Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm nhất thiết đại chúng sở vấn

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 12553)
Phẩm nhất thiết đại chúng sở vấn

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ 10

PHẨM NHẤT THIẾT ÐẠI CHÚNG SỞ VẤN

(Sự hỏi han của tất cả đại chúng)

PHẦN XVII:

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ diện môn của ngài phóng ra đủ thứ ánh sáng, xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía... chiếu soi thân của ông Thuần Ðà. Ông Thuần Ðà gặp ánh sáng ấy rồi thì cùng với các quyến thuộc mang những đồ ăn ngon lành, mau chóng đến chỗ đức Phật, muốn dâng đức Như LaiTỳ kheo Tăng bữa cúng dường sau cùng. Họ mang đến chỗ đức Phật đủ chủng loại đồ vật đầy đủ dồi dào. Lúc bấy giờ, có nhiều người trời uy đức lớn ngăn ông ấy lại ở trước và vây quanh giáp vòng rồi nói với ông Thuần Ðà rằng :

- Hãy dừng lại, ông Thuần Ðà! Ông chớ dâng đồ cúng dường ngay!

Bấy giờ, đức Như Lai lại phóng ra vô lượng vô biên đủ thứ ánh sáng. Chư thiên, đại chúng gặp ánh sáng ấy rồi, liền để cho ông Thuần Ðà đến trước chỗ đức Phật mà dâng lên đồ cúng dường của ông ấy. Bấy giờ, trời, người và các chúng sinh mỗi mỗi đều tự lấy đồ cúng dường của mình mang theo, đến trước đức Phật, quì dài mà bạch đức Phật rằng :

- Nguyện xin đức Như Lai cho phép các vị Tỳ kheo nhận những đồ cúng dường này.

Các vị Tỳ kheo biết đã đúng lúc nên sửa áo, mang bát một lòng an tường. Bấy giờ, ông Thuần Ðà vì đức Phậtchúng Tăng bố thí đủ thứ loại tòa báu Sư tử, treo tràng phan bảo bằng lụa ngũ sắc, hương hoa, chuỗi ngọc... Bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới trang nghiêm vi diệu giống như đất nước An Lạc ở phương Tây. Bấy giờ, ông Thuần Ðà đứng ở trước đức Phật, ưu bi buồn bã, bạch đức Phật một lần nữa rằng:

- Nguyện xin đức Như Lai rũ lòng thương xót chúng con, sống lâu một kiếp hay giảm một kiếp!

Ðức Phật bảo rằng :

- Này Thuần Ðà! Ông muốn cho ta trụï thế lâu dài thì cần phải mau chóng dâng lên Ðàn Ba la mật đầy đủ tối hậu!

Lúc bấy giờ, tất cả Ðại Bồ tát, trời, người đủ loại, khác miệng đồng âm xướng lên như vầy rằng :

- Lạ thay! Ông Thuần Ðà đã thành tựu đại phước đức nên có thể khiến cho đức Như Lai nhận sự cúng dường Vô thượng sau cùng của ông ấy. Chúng ta vô phước nên sự thiết bày đồ cúng dường trở thành uổng phí!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn khiến cho nguyện vọng của tất cả chúng sinh được thỏa mãn nên ở trên thân mình, mỗi một lỗ chân lông hóa ra vô lượng đức Phật. Mỗi một đức Phật đều có vô lượng những Tỳ kheo Tăng. Các đức Thế Tônvô lượng chúng này đều thị hiện nhận đồ cúng dường của những người ấy. Ðức Thích Ca Như Lai tự thọ nhận sự dâng bày cúng dường của ông Thuần Ðà. Bấy giờ, đồ ăn nấu chín bằng gạo ngon của ông Thuần Ðà đựng đầy tám hộc nước Ma Dà Ðà (dụng cụ đo lường của nước ấy) nhờ thần lực của đức Phật nên đều cung ứng sung túc cho tất cả đại hội. Bấy giờ, ông Thuần Ðà thấy việc đó rồi thì lòng sinh vui mừng, hớn hở không lường. Tất cả Ðại chúng cũng lại như vậy. Bấy giờ, đại chúng vưng thánh chỉ của đức Phật, đều nghĩ rằng : “Ðức Như Lai nay đã thọ sự cúng dường của chúng ta thì chẳng bao lâu nữa nhất định sẽ vào Niết Bàn”. Họ nghĩ thế rồi, lòng phát sinh buồn vui lẫn lộn. Bấy giờ, rừng cây với khu đất nhỏ hẹp ấy, do thần lực của đức Phật, dù là chỗ nhỏ như đầu mũi kim cũng đều có vô lượng các đức Phật Thế Tônquyến thuộc ngồi thọ thực mà đồ ăn cũng không sai khác. Lúc đó, trời, người, a tu la.v.v... bi thán gào khóc mà nói lên rằng :

- Ðức Như Lai ngày hôm nay đã thọ nhận lễ cúng dường sau cùng của chúng ta mà thọ cúng dường rồi thì sẽ Bát Niết Bàn. Chúng ta sẽ lại cúng dường ai nữa đây! Chúng ta nay vĩnh viễn lìa khỏi đấng Ðiều Ngự Vô thượng! Mù tối không tròng mắt con ngươi (không mắt)!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn an ủi tất cả đại chúng mà nói kệ rằng :

Các ông chớ buồn than Pháp chư Phật ứng vậy

Ta vào với Niết Bàn Ðã qua vô lượng kiếp

Thường thọ vui thắng hơn Mãi ở chỗ yên ổn.

Ông nay nghe hết lòng Niết Bàn ta sẽ nói :

Thực tưởng ta lìa xong Trọn không hoạn đói khát

Nay sẽ vì các ông Nói thuận theo nguyện ấy

Khiến tất cả chúng sinh Ðều được vui yên ổn.

Ông nghe nên tu hành Pháp chư Phật thường trụ.

Giả sử quạ cùng chim Ðồng chung một cây đậu

Giống như anh em thân Vậy mới Niết Bàn mãi.

Tất cả, Như Lai xem Như La Hầu La vậy.

Thường được chúng sinh tôn Sao vĩnh viễn Niết Bàn?

Giả sử rắn, chồn, chuột Ðồng ở chung một hang

Yêu nhau như huynh đệ Vậy mới mãi Niết Bàn.

Như Lai nhìn tất cả Như La Hầu La đó

Thường được chúng sinh tôn Sao vĩnh viễn Niết Bàn?

Giả sử hoa bảy cánh Chuyển thành Bà sư hương

Ca Lưu thành Trấn Ðầu Vậy mới mãi Niết Bàn.

Như Lai nhìn tất cả Như La Hầu La đó

Sao từ bi tiêu tan Vào Niết Bàn vĩnh viễn?

Giả sử Ðại Tà Kiến (Nhất xiển đềHiện thân Phật đạo thành

Mãi ở Ðệ nhất lạc Vậy mới vào Niết Bàn.

Như Lai nhìn tất cả Như La Hầu La đó

Sao mà bỏ từ bi Vào Niết Bàn vĩnh viễn?

Giả sử tất cả chúng Nhất thời Phật đạo thành

Xa lìa những lỗi hoạn Vậy mới vào Niết Bàn.

Như Lai nhìn tất cả Như La Hầu La đó

Thì sao bỏ từ bi Vào Niết Bàn vĩnh viễn.

Giả sử nước muỗi, ve Ngấm tan vào trong đất

Sông, hang, biển tràn trề Vậy mới vào diệt độ (Niết Bàn)

Lòng bi nhìn tất cả Ðều như La Hầu La

Thường được chúng sinh kính Sao Niết Bàn vĩnh viễn?

Do đó nên các ông Nên ưa sâu chánh pháp

Chẳng nên sinh ưu phiền Mà kêu gào khóc lóc.

Nếu muốn chánh hạnh mình (Thì) Tu Như Lai thường trụ

Pháp như vậy xét xem Trường tồn chẳng biến dị.

Lại nên suy nghĩ rằng : Tam Bảo đều thường trụ

Thì đại hộ được thành Cầu cây khô ra quả (trái).

Ðó gọi là Tam bảo Bốn chúng nên lắng nghe

Nghe rồi nên hoan hỷ Liền phát tâm Bồ Ðề.

Nếu hay kể Tam Bảo Thường trụ đồng chân đế

Thì đây là thề nguyền Tối thượng của chư Phật.

Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di có thể dùng thệ nguyện tối thượng của Như Laiphát nguyện thì phải biết người đó không có ngu si, kham thọ cúng dường do quả báo công đức của nguyện lực này, ở đời thì tối thắng như A la hán. Nếu có người chẳng thể quan sátTam Bảo thường trụ như vậy thì chính là Chiên đà la. Nếu có người có thể biết Tam Bảo thường trụ thì nhân duyên thật pháp nên lìa khỏi khổ được an vui không ai nhiễu hại có thể lưu nạn.

Lúc bấy giờ, đại chúng người, trời, a tu la.v.v... nghe pháp này rồi, lòng sinh vui mừng hớn hở vô cùng. Lòng họ điều hòa nhu nhuyến, giỏi diệt hết các sự che lấp. Lòng không cao thấp, uy nghi thanh tịnh, nhan mạo vui vẻ, biết Phật thường trụ. Vậy nên họ thiết bày sự cúng dường của chư thiên, tung lên đủ thứ hoa, hương bột, hương xoa... tấu lên kỹ nhạc, nhà trời để cúng dường đức Phật.

Lúc bấy giờ, đức Phật lại bảo Bồ tát Ca Diếp rằng :

- Này thiện nam tử! Ông có thấy việc hy hữu của chúng này không?

Ngài Ca Diếp đáp rằng :

- Thấy rồi, thưa đức Thế Tôn! Con thấy các Như Lai nhiều vô lượng vô biên, chẳng thể xưng kể thọ bữa ăn mà các đại chúng người, trời dâng lên cúng dường. Con còn thấy đại thân trang nghiêm của chư Phật mà chỗ ngồi của các ngài như một mũi kim khâu với nhiều chúng vây quanh mà chẳng chướng ngại nhau. Con lại thấy đại chúng đều phát thệ nguyện, nói mười ba bài kệ. Con cũng biết đại chúng, lòng từng người đều nghĩ rằng : “Ðức Như Lai hôm nay riêng thọ đồ cúng dường của một mình ta”. Giả sử đồ ăn dâng cúng của ông Thuần Ðà nghiền nát như vi trần mà dâng một hạt bụi đó cho một đức Phật còn chẳng cùng khắp được. Nhưng nhờ thần lực của đức Phật nên đồ cúng của ông Thuần Ðà đều làm sung túc tất cả đại chúng. Chỉ những vị Ðại Bồ tát như ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.v.v... mới có thể biết việc hy hữu như vậy là do đức Như Lai phương tiện thị hiện. Con biết đại chúng Thanh VănA tu la.v.v... đều biết Như Laipháp thường trụ.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ông Thuần Ðà rằng :

- Ông nay có thấy là việc này hy hữu đặc biệt kỳ lạ không?

- Thật vậy, thưa đức Thế Tôn! Con trước đã thấy vô lượng những đức Phật với thân trang nghiêm ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, nay thấy hết những vị Ðại Bồ tát với thân lớn sai khác, nhan mạo không gì sánh. Con chỉ thấy thân đức Phật ví như cây thuốc được sự vây quanh của những Ðại Bồ tát.

Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :

- Sự thấy vô lượng đức Phật của ông trước đó chính là do sự biến hóa của ta, vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ đượcvui mừng! Những đại Bồ tát như vậy đã có thể tu hành chẳng thể nghĩ bàn, có thể tạo tác vô lượng những Phật sự. Này Thuần Ðà! Ông nay đều đã thành tựu hạnh đại Bồ tát, được trụ ở Thập Ðịa, sở hạnh của Bồ tát đã hoàn thành đầy đủ.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn! Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ðúng như lời của đức Phật! Ông Thuần Ðà đã tu thành Bồ tát hạnh, con cũng tùy hỷ! Hôm nay đức Như Lai muốn vì vô lượng chúng sinh đời vị lai tạo tác ánh sáng lớn nên nói Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này. Thưa đức Thế Tôn! Tất cả Khế kinh nói thì có nghĩa khác hay không nghĩa khác vậy?

- Này thiện nam tử! Lời ta nói thì cũng có nghĩa khác, cũng không nghĩa khác!

Ông Thuần Ðà bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói :

Những vật sở hữu Bố thí hết đi

Chỉ được khen ngợi Không hủy tổn gì!

Thưa đức Thế Tôn! Nghĩa đó ra sao? Trì giới, hủy giới có gì sai biệt?

Ðức Phật dạy rằng :

- Chỉ trừ một người, còn tất cả những người bố thí đều được khen ngợi.

Ông Thuần Ðà hỏi rằng :

- Sao gọi là “chỉ trừ một người”?

Ðức Phật dạy rằng :

- Như đã nói trong Kinh này, là người phá giới!

Ông Thuần Ðà lại thưa :

- Con nay chưa hiểu được! Nguyện xin đức Phật nói rõ cho!

Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :

- Người phá giới gọi là Nhất xiển đề (Ðại tà kiến)! Ngoài ra tất cả sự bố thí của những người khác đều được khen ngợi, thu hoạch được quả báo lớn!

Ông Thuần Ðà lại hỏi :

- Nhất xiển đề thì nghĩa ấy ra sao?

Ðức Phật bảo rằng :

- Này Thuần Ðà! Nếu có Tỳ kheoTỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di phát khởi lời thô ác bài báng chánh pháp. Họ đã tạo nghiệp nặng đó mà vĩnh viễn chẳng lòng hối cải, không có tàm quí. Những người như vậy thì gọi là những kẻ hướng đến con đường nhất xiển đề. Nếu kẻ phạm bốn trọng cấm, ngũ nghịch tội, tự biết nhất định phạm việc nặng như vậy mà lòng không chút kinh sợ, tủi thẹn, chẳng chịu phát lộ, đối với chánh pháp của Phật vĩnh viễn không có lòng hộ trì, nuối tiếc, kiến lập, lời nói hủy báng khinh miệt, nhiều tội lỗi. Những người như vậy cũng gọi là kẻ hướng về con đường nhất xiển đề. Nếu người nào nói không có Phật, Pháp, Tăng thì những người ấy cũng gọi là hướng về nhất xiển đề. Chỉ trừ bọn nhất xiển đề như thế này, ngoài ra những người bố thí khác, tất cả đều được khen ngợi.

Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn! Sở dĩ gọi là phạm giới thì nghĩa ấy thế nào?

Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng : 

- Như người phạm bốn trọng cấmngũ nghịch tội, bài báng chánh pháp... những người như vậy gọi là Phá Giới!

Ông Thuần Ðà lại hỏi :

- Kẻ phá giới như vậy có thể cứu vớt chăng?

Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :

- Nếu có nhân duyên thì có thể cứu vớt! Nếu người mặc pháp phục còn chưa rời bỏ mà lòng thường mang tủi thẹn, kinh sợ, tự khảo trách : “Chao ôi! Sao ta bị phạm trọng tội ấy! Lạ thay! Sao ta lại tạo nghiệp khổ ấy!”, rồi tự hối cải sâu sắc, sinh lòng hộ pháp muốn kiến tạo chánh pháp và nghĩ rằng : “Nếu có người hộ pháp thì ta sẽ cúng dường. Nếu có người đọc tụng Kinh điển Ðại Thừa thì ta sẽ hỏi han thọ trì, đọc tụng, đã thông lợi rồi ta lại vì người khác phân biệt nói rộng rãi”. Ta nói (đức Phật nói) người đó chẳng gọi là Phá Giới. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Ví như mặt trời mọc có thể diệt trừ tất cả tối tăm của bụi che ngăn. Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này xuất hiện, hưng thịnh ở đời cũng lại như vậy, có thể trừ hết mọi tội đã làm trong vô lượng kiếp của chúng sinh. Vậy nên Kinh này nói rằng, hộ trì chánh pháp được quả báo lớn, cứu vớt phá giới. Nếu có người hủy báng chánh pháp này mà có thể tự cải hối quay trở về với pháp, tự nghĩ rằng, việc làm tất cả điều bất thiện như người tự hại mình, lòng sinh ra khủng bố kinh sợ, tủi thẹn, trừ chánh pháp nay ra lại không có gì cứu hộ. Vậy nên cần phải quay trở về chánh pháp”. Nếu người có thể đúng như lời nói như vậy mà qui y thì bố thí cho người này được phước không lường, cũng gọi là bậc ứng thọ cúng dường của thế gian. Nếu người phạm tội nghiệp ác như trên mà hoặc qua một tháng hay mười lăm ngày, chẳng phát sinh lòng qui y, phát lồ. Nếu bố thí cho hạng người này thì quả báo rất ít. Người phạm ngũ nghịch cũng lại như vậy, có thể sinh lòng hối hận, bên trong mang tủi thẹn rằng : “Nay ta đã làm nghiệp bất thiện rất là khổ lắm! Ta sẽ kiến lậphộ trì chánh pháp!” thì đó chẳng gọi là tội ngũ nghịch vậy. Nếu bố thí cho người này thì được phước không lường. Ðã phạm tội nghịch rồi chẳng sinh lòng hộ pháp, qui y thì có bố thí cho người đó thì pước chẳng đủ nói. Lại, này thiện nam tử! Về người phạm trọng tội thì ông nay hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói rộng rãi! Ông nên sinh tâm này : “Gọi là Chánh pháp tức là vi mật tạng của Như Lai. Vậy nên ta phải hộ trì kiến lập”. Bố thí cho người này thì được thắng quả báo. Này thiện nam tử! Ví như người con gái mang thai gần sinh, gặp nước loạn lạc, tránh xa đến nước khác. Ở tại một ngôi miếu thờ trời, nàng liền sinh con và nuôi dưỡng. Về sau, nghe nước cũ yên ổn, giàu thịnh, nàng mang con mình muốn trở về quê cũ. Ðường đi phải qua sông Hằng, nước lớn chảy xiết mà phải bồng con, chẳng thể qua sông được, nàng liền tự nghĩ rằng : “Ta thà cùng con chung mạng chung một chỗ, chứ chẳng bỏ con mà qua sông một mình”. Nghĩ thế rồi nàng cùng con đều chìm chết. Sau khi mạng chung nàng liền sinh lên trời. Do từ niệm đến con, muốn khiến cho con được qua sông mà người con gái vốn tính tệ ác đó, nhờ lòng thương con nên được sinh lên trời. Người phạm bốn trọng cấm, năm tội vô gián mà sinh lòng hộ pháp cũng lại như vậy, tuy trước có làm nghiệp bất thiện, nhưng do hộ pháp nên được làm ruộng phước vô thượng của thế gian. Người hộ pháp này có phước báo không lường như vậy.v.v...

Ông Thuần Ðà lại bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn! Nếu nhất xiển đề có thể tự cải hối cung kính, cúng dường, khen ngợi Tam bảo thì thí cho người như vậy có được đại quả báo không?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử! Ông nay chẳng nên nói lời như vậy! Này thiện nam tử! Ví như có người ăn trái cây Am La, nhả hạt xuống đất mà lại nghĩ rằng : “Trong hạt trái này chắc có vị ngọt!” Hắn liền lấy trở lại, đập vỡ mà ăn. Vị của hạt ấy rất đắng, lòng sinh ra hối hận. Hắn sợ mất giống trái cây liền thu thập lại những hạt vỡ ấy, rồi gieo vào đất, siêng năng gia công sửa trị, dùng váng sữa, dầu và sữa để tùy lúc tưới bón. Ý ông thế nào? Có chắc những hạt ấy mọc được không?

- Thưa đức Thế Tôn! Không vậy! Giả sử trời mưa xuống nước cam lộ vô thượng còn cũng chẳng mọc được!

- Này thiện nam tử! Nhất xiển đề kia cũng lại như vậy, đã thiêu đốt, tiêu diệt hết căn lành thì sẽ ở chỗ nào mà được trừ diệt tội. Này thiện nam tử! Nếu người sinh lòng thiện thì đó chẳng gọi là nhất xiển đề vậy. Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên tất cả sự bố thíquả báo sở đắc chẳng phải không sai biệt. Vì sao vậy? Vì bố thí cho Thanh Văn thì quả báo sở đắc khác, bố thí cho Bích Chi Phật được quả báo cũng khác, chỉ có cúng dường cho Như Lai là thu hoạch được quả Vô thượng. Vậy nên nói rằng, tất cả sự bố thí chẳng phải không sai khác.

Ông Thuần Ðà lại nói rằng :

- Vì sao đức Như Lai nói bài kệ này?

Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :

- Vì có nhân duyên nên ta nói bài kệ này! Trong thành Vương Xá có một người Ưu bà tắc, lòng không tịnh tín, phụng sự giáo phái Ni-Kiền mà đến hỏi ta về ý nghĩa của Bố thí. Do nhân duyên này nên ta nói bài kệ đó, ta cũng vì những vị đại Bồ tát nói nghĩa của bí tạng. Như bài kệ ấy thì nghĩa ấy thế nào? Tất cả là một phần ít tất cả! Ông phải biết rằng, đại Bồ tát là kẻ hùng trong loài người, nhiếp lấy kẻ trì giớibố thí sự cần dùng cho họ, xả bỏ kẻ phá giới như trừ bỏ cỏ bông kê.

Lại nữa, này thiện nam tử! Như ta thuở xưa đã nói kệ rằng :

Tất cả sông nước Ắt có khúc quanh

Tất cả rừng rậm Ắt cây có danh

Tất cả người nữ Ắt lòng dối quanh (siểm khúc) Tất cả tự tại Ắt thọ an lành (lạc an).

Lúc bấy giờ, đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi liền đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, trước lễ dưới chân đức Phật mà nói kệ rằng :

Chẳng phải mọi sông Khúc quanh ắt có

Chẳng phải mọi rừng Ðều có danh mộc

Chẳng phải nữ nhân Ðều dạ siểm khúc

Mọi Tự Tại Tôn Chẳng ắt thọ lạc.

Bài kệ đức Phật đã nói, nghĩa ấy có khác. Nguyện xin ngài rũ lòng thương xót nói lên cái nhân duyên ấy! Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn! Ở ba ngàn đại thiên thế giới này có châu tên là Câu Gia Ni. Châu ấy có sông ngay thẳng chẳng quanh co tên là Ta Bà Gia. Nó giống như sợi dây thẳng, chảy vào biển phía Tây. Như vậy tướng dòng sông này khác với trong Kinh mà đức Phật chưa từng nói. Nguyện xin đức Như Lai nhân trong Kinh Phương Ðẳng A Hàm này, nói có nghĩa khác khiến cho các Bồ tát tín giải sâu sắc vấn đề đó. Thưa đức Thế Tôn! Ví như có người trước biết quặng vàng mà sau chẳng nhận thức được vàng. Ðức Như Lai cũng vậy, biết hết pháp rồi mà sự diễn nói có cái khác chẳng hết. Ðức Như Lai tuy nói lời nói khác như vậy nhưng cần phải phương tiện lý giải ý thú của vấn đề ấy. Tất cả rừng rậm nhất định là cây cối nhưng rừng đó cũng có cái khác. Vì sao vậy? Vì đủ thứ cây báu như vàng, bạc, lưu ly... đó cũng gọi là rừng. Tất cả nữ nhân nhất định mang lòng dua nịnh quanh co. Ðiều này cũng có khác. Vì sao vậy? Vì cũng có nữ nhân giỏi gìn giữ cấm giới, thành tựu công đức, có đại từ bi. Tất cả đấng tự Tại nhất định hưởng thọ an vui. Ðiều này cũng có khác. Vì sao vậy? Vì có đấng Tự Tại là vua Chuyển Luân Thánh, là pháp vương Như Lai chẳng thuộc phạm vi ma chết, chẳng thể diệt tận. Còn Phạm Vương, Ðế Thích, Chư Thiên... tuy được tự tại nhưng đều là vô thường. Nếu được thường trụ, không biến dị thì mới gọi là tự tại như là Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn.

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử! Ông nay giỏi được biện tài lạc thuyết! Nhưng ông hãy dừng lại, lắng nghe! Này Văn Thù Sư Lợi! Ví như ông trưởng giả, thân mắc bệnh khổ. Lương y chẩn bệnh, rồi vì ông hòa hợp thuốc cao. Khi đó, người bịnh tham muốn uống nhiều thuốc. Vị lương y nói với người bệnh rằng : “Nếu người có thể tiêu hóa thì có thể uống tùy ý. Ông nay thân thể gầy yếu, chẳng nên uống nhiều. Ông phải biết thuốc cao này cũng gọi cam lộ mà cũng gọi là thuốc độc. Nếu uống nhiều mà chẳng tiêu hóa thì gọi là độc dược!”. Này thiện nam tử! Ông nay chớ cho là lời nói của vị thầy thuốc đó trái với nghĩa lý, làm tổn thất thế lực của thuốc cao. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, vì các quốc vương, hậu phi, thái tử, vương tử, đại thần... nhân vương tử, hậu phi... của vua Ba tư Nặc có lòng kiêu mạn mà vì muốn điều phục nên thị hiện sự khủng bố như vị lương y kia, nên nói kệ rằng :

Tất cả sông nước Ắt có khúc quanh

Tất cả rừng rậm Ắt cây có danh

Tất cả người nữ Ắt lòng dối quanh

Tất cả Tự Tại Ắt thọ an lành.

Này Văn Thù Sư Lợi! Ông nay phải biết, lời nói của Như Lai không có sai lầm. Như đất đai này có thể làm cho lật úp, nhưng lời nói của Như Lai nhất định không sai lầm! Do nghĩa này nên lời nói của Như Lai, tất cả hữu dư.

Lúc bấy giờ, đức Phật khen ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :

- Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông biết ý nghĩa như vậy đã lâu nhưng vì thương xót tất cả, muốn khiến cho chúng sinh được trí tuệ nên rộng hỏi Như Lai về ý nghĩa của bài kệ như vậy!

Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử lại ở trước đức Phật mà nói kệ rằng :

Với lời người khác Ø Chẳng nghịch, thuận tùng

Cũng chẳng quán khác Tác dùng bất tác

Chỉ tự quán thân Hành thiện, bất thiện.

Như vậy, đức Thế Tôn nói pháp dược này chẳng phải là chánh thuyết mà chỉ đối với lời nói người khác thuận theo, chẳng nghịch lại thôi! Nguyện xin đức Như Lai rũ lòng thương nói lời chân chánh! Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn! Vì ngài thường nói, tất cả chín mươi lăm thứ ngoại học, đều hướng đến con đường ác. Các đệ tử Thanh Văn đều hướng về đường chánh như hộ trì cấm giới, nhiếp lấy oai nghi, giữ gìn cẩn thận các căn. Nhưng người như vậy ưa thích Ðại pháp sâu sắc, hướng đến Thiện đạo mà vì sao đức Như Lai ở trong chính bộ Kinh, thấy có người hủy báng người khác thì liền quở trách? Như vậy ý nghĩa bài kệ là hướng đến chỗ nào?

Ðức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :

- Này thiện nam tử! Ta nói bài kệ này cũng chẳng vì hết tất cả chúng sinh! Bấy giờ ta chỉ vì vua A Xà Thế. Các đức Phật Thế Tôn, nếu không nhân duyên thì nhất định chẳng nói nghịch, vì có nhân duyên nên mới nói vậy! Này thiện nam tử! Vua A xà Thế hại cha ông ấy rồi đi đến chỗ của ta, muốn chiết phục ta mà hỏi như vầy : “Thưa đức Thế Tôn! Thế nào? Nhất thiết trí này chẳng phải là Nhất thiết trí sao? Nếu là Nhất thiết trí thì ông Ðiều Ðạt thuở xưa, trong vô lượng đời, thường mang lòng ác, theo đuổi đức Như Lai, muốn làm nghịch hại ngài mà vì sao đức Như Lai còn cho ông ấy xuất gia?” Này thiện nam tử! Do nhân duyên này nên ta vì vị vua đó mà nói kệ này :

Với lời người khác Chẳng nghịch, thuận tùng

Cũng chẳng quán khác Tác dùng bất tác

Chỉ tự quán thân Hành thiện, bất thiện.

Phật bảo rằng : “Này đại vương! Ông nay hại cha, đã tạo tác tội nghịch vô gián rất nặng nên phải phát lồ để cầu thanh tịnh thì còn duyên vào đâu mới lại thấy tội lỗi của người khác?” Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên ta vì vị vua đó mà nói bài kệ này. Lại nữa, này thiện nam tử! Cũng vì hộ trì người chẳng hủy cấm giới thành tựu uy nghi, thấy lỗi người khác mà ta nói bài kệ đó. Nếu lại có người thọ lời dạy bảo của người khác, xa lìa mọi ác, lại dạy người khác xa lìa mọi ác thì người như vậy tức là đệ tử của ta!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì ngài Văn Thù Sư Lợi, lại nói kệ rằng :

Tất cả sợ gậy, dao Không ai chẳng yêu mạng

Lấy mình mà suy ra Chớ giết, chớ đánh trượng.

Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi lại ở trước đức Phật mà nói kệ rằng:

Phi tất cả sợ dao (gậy) Phi tất cả yêu mạng

(Phi tất cả : chẳng phải tất cả...) 

Lấy mình mà suy ra Siêng làm Thiện phương tiện.

Ðức Như Lai nói ý nghĩa câu pháp này cũng là chưa hết! Vì sao vậy? Vì như A la hán, Chuyển Luân Thánh Vương, ngọc nữ, voi ngựa, chủ tạng đại thần mà những trời, người và a tu la cầm gươm bén có thể hại họ được thì không có điều này. Dũng sĩ, liệt nữ, vua ngựa, chúa thú, Tỳ kheo trì giới, tuy đến đối mặt nhau mà chẳng kinh sợ. Do nghĩa này nên đức Như Lai nói kệ cũng là hữu dư. Nếu nói rằng, suy mình ra có thể làm ví dụ thì tức là cũng hữu dư. Vì sao vậy? Vì nếu khiến A la hán lấy mình ví cho người kia thì có ngã tưởng và cả mạng tưởng. Nếu có ngã tưởng và cả mạng tưởng thì nên ủng hộ. Phàm phu cũng nên thấy A la hán đều là người tu hành. Nếu như vậy thì tức là tà kiến. Nếu có tà kiến thì mạng chung ứng sinh vào địa ngục A Tỳ. Lại, A la hán giả sử đối với chúng sinh phát sinh lòng hại thì không có điều này. Vô lượng chúng sinh cũng lại không thể hại A la hán.

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử! Nói ngã tưởng là nói đối với chúng sinh phát sinh lòng đại bi, không có tư tưởng giết hại; là nói A la hán có lòng bình đẳng. Ông chớ cho là đức Thế Tôn không có nhân duyên mà nói nghịch vậy. Ngày xưa ở trong thành Vương Xá của vị vua này có người thợ săn bậc thầy giết nhiều bầy nai, mời ta ăn thịt. Bấy giờ, ta tuy nhận lời mời của người đó, nhưng đối với các chúng sinh phát sinh lòng từ bi như thương La Hầu La mà nói kệ rằng :

Sẽ khiến ngươi trường thọ Mãi mãi trụ thế gian

Thọ trì pháp chẳng hại Như thọ mạng Thế Tôn.

Vậy nên ta nói bài kệ này :

Tất cả sợ gậy dao Không ai chẳng yêu mạng

Lấy mình mà suy ra Chớ giết, chớ đánh trượng.

Ðức Phật dạy rằng :

- Hay thay! Hay thay! Này Văn Thù Sư Lợi! Ông vì các vị đại Bồ tát nên hỏi han Như Lai về mật giáo như vậy!

Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi lại nói kệ rằng :

Sao gọi kính cha mẹ Thuận theo mà trọng tôn?

Pháp này sao tu tập Mà đọa ngục Vô gian (Vô gián)?

Ðến đây, đức Như Lai dùng kệ đáp :

Nếu mẹ là tham ái   Vô minh lấy làm cha

Thuận theo tôn trọng đó Thì đọa ngục A tỳ.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai lại vì ngài Văn Thù Sư Lợi, một lần nữa nói kệ rằng :

Tất cả thuộc người (lệ thuộc người khác) Thì gọi là khổ

Do mình tất cả Tự tại lạc an

Tất cả kiêu mạn Thế (lực) rất bạo tàn.

Những người hiền thiện Tất cả yêu thương.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn! Lời nói này của đức Như Lai cũng chẳng hết! Nguyện xin đức Như Lai lại rũ lòng thương xót nói về nhân duyên ấy. Vì sao vậy? Vì như con ông trưởng giả khi theo thầy học thì có bị lệ thuộc thầy không? Nếu lệ thuộc thầy thì nghĩa chẳng thành tựu, nếu chẳng lệ thuộc thì cũng chẳng thành tựu, nếu được tự tại cũng chẳng thành tựu. Vậy nên lời nói của Như Lai hữu dư! Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Ví như vị vương tử không có sự tập quen mọi việc, khi chạm đến việc thì chẳng thành. Ðó cũng là tự tại nhưng ngu tối thường khổ. Như vậy vương tử đó nếu nói tự tại thì nghĩa cũng chẳng thành, hoặc nói rằng lệ thuộc người khác thì nghĩa cũng chẳng thành. Do nghĩa này nên nghĩa của lời nói đức Phật gọi là hữu dư. Vậy nên tất cả lệ thuộc người khác chẳng nhất định là thọ khổ và tất cả tự tại chẳng nhất địnhthọ lạc (vui). Tất cả kiêu mạn thế lực rất bạo ác là cũng hữu dư! Thưa đức Thế Tôn! Như các liệt nữ lòng kiêu mạn nên xuất gia học đạo, hộ trì cấm giới, thành tựu uy nghi, nhiếp giữ các căn chẳng cho dong ruỗi tán loạn. Vậy nên tất cả kết sử kiêu mạn chẳng nhất địnhbạo ác. Người hiền thiện được tất cả ái niệm là cũng hữu dư. Như người, bên trong phạm bốn trọng cấm rồi mà chẳng bỏ pháp phục, kiên trì uy nghi người hộ trì Chánh pháp thấy được rồi thì chẳng ái niệm người đó, sau khi mạng chung còn bị đọa vào địa ngục. Nếu có người tốt phạm bốn trọng cấm rồi mà người hộ pháp thấy liền đuổi ra, bãi đạo hoàn tục. Do nghĩa này nên tất cả hiền thiện chẳng nhất định là đều được ái niệm.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :

- Có nhân duyên nên Như Lai nói đến nghĩa hữu dư này. Lại có nhân duyên nên các đức Phật Như Lai nói pháp này. Ở thành Vương xá có một người con gái tên là Thiện Hiền, trở về nhà cha mẹ, nhân đến chỗ ta, qui y với ta và Pháp cùng chúng Tăng mà nói lên rằng : “Thế của tất cả nữ nhân chẳng tự do còn tất cả nam tử tự tại vô ngại”. Bấy giờ, ta biết lòng của người con gái này, liền vì cô ấy tuyên nói bài kệ tụng như vậy. Này Văn Thù Sư Lợi! Hay thay! Hay thay! Ông nay có thể vì tất cả chúng sinh hỏi về mật ngữ như vậy của Như Lai!

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại nói kệ rằng :

Tất cả những chúng sinh Ðều nương ăn uống sống (còn)

Tất cả có sức lớn (to) Lòng ấy không ghét ghen.

Tất cả nhân ăn uống Mà bịnh khổ vương mang.

Tất cả tu tịnh hạnh Mà được thọ lạc an.

Như vậy, thưa đức Thế Tôn! Hôm nay ngài thọ bữa ăn cúng dường của ông Thuần Ðà thì chúng sẽ không có sự kinh sợ cho đức Như Lai sao?

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại vì ngài Văn Thù mà nói kệ rằng:

Chẳng phải mọi chúng sinh Ðều nương ăn uống sống.

Chẳng phải mọi sức lớn Lòng đều không ghét ghen.

Chẳng phải mọi nhân ăn Mà bị các khổ bệnh.

Chẳng phải mọi tịnh hạnh Ðều được thọ lạc an.

Này Văn Thù Sư Lợi! Nếu ông bị bệnh thì ta cũng như vậy, mà bịnh khổ theo. Vì sao vậy? Vì các A la hánBích Chi Phật, Bồ tát, Như Lai thật ra không có sự ăn uống, nhưng vì muốn hóa độ những chúng sinh kia nên thị hiện thọ dụng vô lượng vật bố thí của chúng sinh, khiến cho những người ấy đầy đủ Ðàn Balamật, cứu vớt địa ngục, súc sinh và ngã quỉ. Nếu nói rằng, Như Lai sáu năm khổ hạnh, thân hình gầy còm thì không có điều này. Các đức Phật Thế Tôn một mình cứu vớt các cõi mà chẳng đồng với hạng phàm phu thì sao mà được tấm thân gầy yếu vậy? Các đức Phật Thế Tôn tinh cần tu tập, thu hoạch được thân Kim Cương chẳng đồng với tấm thân nguy khốn dễ tan vỡ của người đời. Những đệ tử của ta cũng lại như vậy, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng nương vào ăn uống. Tất cả đại lực không ghen ghét thì cũng là nghĩa hữu dư. Như người thế gian trọn đời vĩnh viễn không có lòng ganh ghét mà không có đại lực. Tất cả bệnh khổ nhân ăn uống có được thì cũng là nghĩa hữu dư. Vì ta cũng thấy có người bị bệnh do khách quan như là dao, gươm,, mâu, kích đâm chém. Tất cả người tịnh hạnh đều thọ yên vui thì cũng là nghĩa hữu dư. Thế gian cũng có người ngoại đạo tu hành phạm hạnh, chịu nhiều khổ não. Do nghĩa này nên lời nói của Như Lai tất cả là hữu dư. Ðó gọi là Như Lai chẳng phải không nhân duyên mà nói kệ này. Vì có nhân duyên nên nói! Ngày xưa ở nước Ưu Thiền Ni này, có vị Bàlamôn tên là Cổ Ðê Ðức đi đến chỗ của ta, muốn thọ lần thứ tư pháp Bát Giới Trai. Lúc bấy giờ, ta vì ông ấy nói bài kệ này.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là nghĩa vô dư vậy? Sao gọi là nghĩa tất cả?

- Này thiện nam tử! Tất cả là chỉ trừ người trợ đạo, thường ưa thiện pháp. Ðó gọi là tất cả, cũng gọi là vô dư, là muốn khiến cho các thiện nam tử ưa pháp biết nghĩa hữu dưvô dư này.

Bồ tát Ca Diếp, lòng rất vui mừng, hớn hở không lường, trước bạch đức Phật rằng :

- Rất lạ thay! Ðức Thế Tôn bình đẳng nhìn chúng sinh như La Hầu La!

Bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp rằng :

- Hay thay! Hay thay! Sự thấy của ông hôm nay thậm thâm, vi diệu!

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin đức Như Lai nói về công đức sở đắc của Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này!

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Này thiện nam tử! Nếu có người được nghe danh tự kinh này thì công đức sở đắc chẳng phải là điều có thể tuyên nói của các Thanh Văn, Bích Chi Phật, chỉ có Phật mới có thể biết. Vì sao vậy? Vì chẳng thể nghĩ bàn, vì chính là cảnh giới của Phật. Huống gì là công đức của người thọ trì, đọc tụng thông lợi và ghi chép thành kinh quyển.

Lúc bấy giờ, chư thiên, người đời và A tu la liền ở trước đức Phật, khác miệng đồng âm, mà nói kệ rằng :

Chư Phật khó nghĩ bàn Pháp, Tăng lại cũng vậy

Vậy nên nay mời khuyên Nguyện xin chút dừng trụ

Ðợi tôn giả A Nan Và ngài Ðại Ca Diếp

Quyến thuộc hai chúng trên Chẳng bao lâu sẽ đến.

Cùng A Xà Thế Vương Quốc chủ nước Ma Kiệt

Kính tin Phật hết lòng Nơi này còn chưa đến

Nguyện xin Phật Thế Tôn Rũ lòng thương xót trụ,

Ở trong chúng này, xin Ðoạn con những nghi võng (lưới nghi).

Lúc bấy giờ, đức Như Lai vì các đại chúng mà nói kệ rằng :

Trưởng tử pháp Thế Tôn Tên là Ðại Ca Diếp

A Nan tinh cần Hay đoạn mọi nghi hoặc

Các ông xem kỹ càng A Nan đa văn sĩ

Tự nhiên sẽ giải thông Thường và vô thường đó!

Do vậy mà chẳng nên Lòng mang ưu não lớn!

Lúc bấy giờ, đại chúng đem đủ thứ đồ vật cúng dường đức Như Lai. Cúng dường đức Phật rồi, họ liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giácvô lượng vô biên hằng hà sa số những Bồ tát .v.v.. được trụ ở bậc Sơ địa. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn cùng với ngài Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Ca Diếp và cùng với ông Thuần Ðà mà thọ ký biệt. Trao ký biệt xong, đức Phật nói như vầy :

- Này các thiện nam tử! Các ông hãy tự sửa lấy lòng mình, cẩn thận chớ buông lung! Bệnh đau lưng của ta hôm nay làm toàn thân đều đau nhức. Ta nay muốn nằm nghỉ như đứa trẻ kia và như người bệnh hoạn thường. Này Văn Thù! Các ông phải vì bốn bộ chúng diễn nói Ðại Pháp rộng rãi. Nay ta đem pháp này phó chúc cho ông! Cho đến khi Ca DiếpA Nan đến thì ông lại phải đem chánh pháp như vậy phó chúc cho họ.

Bấy giờ, khi đức Như Lai nói lời này rồi, vì muốn điều phục các chúng sinh nên ngài hiện thân có bệnh, nghiêng hông phải mà nằm như người bệnh vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12078)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10777)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15358)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11259)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12120)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10629)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11648)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12779)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18028)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11183)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13070)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15327)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant