết có hành động của loại bỏ.

 Lại nữa chúng ta hỏi vẻ đẹp là gì? Thông thường vẻ đẹp được liên kết đến sự vật; sự vật được tạo tác bởi suy nghĩ, cảm thấy, suy nghĩ. Và chúng ta loại bỏ điều đó.

 Vậy thì tôi tự hỏi mình, chất lượng của cái trí mà đã loại bỏ là gì? Nó thực sự là tự do. Tự do hàm ý một cái trí nhạy cảm cao độ. Trong hành động của loại bỏ, nó đã tạo ra sự nhạy cảm riêng của nó, mà có nghĩa khôngtrung tâm trong hoạt động đó. Vì vậy, nó là một nhạy cảm không có thời gian, không có một trung tâm như người quan sát, mà có nghĩa một trạng thái của cái trí đam mê mãnh liệt.

R: Khi sự vật và sự hiểu biết về sự vật biến mất, không còn tập trung.

Krishnamurti: Đừng sử dụng từ ngữ tập trung. Cái trí loại bỏ cái gì ‘nó không là’, là tự do. Hành động của nhận biết cái gì ‘nó không là’ đã giải thoát cái trí và cái trí được tự do. Nó không là tự do khỏi nó, nó không là tự do khỏi sự vật, nhưng nó là tự do.

A: Hành động của nhận biếtloại bỏ hiểu biết đó là ngay tức khắc và đồng thời.

Krishnamurti: Đó là tự do. Hành động của nhận biết đã sáng tạo tự do, không phải từ cái gì đó. Khi cái trí nhạy cảm, không có trung tâm, không có ‘tôi’ trong nó, có sự loại bỏ hoàn toàn của cái ngã như người quan sát. Vậy là, cái trí dư thừa năng lượng bởi vì nó không còn bị trói buộc trong sự phân chia của đau khổ, phiền muộn và vui thú. Nó đam mê mãnh liệt và chỉ một cái trí như thế mới thấy cái gì là vẻ đẹp.

 Tôi thấy cái gì đó: đau khổ là một hoạt động theo mảnh của năng lượng. Nó là một năng lượng phân chia.

 Năng lượng là vui thú, năng lượngđau khổ; đi đến văn phòng, học hànhnăng lượng. Những con người đã phân chia năng lượng này thành những mảnh. Mọi thứ là một phần, là một mảnh của những mảnh khác nhau của năng lượng. Khi không có hoạt động của mảnh, có đang tập hợp hoàn toàn của tất cả năng lượng.

 Tôi ghét bỏ người nào đó và tôi thương yêu người nào đó. Cả hai đều là năng lượngnăng lượng phân chia đang hành động trong những phương hướng đối nghịch – mà nuôi dưỡng xung đột. Đau khổ là một dạng của năng lượng; một mảnh mà chúng ta gọi là đau khổ. Vì vậy, tất cả cách sống của chúng ta đều phân chia. Mỗi mảnh đang đấu tranh với mảnh khác. Nếu có một tổng thể hòa hợp, năng lượng đó là đam mê. Vậy là, năng lượng đó là cái này, là cái trí tự do, nhạy cảm, mà trong đó ‘cái tôi’ như quá khứ hoàn toàn bị tan biến và, vì vậy, một cái trí như thế tràn đầy năng lượngđam mê, và vì vậy đó là vẻ đẹp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12574)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14152)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10896)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10574)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11243)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12045)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13207)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13690)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33722)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11379)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12981)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13105)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11679)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17943)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11488)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11902)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11561)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19028)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12597)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11390)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13194)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15835)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11876)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11742)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12840)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12688)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14010)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13027)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12990)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13341)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12825)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12745)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11801)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11775)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12398)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12434)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19892)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12012)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12046)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16943)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12722)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15128)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16181)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12944)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11970)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13213)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16561)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13277)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12561)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11895)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19914)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11201)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11319)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10454)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11139)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11015)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10071)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11787)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant